Đừng bị ám ảnh bởi chứng hoang tưởng tả khuynh

Hoàng Dũng

Các tác giả của bản kiến nghị (11 người chứ không phải 12 như ban đầu vì PGS TS Nguyễn Tiến Dũng cho biết ông bị ghi tên khống vào văn bản kiến nghị, bất chấp ông đã nói rõ không đồng ý) chủ trương loại bỏ Francisco de Pina và Alexandre de Rhodes ra khỏi danh sách đặt tên đường, trường học ở Đà Nẵng, đưa ra mấy lý do sau: 1. Alexandre de Rhodes không phải là người chế tác chữ Quốc ngữ; 2. Alexandre de Rhodes công kích Nho, Lão, Phật; và 3. Alexandre de Rhodes “âm mưu dẫn quân viễn chinh Pháp tới xâm lược nước ta”.

Tôi sẽ lần lượt bàn về cả ba lý do đó.

Về lý do thứ nhất: Ngày nay giới nghiên cứu dễ dàng đồng ý với nhau rằng chữ Quốc ngữ không phải là sản phẩm của Alexandre de Rhodes và Từ điển Việt Bồ La của ông đã thừa hưởng công lao của những giáo sĩ đi trước. Nhưng không có nhà nghiên cứu hiểu biết nào lại sổ toẹt công lao của Alexandre de Rhodes đối với chữ Quốc ngữ. Từ điển Việt Bồ La ghi một cái mốc quan trọng trong lịch sử chữ Quốc ngữ, nhất là trong điều kiện hai cuốn từ điển Việt Bồ của Gaspar de Amaral và Bồ Việt của Antonio Barbosa đã thất truyền, đó là sự thực mà chỉ những ai cố tình lịch sử nhắm mắt trước lịch sử mới có thể phủ nhận.

Về lý do thứ hai: Cũng dễ dàng đồng ý quả nhiên Alexandre de Rhodes chê bai nặng lời các tôn giáo khác. Nhưng đó là hạn chế khó tránh không phải chỉ riêng Alexandre de Rhodes. Cần nhớ ông sống cách đây bốn trăm năm và đừng đứng trên quan điểm của thế kỷ 21 để gò người xưa vào khuôn khổ tư tưởng ngày nay. Có lẽ nào chúng ta không cần biết ơn một người do họ có hạn chế về tư tưởng? Ngày nay gần như không có một đô thị nào trong nước không có tên đường Lê Thánh Tôn. Thế mà chính Lê Thánh Tôn chủ trương độc quyền tư tưởng Tống Nho và thi hành chính sách hạn chế Phật giáo, đến nỗi Trần Quốc Vượng phải phê phán: “Phải công nhận triều Lê mê tín Tống Nho đến thế là cùng” (Trần Quốc Vượng, “Về Lê Thánh Tông – mấy điều giải ảo hiện thực lịch sử Việt Nam thế kỷ XV”, trong Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) 1998. Hoàng đế Lê Thánh Tông – nhà chính trị tài năng, nhà văn hoá lỗi lạc, nhà thơ lớn. Hà Nội: Khoa học xã hội). Có nên vin vào cớ này để xóa tên đường Lê Thánh Tôn hay không?

Về lý do thứ ba: Đây là lý do quan trọng nhất. Các tác giả bản kiến nghị dẫn câu sau đây của Alexandre de Rhodes trong cuốn Divers voyages et missions (Các cuộc hành trình và truyền giáo), xuất bản tại Paris năm 1653: “J’ai cru que la France, étant le plus pieux royaume du monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conquête de tout l’Orient, pour l’assujettir à Jésus Christ” [lẽ ra, nếu trích cho trọn câu thì phải thêm “[…] et particulièrement que j’y trouverais moyen d’avoir des évêques, qui fussent nos pères et nos maitres en ces églises.”] với lời dịch của giáo sư Hoàng Tuệ: “Tôi nghĩ nước Pháp, vương quốc mộ đạo nhất, có thể cấp cho tôi binh lính để chinh phục toàn phương Đông, đặt nó dưới quyền Jésus Christ”, từ đó khẳng định: “[…] Alexandre de Rhodes là người có ý định xin vua Louis XIV của Pháp cung cấp binh lính để chinh phục phương Đông”.

Chỉ xin nhắc lại đôi ba sự kiện liên quan. Nhà nghiên cứu Nguyễn Ðình Ðầu đã dịch lại: “Tôi tin rằng nước Pháp là nước ngoan đạo nhất thế giới, sẽ cung cấp cho tôi nhiều chiến sĩ để chinh phục toàn phương Ðông và đặt dưới quyền trị vì của Ðức Giêsu Kitô, và đặc biệt tại Pháp, tôi sẽ tìm cách có được Giám mục, các ngài sẽ là cha và là thầy chúng tôi tại các Giáo hội này” (tức là Ðàng Ngoài và Ðàng Trong). Ông Nguyễn Ðình Ðầu nói thêm: “Nếu đọc nguyên đoạn trích trên đây, ta mới hiểu chữ chiến sĩ có nghĩa bóng là thừa sai (đối với giám mục là cha và thầy họ). Còn “chinh phục toàn phương Ðông” là để cho “nước Cha trị đến”, chứ không phải để cho Pháp đến thống trị. “Chinh phục” hiểu theo nghĩa tôn giáo, chứ không phải chính trị. Vì ngộ nhận trên, người ta mới gán cho chữ Quốc ngữ “còn có ý nghĩa chính trị” vậy!

Hồng Nhuệ (trong cuốn Hành trình và truyền giáo do Ủy ban Ðoàn kết Công giáo Thành phố Hồ Chí Minh xuất bản năm 1994, ở trang 263, 289) thì dịch: “Tôi tưởng nước Pháp là một nước đạo đức nhất thế giới, nước Pháp có thể cung cấp cho tôi mấy chiến sĩ đi chinh phục toàn cõi Ðông phương đưa về qui phục Chúa Kitô và nhất là tôi sẽ tìm được các giám mục, cha chúng tôi và thầy chúng tôi trong các giáo đoàn.” Và chú thích từ chiến sĩ ở đây: “Nói chiến sĩ Phúc Âm tức là các nhà truyền giáo, chứ không phải binh sĩ đi chiếm xứ xâm lăng”.

Cần lưu ý vào cuối tháng 3-1993, tại một cuộc Hội thảo “Tưởng niệm Alexandre de Rhodes, nhân 400 năm ngày sinh của ông” do Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam tổ chức tại Hội trường Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam, Giáo sư Ðinh Xuân Lâm đề cập câu trên đây của Alexandre de Rhodes và dịch lại plusieurs soldats là “chiến sĩ truyền giáo”, coi như “lần cuối cùng đính chính lại sự lầm lẫn”.

Chính Chương Thâu (trong bài “Từ một câu chữ của Alexandre de Rhodes đến các dẫn dụng khác nhau”. Tạp chí Công giáo và Dân tộc ngày 15.3.1996), sau khi thuật lại những cách hiểu khác nhau về câu của Alexandre de Rhodes, đã kết luận: “Tóm lại, trở về chủ đề của bài viết này, ý kiến cá nhân tôi, sau khi phân tích so sánh các câu dẫn dụng từ một câu dịch nguyên văn của A. de Rhodes, tôi đồng ý với cách diễn giải của Hồng Nhuệ và của Nguyễn Ðình Ðầu. Ðọc kỹ toàn văn cuốn Hành trình và truyền giáo, chúng ta dễ dàng nhận thấy tư tưởng và nguyện vọng của nhà truyền giáo A. de Rhodes ở thế kỷ XVII này.”

Tôi lấy làm lạ: Trong 11 người ký tên, có đến bảy người chuyên về lịch sử, há chẳng biết câu trên đã được giới nghiên cứu lịch sử bàn luận ra sao? Ít nhất họ cũng phải thấy có nhiều người, mà toàn những vị có uy tín học thuật, hiểu khác họ, thì không thể tùy tiện dựa vào cách hiểu của mình để lên án người xưa như thế.

Tôi đã phân tích không tránh né cả ba lý do. Nhưng vẫn thấy cần nói thêm: về mặt logic, đây là một văn bản viết cẩu thả. Kiến nghị đòi loại bỏ cả Francisco de Pina, nhưng nội dung chỉ tập trung vào Alexandre de Rhodes! Các vị không thấy cái lỗi sơ đẳng ấy sao?

Chữ Quốc ngữ đã là một thực thể trong văn hóa Việt Nam, muốn loại bỏ nó là một điều bất khả. Đầu thế kỷ 20, Đông Kinh nghĩa thục cổ động: “Chữ Quốc ngữ là hồn trong nước / Phải đem ra tính trước dân ta”. Một tuần sau khi đọc Tuyên ngôn độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã ký sắc lệnh cưỡng bức học chữ Quốc ngữ, coi là một bước quan trọng để diệt giặc dốt, trong điều kiện 95% dân số mù chữ. Và ngay cả bản kiến nghị của các vị cũng viết bằng chữ Quốc ngữ, chứ không phải chữ Nôm. Tất nhiên các vị giáo sĩ chế tác ra chữ Quốc ngữ chỉ để truyền giáo. Nhưng lẽ nào người Việt được hưởng ích lợi của chữ Quốc ngữ lại tỏ ra vô ơn do bị ám ảnh bởi chứng hoang tưởng tả khuynh?

PHỤ LỤC 1:

CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
Độc lập – Tự do – Hạnh phúc

———— oOo ————-

BẢN KIẾN NGHỊ
(V/v đặt tên đường ở Tp. Đà Nẵng)

Kính gửi: Thành ủy, Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
Thành phố Đà Nẵng

Đồng kính gửi: Sở Văn hoá và Thể thao Đà Nẵng

Ngày 23 tháng 10, năm 2019

Được biết Thành phố Đà Nẵng đang lấy ý kiến về đặt và đổi tên đường, trong đó điểm đáng chú ý là thành phố dự kiến lấy tên 2 linh mục là Alexandre de Rhodes và Francisco De Pina đặt tên cho 2 tuyến đường ở thành phố Đà Nẵng trong số 137 tuyến đường vào dịp này; chúng tôi, một số nhà nghiên cứu xin đề đạt đến các cấp lãnh đạo và quản lý thành phố một số ý kiến:

Thưa các đồng chí!

Dưới thời Pháp thuộc, thực dân Pháp muốn người dân thuộc địa biết ơn mẫu quốc đã có công “khai hóa”, nên tôn vinh Alexandre de Rhodes là người sáng tác chữ quốc ngữ. Sau ngày bại trận ở Điện Biên Phủ (7-5-1954), thực dân Pháp cuốn gói về nước, nhiều nhà nghiên cứu, trong đó có cả những linh mục, đã chứng minh Alexandre de Rhodes không phải là người sáng tác chữ quốc ngữ. Chúng tôi xin trích dẫn ý kiến của một số nhà nghiên cứu:

1.“Giáo-sĩ Đắc-Lộ (tức Alexandre de Rhodes) thật ra không phải là ông tổ và cũng không phải là ông tổ duy nhất của chữ quốc ngữ. Trước ông, đã có nhiều người đã cố gắng tìm cách phiên âm tiếng nói của dân Việt bằng vần La-tinh và chính ông cũng đã bao lần trong những tác phẩm của ông nói đến nhiều sách vở được viết ra trước ông bằng tiếng Việt (…). Và đồng thời với giáo sĩ Đắc-Lộ, chắc chắn cũng có nhiều giáo sĩ khác quan tâm đến vấn đề phiên âm: Đó là lẽ dĩ nhiên vì công cuộc phiên âm là một lợi khí rất lớn cho việc truyền giáo. Vậy thì không còn ai có thể bào chữa thuyết cho rằng giáo sĩ Đắc-Lộ là ông tổ và ông tổ duy nhất của chữ quốc ngữ” (Giáo sư, Tiến sĩ Trương Bửu Lâm, trong Việt Nam khảo cổ Tập san, số 2-1961, tr. 11).

2. “Đắc-Lộ không phải là người Âu châu đầu tiên học tiếng Việt, cũng không phải người đầu tiên sáng tác chữ quốc ngữ, hơn nữa, vào năm 1636 Đắc-Lộ cũng không phải là người ghi chữ quốc ngữ đúng được như một số Linh mục Dòng tên Bồ Đào Nha ở Việt Nam thời đó. Thật ra, trong giai đoạn thành hình chữ quốc ngữ, Đắc-Lộ chỉ góp một phần trong công việc quan trọng này, mà rõ rệt nhất là soạn sách chữ quốc ngữ và cho xuất bản đầu tiên” (Linh mục Đỗ Quang Chính, Lịch sử chữ quốc ngữ, Sài Gòn, 1972, tr. 78).

3. “Đắc Lộ đã tiếp thu, thừa kế, sắp đặt lại cho hoàn chỉnh tất cả các thành tựu của các nhà truyền giáo tiền phong hay đồng thời, dựa trên những trợ giúp quý giá, không thể thiếu được của các tín đồ người Việt tiếp xúc gần gũi với ông, chia sẻ chí hướng của ông (…). Thực sự công trình sáng tạo chữ quốc ngữ theo mẫu tự La Tinh là một công trình tổng hợp có tính chất tập thể quốc tế, trong đó Đắc Lộ là người đã có một vị trí cốt yếu khi sử dụng rộng rãi thứ chữ mới này trong các tác phẩm in trình bày những kiến thức sâu rộng. Các bậc thức giả như Dương Quảng Hàm, Đào Duy Anh, Nguyễn Khắc Xuyên, Thanh Lãng, Đỗ Quang Chính, Võ Long Tê đều khẳng định chữ quốc ngữ là một công cuộc chung của nhiều người” (Đỗ Hữu Nghiêm, Đắc Lộ trong lịch sử hình thành chữ quốc ngữ, báo Công giáo và dân tộc, số 798,17/3/1991, tr. 14).

4. “Giáo sĩ Đắc Lộ không những không phải là ông tổ duy nhất của chữ quốc ngữ mà cũng không phải là một trong các ông tổ của chữ quốc ngữ,… Sở dĩ Đắc Lộ về sau này được lịch sử nhắc nhở đến nhiều, có lẽ không phải vì ông đã có công kiện toàn chữ quốc ngữ cho bằng ông đã để lại hai quyển sách (tức Từ điển Việt – Bồ – La và Phép giảng tám ngày) được coi như tài liệu duy nhất về chữ quốc ngữ” (Linh mục Thanh Lãng, trích trong “Địa chí văn hóa Thành phố Hồ Chí Minh”, Nxb. Tp. HCM, 1988, tập II, tr. 136-137).

5. Và chính A. de Rhodes cũng đã viết: “Tuy nhiên trong công cuộc này, ngoài những điều mà tôi đã học được nhờ chính người bản xứ trong suốt gần mười hai năm, thời gian mà tôi lưu trú tại hai xứ Cô-sinh và Đông-kinh (tức Đàng Trong và Đàng Ngoài), thì ngay từ đầu tôi đã học với Cha Francisco de Pina người Bồ Đào Nha, thuộc Hội Dòng Giê-su rất nhỏ bé chúng tôi, là thầy dạy tiếng, người thứ nhất trong chúng tôi rất am tường tiếng này, và cũng là người thứ nhất bắt đầu giảng thuyết bằng phương ngữ đó mà không dùng thông ngôn, tôi cũng sử dụng những công trình của nhiều Cha khác cùng một Hội Dòng, nhất là của Cha Gaspar de Amaral và Cha Antonio Barbosa, cả hai ông đều đã biên soạn mỗi ông một cuốn từ điển: ông trước bắt đầu bằng tiếng An Nam (tức là từ điển Việt – Bồ), ông sau bằng tiếng Bồ – Đào (tức là từ điển Bồ – Việt), nhưng cả hai ông đều đã chết sớm. Sử dụng công khó của hai ông, tôi còn thêm tiếng La tinh theo lệnh các Hồng y rất đáng tôn,…” (Từ điển Annam – Lusitan – Latinh, tức Từ điển Việt – Bồ – La, Nxb. Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991, phần phiên dịch, tr. 3).

6. “Vậy rõ ràng A. de Rhodes không phải là người sáng chế ra chữ quốc ngữ. Chẳng những thế, ông ta cũng không phải là người châu Âu đầu tiên soạn từ điển về tiếng Việt vì trước ông ta đã có hai giáo sĩ Bồ Đào Nha là G. de Amaral và A. Barbosa. Ông ta chỉ thừa hưởng công trình của hai cố đạo kia rồi thêm tiếng La Tinh vào theo lệnh của Tòa thánh La Mã mà thôi,… Lời lẽ của chính đương sự rõ như ban ngày: A. de Rhodes làm sách bằng chữ quốc ngữ là để phụng sự cho việc truyền bá đức tin Ki-tô giáo, chứ tuyệt đối không vì bất cứ một lợi ích nhỏ nhoi nào của người Đại Việt cả. Người Việt Nam đã tận dụng chữ quốc ngữ, mà một số cố đạo đã đặt ra, với sự góp sức của một số con chiên người Đại Việt, để làm lợi khí cho việc giảng đạo, thành lợi khí của chính mình để phát triển văn hóa dân tộc, để chuyển tải một cách đầy hiệu lực những tư tưởng yêu nước và những phương thức đấu tranh nhằm lật đổ ách thống trị của thực dân Pháp. Đây chẳng qua là chuyện ‘gậy ông đập lưng ông’ mà thôi” (An Chi, “Alexandre de Rhodes không phải là người sáng tạo ra chữ Việt”, báo An ninh thế giới, 28-9-2010).

….

Thưa các đồng chí,

Lại nữa, Rhodes viết cuốn Phép giảng tám ngày bằng tiếng Việt nhằm mục đích truyền đạo Thiên Chúa giáo (Công giáo). Nhưng bên cạnh đó, ông đã sử dụng nhiều câu chữ thô bạo để công kích Tam giáo ở Việt Nam (Khổng giáo, Lão giáo và Phật giáo). Thật vậy, Khổng Tử được hầu hết người Á Đông xưng tụng là nhà hiền triết, là Vạn thế sư biểu, và nhiều học lý của Nho giáo vẫn còn giá trị đến ngày nay. Còn Phật Thích Ca được Liên hiệp quốc đánh giá là một vĩ nhân văn hóa của nhân loại. Thế nhưng, trong sách Phép giảng tám ngày, A. de Rhodes gọi Phật Thích Ca “là thằng hay dối người ta” và phê phán Khổng Tử “chẳng phải hiền, chẳng phải thánh, mà độc dữ”. Ông phê bình Nho, Lão, Phật: “Bởi Tam giáo này, như bởi nguồn độc, nhiều sự dối khác. Song le bắt mỗi sự dối ấy chẳng có làm chi, vì chưng biết là bởi đâu mà ra, cho hay tỏ tường là dối thì vừa. Như thế có chém cây nào độc cho ngã, các ngành cây ấy tự nhiên cũng ngã với. Vậy thì ta làm cho Thích Ca là thằng hay dối người ta, ngã xuống” (Aleaxandre de Rhodes, Phép giảng tám ngày, Tủ sách Ðại Kết, Tp. Hồ Chí Minh, 1993, trang 113, 115, 116).

Đặc biệt, Alexandre de Rhodes là người có ý định xin vua Louis XIV của Pháp cung cấp binh lính để chinh phục phương Đông. Trong cuốn Divers voyages et missions (Các cuộc hành trình và truyền giáo), xuất bản tại Paris năm 1653, ở đoạn cuối chương 19, phần thứ 3, Alexandre de Rhodes viết: “J’ai cru que la France, étant le plus pieux royaume du monde, me fournirait plusieurs soldats qui aillent à la conquête de tout l’Orient, pour l’assujetter à Jésus Christ”. Trong bài viết “Ai làm ra chữ quốc ngữ?” đăng trên báo Tuổi Trẻ ngày 31-1-1993, Giáo sư Hoàng Tuệ đã dịch câu đó như sau: “Tôi nghĩ nước Pháp, vương quốc mộ đạo nhất, có thể cấp cho tôi binh lính để chinh phục toàn phương Đông, đặt nó dưới quyền Jésus Christ”.

Chính vì thấy những ý định không tốt của A. de Rhodes (chống đối truyền thống thờ cúng tổ tiên của dân tộc, chia rẽ tinh thần đoàn kết giữa đồng bào lương và giáo, âm mưu dẫn quân viễn chinh Pháp tới xâm lược nước ta…) nên cả chúa Nguyễn ở Đàng Trong lẫn chúa Trịnh ở Đàng Ngoài đều đã trục xuất A. de Rhodes, không cho ông ta cư trú và hoạt động ở Việt Nam. Vì những lẽ trên, ở miền Bắc sau 1954 và ở miền Nam sau 1975, các đường phố, trường học,… mang tên A. de Rhodes (do thực dân Pháp hay chính quyền Việt Nam Công hoà đặt) đều bị xóa. Gần đây, một số người lặp lại luận điệu sai trái của thực dân trước đây để đòi phục hồi tên của A. de Rhodes, nhằm những ý đồ chính trị hay tôn giáo của họ.

Chúng tôi khẳng định: “A. de Rhodes không phải là người sáng chế ra chữ quốc ngữ,..”. Trái lại đối với dân tộc Việt Nam, Rhodes là kẻ có tội thì làm sao vinh danh, đặt tên đường được. Quan điểm của các sử gia Việt Nam là quá rõ: “Sau hàng thế kỷ trường kỳ mai phục bằng hội Truyền Giáo đối ngoại, tới đây tư bản Pháp đã nắm được thời cơ can thiệp thẳng vào Việt Nam. Đó là cái mà các sử gia triều đình phong kiến thực dân gọi là “công nghiệp” của Pi-nhô đờ Bê-hen (Pigneau de Béhaine), người được Lu-i XVI phong tước công và cử làm đại sứ đặc mệnh toàn quyền bên cạnh Nguyễn Ánh và được Nguyễn Ánh tôn lên làm “cha cả” với chức thái phó tước quận công. Nhưng vai trò Bá Đa Lộc vốn chỉ là kẻ trực tiếp khiến cho tư bản Pháp nắm được Nguyễn Ánh, còn yếu tố quyết định đầu tiên là cả một quá trình hoạt động không biết mệt mỏi của hội Truyền Giáo đối ngoại nằm trong tay thế lực tư bản Pháp, vốn do Rốt sáng lập” (Hoàng Văn Lân, Đặng Huy Vận, Mưu đồ chính trị của A-lếch-xăng-đờ-rốt và vấn đề chữ quốc ngữ, Tạp chí Nghiên cứu Lịch sử, Viện Sử học, Viện Khoa học Xã hội Việt Nam, số 63, tháng 6, 1964, tr. 14-28).

Chúng tôi xin kiến nghị với Thành ủy, Hội đồng nhân dân và Uỷ ban Nhân dân Thành phố Đà Nẵng:

Không lấy tên hai giáo sĩ Alexandre de Rhodes và Francisco De Pina để đặt cho đường phố, trường học,…ở Đà Nẵng. Nếu đặt rồi thì thay bằng tên của những người Thiên Chúa giáo (Công giáo) yêu nước như linh mục Nguyễn Bá Kính (thời chống Pháp), Hồ Huệ Bá (thời chống Mỹ),…

Trân trọng!

phép giảng tám ngày

ĐỒNG KIẾN NGHỊ

1. PGS. TS. Lê Cung, Trường Đại học Sư phạm Huế, Địa chỉ: 18 Lê Hồng Phong, Huế; ĐT: 0914.202.343, email: lecungdhs@yahoo.com.

2. Nhà Nghiên cứu lịch sử và văn hoá Nguyễn Đắc Xuân, Địa chỉ: 3/7 Nguyễn Công Trứ, Huế, ĐT: 0914.203.944; email: gacnhieuloc@yahoo.com

3. PGS. TS. Trần Thuận, nguyên Phó Trưởng khoa, khoa Lịch sử, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn Tp. Hồ Chí Minh; ĐT: 0979.630.690, email: tranthuanxhnv@gmail.com

4. PGS. TS. Phạm Quốc Sử, Trưởng khoa lịch sử, Trường Đại học Thủ đô, Hà Nội; ĐT: 0913.571.617, email: suphamquoc@yahoo.com

5. PGS. TS. Nguyễn Tiến Dũng, nguyên Trưởng khoa Khoa Lý luận chính trị, trường Đại học Khoa học Huế, ĐT: 0384.915.555, email: ntdunghueuni@gmail.com

6. PGS. TS. Trương Công Huỳnh Kỳ, nguyên Trưởng khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Huế; Huế; ĐT: 0913.427.562.

7. TS. Phan Văn Hoàng, Trường Đại học Sư phạm Tp. Hồ Chí Minh, ĐT: 0937.212.549, email: phanvanhoang@gmail.com

8. Nhà Nghiên cứu Văn học dân gian: Trần Hoàng, Nhà giáo Ưu tú, nguyên Phó Trưởng khoa Văn, Trường Đại học Sư phạm Huế; ĐT: 0914.478.721.

9. Ths. Hà Văn Lưỡng, nguyên Trưởng Khoa Văn, Trưởng Đại học Khoa học Huế; ĐT: 0914.066.061, email: havanluongdhkh@gmail.com

10. Nhạc sĩ Chúc Linh, Địa chỉ: 21/7 Đường 2, Phường Hiệp Bình Phước, Q. Thủ Đức, TP. Hồ Chí Minh, Điện thoại: 0908.988940, Email: chuclinh.tavanson@gmail.com

11. PGS. TS. Nguyễn Tất Thắng, Chủ nhiệm Bộ môn Lịch sử Việt Nam, Khoa Lịch sử, Trường Đại học Sư phạm Huế, ĐT: 0914.025.002, email: tatthangsp@gmail.com

12. TS. Nguyễn Thị Thanh Huyền, Giảng viên chính, khoa Lý luận chính trị, trường Đại học Khoa học Huế, ĐT: 0915.665.531, email: ntthuyenhue@yahoo.com.vn

Nguồn: https://www.sachhiem.net/DOITHOAI/Rhodes.php

PHỤ LỤC 2: Ảnh chụp đoạn trích của Alexandre de Rhodes từ cuốn Divers voyages et missions (có thể tải ở đây)

Trong hình ảnh có thể có: văn bản

Comments are closed.