Những vòng tròn xiếc (kỳ 2)

Truyện Khuất Đẩu

xiếc của con

Cái chết của chị Mị Lan gây cho tôi một nỗi kinh hoàng hơn cả cái chết của con ngựa. Đầu tiên tôi mong sao có một phép lạ, như người ta thường cầu mong trong những khi tuyệt vọng, từ bàn tay thần diệu của các bác sĩ đang mổ xẻ khâu vá cho chị trong phòng lạnh. Phải chi hôm ấy chị đừng để tóc bay như mây chiều mà đội mũ cẩn thận, thì cái hộp sọ mỏng manh ấy đã không bị nứt khiến chị phải hôn mê. Lại còn xương cổ bị gãy, xương chân bị vỡ thì đến ông Trời kia cũng không cứu được chị nữa là bác sĩ!

Sau đó, tôi mơ màng trong mộng ảo rằng, chị đâu có đi mô tô bay, người con gái xinh đẹp đó đâu phải là chị và chị đang lặn dưới sông để trốn sự săn đuổi của một lão cha nuôi hắc ám. Dĩ nhiên tôi cũng chưa gặp chị, chưa hề hẹn nhau đi xi nê, và một hôm nào đó đang ngồi đánh giày nghe có người gọi: “Ê nhỏ, đánh giùm chị đôi guốc coi!”. “Đánh giày chứ không đánh guốc!”, tôi nói cộc lốc, sau đó nghe chị mắng: “Nhỏ này khó bảo quá ta!”, rồi chúng tôi ôm nhau mà cười.

Cái chết của chị cũng còn để lại cho tôi một mối thù cần phải trả. Tôi tin cái mối thù này to như núi, sâu như biển, mối thù mà không trả được thì còn hận hơn là “Quốc thù vị phục đầu tiên bạch” của tráng sĩ Đặng Dung.

Ở đây xin mở một cái dấu ngoặc. Tôi lúc mười hai tuổi chưa biết chữ nào, sao giờ lại bày đặt nói chữ? Bạn có hỏi khó cũng phải, nhưng cái học ở trong trường và cái học ở ngoài đời nó khác xa nhau lắm. Khi một người bị cướp mất cái tuổi được mẹ âu yếm nắm lấy tay dẫn tới trường trong một buổi mai đầy sương thu và gió lạnh, thì để lấy lại thời gian đã mất người ta có thể học bằng năm bằng mười, và người ta học những gì người ta cần và thích. Cái điều tôi cần lúc ấy là đọc được sách và điều tôi thích là học sử. Có vậy thôi và xin đóng ngoặc lại.

Cái buổi chiều hôm ấy vẫn chưa phai mờ, cái buổi chiều mà Mị Lan muốn “Để lại thẹo chơi” chứ không thèm giết, và lão ta ôm bụng gào lên “Tao giết mày, sẽ giết mày!”, khi tôi xách chai rượu và con vịt quay trở về thuyền… “Giết mày”, đó là giết chị chứ không phải giết tôi! Vậy thì còn cách giết nào thuận tiện hơn, hợp pháp hơn, vì dù có bị bắt đưa ra tòa, lão cũng chỉ bị kết tội là vô ý giết người.

Rõ ràng đối với chị Mị Lan và tôi, lão ta là người có tội, không chỉ có một tội mà rất nhiều tội. Nếu chém thì phải chém đến bảy lần, nếu ngồi tù thì cộng lại cũng phải ngồi đến mấy trăm năm.

Buổi chiều mà lão xuất hiện trên đài xem mô tô bay không phải là buổi chiều định mệnh. Không có một thứ định mệnh nào như thế cả và vì vậy không có một dấu hiệu nào báo trước. Chị Mị Lan vẫn trang điểm xinh đẹp như mọi ngày, còn hơn mọi ngày vì sẽ đi xi nê với một cậu em cho dù hãy còn bé, nhưng vẫn là một chàng trai trong nay mai. Thế thì buổi chiều hứa hẹn bao nhiêu điều tốt đẹp đó, chỉ vì sự xuất hiện đen tối của lão mà mọi sự đã trở nên hết sức khốc liệt.

Mối thù đó còn được nhân lên nhiều lần khi tôi hiểu ra rằng, vì lão mà tôi phải xa mẹ. Chính lão chứ không phải cô bé trong bình khiến xui tôi phải rời bỏ quê hương. Chính cái bàn tay to lớn cứng như gọng kềm của lão đã siết chặt bàn tay bé bỏng của tôi, đã lôi tôi xuống thuyền, nhét tôi vào trong thùng xe, rồi đưa tôi đi xa tít mù, đến nỗi mẹ gọi chỉ còn nghe văng vẳng trong mơ mà thôi. Chính lão đã thay tên đổi họ của tôi, biến tôi thành con nhái bén, thành con nòng nọc không còn ai nhận ra được nữa.

Đó là chưa nói tới những ngày lão bắt tôi hành xác thành viên đạn thịt để làm trò chơi và trò cười cho thiên hạ.

Không biết một người mà ngay từ tuổi ấu thơ đã bị cướp mất hai người đàn bà mà mình yêu thương, thì khi đối mặt với kẻ thù sẽ như thế nào? Tôi không thể hình dung ra được và cũng không dám chắc, khi gặp lão tôi có đủ tàn nhẫn để lại cắt thêm một thứ gì nữa trên người lão không, nhưng cứ biết là hãy nuôi chí phục thù trước đã.

Không cần phải nếm mật hay nằm gai, mối thù của tôi cũng lớn lên theo ngày tháng. Tôi mười ba tuổi thì mối thù tuổi mười ba. Đến khi tôi mười tám, nó cũng mười tám.

Tôi không còn lê la trên hè phố để đánh giày nữa, mặc dù không còn phải nộp khoán. Tôi đã cao lớn, đủ sức để chọi lại với tiểu đại ca. Ngoài ra tôi còn được hậu thuẫn bởi đám bụi đời đã từng tập tành uống rượu ăn thề. Sài Gòn dễ sống mà cũng dễ chết. Tôi bỏ lên Tây Ninh không phải vì sợ chết mà vì nghe phong phanh có lão ta đang làm gì đó ở Thánh Thất Cao Đài.

Một người như lão mà được vào làm gì đó ở nơi Đức Hộ pháp linh ứng giáng truyền quả là chuyện lạ. Nhưng nếu bạn biết rằng một người dám xông vào đám ma của người dân tộc để cướp đi một hài nhi, một người giữa ban ngày và giữa chợ dám bắt cóc một đứa bé và cướp đoạt nhiều thứ khác nữa, một người vừa tàn ác vừa xảo quyệt, thì việc lão thay hình đổi dạng từ một con quạ đen sang bồ câu trắng, cũng đâu có khó khăn gì.

Đến Tây Ninh, trước hết tôi hãy kiếm một việc làm. Đánh giày thì không được nữa rồi. Ở một nơi mà người ta đi chân đất hay đi giày cao su thì đánh giày là một việc làm ngớ ngẩn. Chỉ có một nghề mà lúc nào người ta cũng cần ấy là cạo mủ. Và chỉ trong một tuần học việc, tôi đã trở thành phu đồn điền.

Có vào đây mới thấy sức của con người thật đáng nể phục. Ngày trước chưa có máy cày máy ủi, chỉ có hai bàn tay mà người ta đã biến những đồi cao lũng thấp thành những rừng cây cao su bạt ngàn. Có thể nói đây là khu rừng do con người trồng, được chăm sóc nâng niu cẩn thận nhất, nhưng cũng tàn nhẫn nhất vì cứ bị hút nhựa như hút máu từng ngày.

Phải nói là rừng cao su quá đẹp, vẻ đẹp của trật tự, của kỷ luật như một đoàn quân trước giờ duyệt binh. Những hàng cây cùng tuổi đứng tăm tắp, ngó ngang ngó dọc ngó tới ngó lui ngó xiên ngó xẹo, ngó chiều nào cũng thẳng. Cũng cần nói thêm là còn có những ngọn roi da lúc nào cũng tươm máu của các ông Tây thuộc địa và những cai đồn điền độc ác. Vì vậy, ngoài cái vắng vẻ đến rợn người của rừng sâu núi thẳm, còn có nỗi sợ mơ hồ khi tưởng chừng những cu li năm xưa hiện hồn về đứng thành hàng, máu hòa cùng nước mắt hãy còn chảy ra từng giọt.

Giờ, cực thì có cực đó, nhưng vẫn không đến nỗi nào. Người ta gọi tôi là công nhân chứ không phải cu li. Tôi là người trẻ nhất và nhanh nhẹn nhất vì mới vào nghề. Liền tay đổ mủ vào thùng, liền tay cạo, hết cây này đến cây khác nhanh như đánh bóng giày.

Chủ rất “chịu”, thay vì để tôi ở trong lán trại thì cho ở ngay trong nhà, dù chỉ là một góc trong nhà chứa đồ. Và tôi có một cái giường, có chăn màn, có một bóng đèn điện để đọc sách, còn muốn gì nữa?!

Một sáng chủ nhật, tôi không đi lễ nhà thờ mà đi Tòa Thánh. Đi cho biết và cũng để dò la tin tức lão ta. Tòa Thánh to rộng như một tiểu vương quốc, có đường ngang lối dọc mang tên thánh chứ không phải tên các danh nhân. Các chức sắc và đạo hữu đều mặc áo dài trắng quần trắng, lặng lẽ di chuyển gần như không có tiếng động, giống như những hình nhân trong đèn kéo quân.

Rất đông khách nước ngoài, tây trắng tây đen, có cả Ấn Độ. Người ta đến vì hiếu kỳ, coi như một sự lạ chứ không phải để chiêm ngưỡng hay nguyện cầu. Tòa thánh đồ sộ thật đấy, nhưng thiếu vẻ trang nghiêm, có một vẻ gì đó nửa đình miễu sơn phết vụng về, nửa là hội trường trống trải.

Nhìn các chức sắc tới lui, tôi không thấy một khuôn mặt nào là của lão hay giống lão. Với các đạo hữu phục dịch đạo sự cũng không. Thì đúng vậy, con người như lão dù có luồn lách như lươn chạch cũng không thể vào đây được. Mà lão vào đây để làm gì mới được cơ chứ? Vào rừng ăn ong thì được, nhưng trộm mủ cao su nếu không bị bắt vào tù cũng bị đánh cho què giò.

Lúc vào không để ý, nhưng khi ra khỏi cổng tôi trông thấy một người đang quỳ mọp xuống đất, chắp tay vái không biết mệt, trước mặt để một cái thau nhôm lơ phơ vài tờ bạc nhỏ. Thì đúng là ăn xin nhưng phải hạ mình đến thế kể cũng hèn. Mà lại là một người khỏe mạnh còn đủ tay chân, thì thực đáng ghét.

Tôi đã định bỏ đi nhưng chợt thấy hai cánh tay có vết xăm nên giật mình dừng lại. Đứng quan sát một hồi, tôi bàng hoàng nhận ra đúng là lão ta, kẻ chỉ trong một phần tư giây đã lạnh lùng giết chết một người con gái.

Lúc lão ngẩng mặt lên, trông lại càng thảm hại hơn. Tóc râu bờm xờm, lão gần như mù hay giả bộ mù, đưa tay quờ quạng mấy tờ bạc bỏ vào túi. Lão nheo mắt nhìn người đứng trước mặt, không biểu lộ chút gì là đã nhận ra đứa bé ngày nào bị lão bắt làm viên đạn thịt. Cũng có thể lão vờ như không biết vì một con người nham hiểm như lão thì khó mà biết được trong đầu lão nghĩ gì.

Tôi đã muốn cao chân đá bay cái thau nhôm, nhảy xồ vào lão như một con sư tử cắn vào động mạch cổ của con mồi. Nhưng nhìn cái vẻ tàn tạ và cái cách hèn hạ của lão, tôi thấy cơn giận của mình bỗng lặn mất tiêu.

Trước đó, trong tôi tràn ngập những hình ảnh của sự trả thù. Nào là mổ bụng moi gan, móc mắt, lại còn chặt cả chân tay nữa! Nhưng giờ chỉ còn lại sự khinh bỉ, sự ghê tởm đang chực trào lên miệng, nên tôi phun một bãi nước bọt trước mặt lão rồi bỏ đi, không quên ném cho lão tờ bạc năm đồng.

Đó có thể là cái giá của một cuộc trả thù.

Buổi sáng hôm sau, trên đường đi đến lô cao su của mình, tôi thoáng thấy một đôi mắt đen, đôi mắt có cái nhìn vừa hoang dại mà cũng vừa dịu êm. Đôi mắt gợi nhớ đến chị Mị Lan.

Khi đã quen nhau, tôi biết cô là người Việt gốc Khơ-me. Cô không đẹp hay đúng hơn là không đẹp bằng chị ấy, nhưng có một cái tên rất đẹp: Sơn Mộc Hương. Sơn họ cha, Mộc Hương tên do mẹ đặt, tuy lai nhưng chỉ có tên là của mẹ, còn từ màu da, màu tóc cho đến màu mắt đều giống cha. Cô biết nói cả tiếng Miên lẫn tiếng Việt như nhiều người ở giáp ranh vùng biên giới.

Có một sợi dây ràng buộc bí ẩn như thế, nên tôi làm quen không khó, hay không cần làm quen cũng vẫn đến được với nhau. Chúng tôi như hai hạt mầm cùng ủ trong đất ẩm đã đến lúc vươn mình trỗi dậy. Cùng một tuổi, cùng một nghề, cùng làm chung một lô từ sáng đến chiều thì cái điều mà người ta gọi là tình yêu nó đến lúc nào không ai hay. Và khi nó đến, hai đứa yêu nhau tối trời tối đất.

Rồi chúng tôi cưới nhau. Đám cưới nhỏ nhưng theo phong tục của người Miên, có đến mười sáu quả. Mọi việc đã có các bạn và ông chủ giúp. Chính ông đứng ra thay mặt cha mẹ đi cưới vợ cho tôi. Và cũng chính ông thu xếp một chỗ rộng rãi hơn trong nhà kho cho chúng tôi ở tạm. Ông còn hứa, khi nào có cháu bé sẽ cất cho một ngôi nhà nhỏ bên cạnh rừng cao su.

Cuộc đời đúng là đẹp như mơ, nhưng tiếc thay đây là giấc mơ mau chóng tan ra như bọt nước!

Đọc lịch sử, tôi vẫn biết vùng đất Tây Ninh, hơn hai trăm năm trước là của người Miên. Đất của họ, nên dù đã phân chia ranh giới, họ vẫn thường lẻn qua cướp phá. Đốt nhà, cáp duồn là chuyện xảy ra như cơm bữa.

Nhưng đó là những chuyện xa xưa, còn hiện giờ nếu có thì cũng chỉ là vài vụ bắt trộm trâu bò lẻ tẻ. Dân bên này đông, quân lực lại hùng mạnh, nên dù bên kia có muốn cũng ít nhiều e sợ. Người hai bên cư xử khá ôn hòa. Vẫn có những cuộc cưới xin, những buổi tiệc tùng, những trận banh giao hữu. Người bên này có thể sang chơi bên kia một vài bữa mà không cần giấy tờ gì rắc rối. Cũng chẳng thấy đồn bót gì, chỉ rải rác vài cột mốc, có thể gọi đây là biên giới của tình hữu nghị. Nhất là khi Việt Nam đã thống nhất và Campuchia lại là hai nước cộng sản anh em.

Có ngờ đâu, khắp các vùng biên giới Tây Nam đều bị quân Khơ-me đỏ bất ngờ tấn công, mà dữ dội nhất là ở Tây Ninh. Chỉ trong một đêm, khi tôi đi theo ông chủ đem hàng xuống Sài Gòn, thì đồn điền, nhà cửa, lều trại đều bị chúng đốt phá.

Trong số hàng trăm xác bị cáp duồn có xác của Sơn Mộc Hương. Xác của nàng và nhiều người đàn bà khác đều bị lấy mất đầu. Theo lời một vài người sống sót, chúng xổ tóc trên sọ ra cột hai cái thành một cặp, xách đi như xách hai trái dừa đem về nước để khoe chiến công!

Đến thế này thì còn biết nói gì nữa hả Trời!

Sơn Mộc Hương!

Sơn Mộc Hương!

Tôi khản tiếng gọi tên nàng giữa những hàng cao su đang chảy ra những giọt máu trắng như tuyết.

Tôi đau khổ đem xác nàng chôn dưới gốc một cây cao su mà chúng tôi thường ngồi bên nhau. Trước đó, tôi đã dùng đất sét nặn một cái đầu cho nàng. Tôi nặn không được đẹp, nhưng tôi tin là nàng thích. Cũng đôi mắt hoang dại ấy, cũng đôi môi dày gợi cảm ấy. Hồn nàng đã hòa trộn cùng với nước mắt của tôi, làm nên một khuôn mặt như biết nói biết cười. Tôi áp môi vào, bất giác nhận ra trong mùi đất đỏ có mùi của máu.

Máu của nàng!

Một tháng sau, có đợt tuyển quân, tôi đăng ký để được đi Campuchia.

Chúng tôi vượt qua biên giới như vào chỗ không người. Quân Khơ-me đỏ được cho là tháo chạy, thực ra là đã âm thầm rút sâu vào các vùng rừng núi. Chúng để lại những thành phố hoang vắng, không trường học không nhà thương. Chỉ có những nhà tù đầy dẫy những xác chết chưa kịp chôn bốc mùi hôi thối. Những nạn nhân bị chúng bắn hay chặt đầu trước khi rút đi.

Một đất nước với hoàng cung soi bóng trên dòng sông Mê Kông, với Đế Thiên Đế Thích hùng vĩ, giờ chìm ngập trong màu đen: màu của những con kền kền, những con quạ ăn xác thối và màu áo đen của những nô lệ khổ sai chưa bị chúng giết kịp, còn sót lại trên các nông trường bất tận. Những đàn ông, đàn bà, con trẻ mà màu da tôi tối lại càng tối hơn, tóc quăn quăn lại càng quăn hơn vì xơ xác dưới nắng gió. Họ có một nửa dòng máu của Sơn Mộc Hương, nhưng có gấp đôi số phận bi thảm của nàng, vì so ra họ khốc liệt hơn nhiều. Họ chưa bị chặt đầu xách đi hay đá lăn lóc như trái dừa nhưng trước khi chịu chung số phận như thế, họ bị hành hạ còn hơn súc vật.

Tôi chẳng tìm thấy đâu những con quỷ áo đen đã từng giết hại Mộc Hương, để mà ghim vào ngực chúng những viên đạn thù. Chúng đã lẩn vào bóng tối của lịch sử và đang rình rập chờ đợi chúng tôi trong những tháng ngày sắp tới.

Lúc này trung đội tôi đang đóng quân trên một ngọn đồi thuộc miền đông Campuchia, bảo rằng để giữ con đường huyết mạch nối liền với Nông-Pênh. Ngọn đồi nằm giữa một vùng rừng khộp mênh mông, thưa thớt một vài phum sóc, giống như những bộ lạc Stiêng ở Lộc Ninh.

Chúng tôi đến vào giữa mùa mưa nên khu rừng ướt đẫm. Ngoài nước thừa thãi đến phát chán, chúng tôi thiếu đủ thứ, từ một hạt muối cho đến một chút xíu đường. Đã không có chợ mà Khơ-me đỏ lại dẹp bỏ việc dùng tiền, nên muốn có một con gà hay con heo chỉ có thể đem những gì họ cần ra đổi chác. Mà những gì họ cần như gạo muối đường sữa, chúng tôi lại không có, chỉ có súng và đạn thôi.

Chúng tôi lọt thỏm giữa một vùng đất bán sơn địa còn sơ khai. Muốn giao tiếp cũng không thể nào giao tiếp được. Họ nghi ngờ chúng tôi và chúng tôi cũng chẳng tin cậy gì ở họ.

Thế rồi mùa mưa chấm dứt để khởi sự cho một mùa khô kinh hoàng. Suốt tám tháng không có một giọt mưa. Sông thì ở quá xa, mà suối lại quá nhỏ nên chẳng mấy chốc cũng khô cạn. Phải đào giữa lòng suối mới chắt chiu được ít nước. Nước ăn và uống chưa có đủ, nói chi đến tắm giặt. Chúng tôi khốn khổ vì chấy rận, ghẻ ngứa. Ngồi đâu cũng gãi, đứng đâu cũng gãi, nên có kẻ đang gác ngứa quá phải bỏ súng xuống để gãi đã bị Khơ-me đỏ chờ sẵn siết cổ, ngã xuống mà chết không kịp kêu lên một tiếng nào.

Đây là lúc bọn Khơ-me đỏ tấn công. Chúng không dùng chiến thuật biển người cũng không đào giao thông hào để lấn dần như ở Điện Biên Phủ. Chúng chỉ phục kích trên đường đi lấy nước. Đi vài ba người coi như nộp mạng cho chúng. Phải đi cả tiểu đội may ra mới lấy được vài can nước, vậy mà cứ ba lần thì có một lần phải đổi bằng máu.

Chúng cứ tỉa dần, từ bốn chục còn ba, rồi còn hai nên phải cuốn xéo mà đi.

Tôi chỉ là một tân binh quèn, kinh nghiệm chiến trường chưa có, chưa hề tham dự một trận đánh nào gọi là ác liệt. Nhưng một số ít cán binh người miền Bắc, những người từng đánh thắng giặc Mỹ thì luôn mồm chửi rủa.

Trung đội trưởng bảo “Đánh đấm thế này chán bỏ mẹ!”. Người khác lại bảo “Đánh Mỹ sướng hơn. Đánh với nó thế nào cũng có đồ hộp mà ăn. Thắng thì lấy đã đành mà thua vẫn nhặt được không thiếu thứ gì, chúng bỏ lại cả đống chứ mang theo làm chi cho cực thân!”. Người nữa lại nói: “Đánh với thằng nghèo như thằng Khơ-me đỏ này, càng thắng càng mau chết!”. “Sao vậy?” “Thì cứ lấy khẩu phần của mình ra chia sớt cho những đứa vừa được mình “rải phóng” chứ sao!”.

Mà quân đội của ta cũng đâu giàu có gì hơn chúng, cả trung đội chẳng có chiếc xe nào, toàn là cuốc bộ và è vai ra mà khuân vác. Lâu lâu có một chiếc môlôtôva thở như bò rống đến tiếp tế lương thực, mà sắn khô và bo bo nhiều gấp đôi trong khi gạo thì đầy sạn. Kêu xin lắm may ra mới có được một thùng phuy nước đục ngầu.

Chúng tôi bị vây khốn bởi đất trời, chứ thật ra tụi Khơ-me đỏ chưa đến một vài tiểu đội. Chúng làm khổ chúng tôi để cho thấm thía cái gọi là nghĩa vụ quốc tế, tức là đem quân đi chiếm giữ nước của người.

Quân số ít, nhưng chúng rất tự tin và chủ động, cứ cách một vài đêm lại nghe chúng bắc loa lên chửi và dụ hàng. Ngay giữa ban ngày chúng vẫn cầm cờ chạy khơi khơi trong các phum sóc vì biết chúng tôi chẳng dám ra khỏi trại.

Đói và khát nên tôi chẳng còn hơi sức đâu mà nghĩ tới chuyện trả thù cho Mộc Hương. Mỗi một ngày qua, tôi chỉ mong sao được sống thêm một ngày. Mà là một ngày có cơm ăn nước uống đầy đủ, chỉ vậy thôi. Không đảng, không Bác, không thằng tây đen nào nữa xía vô.

Tôi không ngờ cuộc đời tôi cứ xâu chuỗi những mất mát, những khổ đau triền miên đến như vậy. Từ mất mẹ, mất chị, đến mất vợ mới cưới và giờ là sắp mất mạng. Đã mấy lần tôi chết hụt. Chết vì sốt rét, vì bị thương, vì thiếu nước đến nỗi phải liếm sương trên lá cây.

Kể ra tôi chịu đựng cũng khá giỏi. Nhưng so với những chiến binh già trong trung đội thì chẳng thấm vào đâu. Nhiều người chẳng những mất cha mất mẹ mà còn mất cả vợ con, nhất là mất con, thì cái nỗi đau ấy họ bảo không núi nào cao bằng. Cũng như không biển nào sâu bằng nỗi đau của dân tộc Campuchia, họ bị chính những người cùng chung một dòng máu cướp đi mạng sống của hàng triệu người khi Khơ-me đỏ nắm quyền và tiếp tục bị giết hàng triệu khi chúng không còn quyền. Đêm đêm trong các phum sóc vẫn có những con người khổ nạn bị đập chết bằng đai cuốc, bị cắt cổ bằng rựa cùn, vì bị nghi ngờ là tay sai cho bọn Duôn khát máu, tức là chúng tôi. Cho nên, dưới cái nhìn vừa sợ hãi vừa hận thù, chúng tôi không phải là những người giải phóng mà là những kẻ xâm lược, là cái cớ để Khơ-me đỏ hoàn thành công cuộc diệt chủng của chúng.

Một năm sau, chúng tôi bỏ lại trên vùng đất khắc nghiệt nơi xứ người hơn hai chục xác của đồng đội, những người chưa kịp hưởng hòa bình sau hơn hai mươi năm chiến tranh đã bị ném vào một cuộc chiến vô vọng khác. Những xác thân đó phần lớn an táng trong bụng thú rừng, chim ăn xác thối, chỉ còn lại những bộ xương rã rời lăn lóc đâu đó không được chôn cất, vì những người sống sót lo giữ cái mạng mình chưa xong có đâu lo phần mộ cho người chết. Sau này rộ lên những cuộc kiếm tìm bằng ngoại cảm, làm tiêu tốn rất nhiều tiền bạc và nước mắt của người thân, nhưng thực ra chỉ có một vài bộ hài cốt may mắn về lại được quê nhà, còn hàng trăm hàng ngàn là những nắm xương súc vật được dán tên người này người nọ. Sống bị dối gạt đã đành mà chết rồi còn bị dối gạt thêm lần nữa!

Thực tình thì tôi không yêu người đến mức phải gói ghém cái nắm xương của đứa bạn xấu số bị giết khi đi lấy nước. Anh ta được cho là đi lạc trong rừng, thực ra bị mìn cắt cụt mất hai chân và bị đồng đội bỏ lại. Phải nói là rất đáng hổ thẹn, nhưng cũng nên thông cảm cho họ, vì vừa phải mang nước về cho cả trung đội vừa phải giữ mạng sống của chính mình trong khi địch đang săn đuổi.

Anh ta lê thân mình vào một bụi rậm, nằm đó cho đến khi chảy hết máu thì chết. Xác anh ta không bị thú rừng ăn nhưng chắc là bị kiến, chúng đã thu dọn hết phần thịt thối rữa chỉ còn lại phần xương khô cứng nhẵn bóng. Trừ hai xương ống chân, tất cả còn lại nằm trong bộ quân phục bạc màu với cầu vai hãy còn ngôi sao vàng.

Tôi mang tất cả về trại. Tôi cũng không báo cáo lên ban lãnh đạo, chỉ lặng lẽ cất giấu trong ba lô. Tôi hành động như vậy vì bức ảnh đã ố vàng anh chụp chung cùng với mẹ. Nhìn thấy bà, tôi nghĩ đến mẹ tôi và tôi tin một ngày nào đó, dù rất đau đớn nhưng khi được tôi trao lại chắc bà cũng mừng.

Chúng tôi được biên chế vào một đại đội khác, gom lại từ những trung đội bị mất quá nửa, không đóng quân trên núi nữa mà đóng ở gần Nông-Pênh để bảo vệ hoàng cung. Lúc này vua Miên đã trở về nước sau khi tị nạn ở Tàu. Vua là ngọn đèn le lói giữa đêm tối mịt mùng. Người dân Miên hoảng loạn, ngơ ngác đã có thể nhìn thấy chút ánh sáng ở phía bên kia của bờ hy vọng. Cả thế giới cũng đang gây sức ép để cái anh hàng xóm không thân thiện phải rút về. Chuyện đó cũng phải mất đến cả chục năm sau. Nhưng tôi, thêm một năm nữa trên đất Chùa Tháp cũng đã hết hạn nghĩa vụ, được cho phục viên.

Người đầu tiên mà tôi cần đi tìm ngay là người mẹ của anh bạn đồng đội. Có làng, có xã rõ ràng nên tôi tìm không khó. Chỉ mất một vài giờ đi xe lửa là tới. Có lẽ không có nơi nào nghèo và buồn như ở đây. Đất không mưa bạc phếch, chỉ có cỏ dại và cây bàn chải, những con bò ốm lòi xương và những con cừu, thật là một giống cừu kỳ lạ, chúng ăn bàn chải thay cỏ.

Người đàn bà tôi gặp, nói trộm sau lưng bà, cũng ốm như những con bò và cũng buồn như những con cừu. Anh ta là con trai độc nhứt của bà, sinh ra và lớn lên ở đây, nên bộ hài cốt mà tôi mang theo cũng nhẹ tênh.

Khi thấy tôi mặc đồ bộ đội bà mừng hụt, tưởng con bà đã về. Bà hỏi: “Chú biết thằng con tôi chớ?”.

“Dạ biết”.

“Vậy sao em nó chưa về?”.

Thật khổ tâm cho tôi khi sắp phải trao cho bà bộ hài cốt. Tôi ngần ngừ một lúc rồi đánh trống lảng.

“Nhà mình nuôi cả bò và cừu hả bác?”.

“Không phải đâu, chăn cho người ta đó”.

“Bác trai đâu hả bác?”

“Ổng đạp phải mìn, cụt cả hai chân nằm trong kia!”.

Đến nước này, tôi chỉ muốn chào bà, đem nắm xương của anh chôn ở đâu đó, chứ không thể trao cho bà thêm một nỗi đau nào nữa. Nhưng rồi tôi lại nghĩ, bà sẽ còn đau khổ hơn nếu cứ phải sống trong chờ đợi mỏi mòn.

Tôi nói: “Thưa bác, biết là bác rất đau lòng, nhưng đây là một phần xương cốt của anh ấy cháu cố mang về từ Campuchia. Cháu xin trao lại cho bác!”.

“Chú nói gì? Áo quần của nó hả? Mang về làm gì?”.

“Dạ, không chỉ có áo quần, còn có…”.

“À, biết rồi, còn có chén bát và bình toong nữa chứ gì?”.

“Dạ, khó nói quá, là… của anh ấy nữa!.

“Cảm ơn chú đã đem về. Đồ đạc nó đây, còn nó đang ở đâu? Chắc là nó bỏ xác bên đó rồi phải không?”.

“Dạ, ảnh đây”, tôi đành phải mở ra.

Khi thấy cái hộp sọ và những chiếc xương đã vàng xỉn, bà ngơ ngác:

“Là con tui đây à? Sao mà tội nghiệp vậy hả con!”. Rồi bà ôm tất cả vào lòng, khóc không thành tiếng.

Tôi không biết nói gì thêm, chỉ đứng nhìn. Trong tôi, một nỗi đau mơ hồ đang hiện ra dáng hình và có cả tên gọi. Đó là nỗi đau của người mẹ mất con. Nỗi đau của mẹ tôi. Tôi bỗng thấy như mình đang trút bỏ thịt da chỉ còn lại bộ xương và người đàn bà tội nghiệp đang đứng thẫn thờ kia chính là mẹ tôi.

Mẹ ơi, tôi nói thầm, con sẽ về với mẹ đủ cả tay chân, đủ cả xương da chứ không chỉ bộ xương lạnh lẽo như thế này. Con sẽ ôm mẹ chứ không phải để mẹ ôm con cho dù mẹ nghèo đói như thế nào.

Ngày hôm sau, chúng tôi làm lễ an táng cho anh, chính quyền có đem đến một lá cờ. Nhưng bà không chịu, cởi ngay chiếc áo đang mặc phủ lên chiếc quách. Không có kèn vĩnh biệt, chỉ có tiếng còi của một con tàu đang chạy ngang qua, vang lên thê thiết.

Khi mọi người về hết, bà ôm lấy tôi, khóc.

“Giờ ta coi cháu như con. Lâu lâu nhớ ghé về thăm mẹ nghe!”.

Tôi dạ.

Nhưng rồi tôi không giữ được lời hứa.

Bạn biết rồi đó, tìm một người không rõ mặt mũi, không nhớ họ tên, không biết quê quán thì biết tìm đâu cho ra. Trầm còn dễ tìm vì nhờ có ngải, Mục Kiền Liên nhờ có Đức Phật, còn tôi chỉ có mỗi cái chữ hiếu cùng với nỗi ân hận đã dại dột đi theo cái gánh xiếc bậy bạ thuở nào. Nhưng tôi tin rồi sẽ có ngày gặp mẹ, tôi tin không chỉ có mỗi tôi đi tìm mà còn có bà, cũng đang trôi dạt đâu đó để tìm con. Khi hai người đau đáu đi tìm nhau thì thế nào cũng sẽ gặp được, không sớm thì muộn.

Có thể một buổi sáng, một buổi trưa hay một buổi chiều, ở một nơi nào đó, có một người đàn bà cứ đi theo riết tôi, rồi đến gần xin cởi áo cho xem cái này chút, những cái nốt ruồi nhiều như đậu đen ở trên ngực của tôi ấy mà, rồi ôm choàng lấy tôi mà khóc sau khi đã đếm đủ mười chín cái.

Còn nhiều thứ khác nữa mà một người mẹ có thể nhận ra đứa con của mình. Từ một cái xoáy trâu ở trước trán, từ con mắt hơi bị lé, từ cái chân vòng kiềng… và cũng từ một tiếng gọi thầm nào đó chỉ có người mẹ mới nghe ra được. Như thế, nhiều khi còn hiệu nghiệm hơn cả ngải, linh ứng hơn cả Phật, nên mẹ tìm con dễ dàng hơn con tìm mẹ.

Tìm mẹ, nhưng không thể nhịn đói mà đi tìm, tôi phải kiếm việc làm để sống. Là một cựu chiến binh, may mắn không bị thương tật, nên tôi tìm việc không khó. Cạo mủ thì thôi không cạo nữa, cái chết tàn khốc của Mộc Hương khiến tôi không thể nào làm cái việc mà mỗi nhát dao như cứa vào lòng tôi. Việc mà người ta cần và thích hợp với một anh lính vừa giải ngũ là bảo vệ. Tôi đóng bộ coi cũng ra dáng lắm và được cho đứng gác trước một ngân hàng.

Có đứng đây tôi mới biết trên đời không chỉ có những người nghèo như mẹ của bạn tôi, mà còn có rất nhiều kẻ giàu, quá nhiều kẻ chở cả bao tiền đến gửi hay rút ra từng bó bạc lớn cần phải có nhiều người hộ tống. Họ là những chủ cửa hàng, những công ty này, những nhà xuất khẩu nọ, những kẻ mới phất lên sau thời kỳ đổi mới, có nghĩa những tư sản cũ bị đánh gục thì lại có những lớp tư sản mới mọc lên. Thời nào cũng có người giàu của thời đó. Trước kia giàu vì chiến tranh, vì buôn đồ Mỹ, giờ giàu vì nhờ chức nhờ quyền, nhờ chạy mánh, nhờ trúng đất, trúng thầu.

Tôi thực ra không bảo vệ được ai, chẳng qua đứng đó để tăng thêm cái vẻ bề thế, uy lực của tòa nhà có treo biển ngân hàng vậy thôi. Dĩ nhiên không cách gì tìm được mẹ trong số những con người ấy. Mà cũng chẳng có ai trong số họ để mắt tới tôi, ngờ rằng có thể là con của họ đang đứng kia. Dòng đời cứ trôi đi, đây là khúc quanh mà của cải cứ tới lui lượn lờ như những bọt nước.

Rồi tôi cũng phải làm lại cuộc đời. Tôi yêu hay tưởng rằng yêu một người con gái khác. Nàng kém tôi hai tuổi, không đẹp nhưng khá xinh, lại là nhân viên của ngân hàng. Xét về thứ bậc trong xã hội, nàng hơn tôi nhiều bậc, nên có nhiều tiếng xì xào chê không xứng đôi. Nhưng nàng nửa đùa nửa thật, bảo: “Sau chiến tranh mà kiếm được một người chồng còn nguyên lành là khó lắm!”.

Thế ra cái giá của tôi là còn có đủ tay chân trong khi đầy ra đấy những kẻ què cụt, hậu quả của hai cuộc chiến tranh cứu nước và giữ nước. Bề ngoài thì tôi không thương tật gì, nhưng bên trong tức là cái tâm hồn tôi đấy, lại có một vết thương không bao giờ lành. Nàng không biết đã đành mà chính tôi cũng không ngờ.

Đêm động phòng tôi chỉ ngồi hút thuốc và uống rượu khan. Vợ tôi trong bộ đồ ngủ thơm tho ngọt ngào là thế, nhưng khi gần nhau, tôi lạnh mình thấy nàng chỉ là một cái xác không đầu!

Xác của Sơn Mộc Hương!

Đêm sau, rồi đêm sau nữa, cố gắng lắm tôi cũng chỉ dám ve vuốt, hôn hít nàng chút đỉnh rồi thôi. Nàng thở dài: “Có phải anh bị thương ở…?”. Tôi đành ậm ừ: “Có lẽ!”.

Chúng tôi chia tay nhau sau nửa năm. Ngần ấy cũng đủ cho vị đắng thấm sâu vào cuộc đời của cả hai. Nàng mang tiếng là đã qua một đời chồng mà hãy còn trinh, còn tôi nặng trĩu một nỗi đau thầm kín. Tôi không còn dám gần ai, yêu ai được nữa. Tôi sống phất phơ cho qua ngày, làm đủ nghề mà chẳng ra nghề gì. Đã có lúc quá buồn, tôi muốn đi tu.

Tôi mon men đến chùa, muốn được gần các nhà sư để học cách thoát khỏi khổ đau. Nhưng dường như các vị tìm đến chuông mõ không phải để giải thoát mà để ràng buộc thêm. Chùa, chỉ mong chùa to và đẹp. Bổn đạo, chỉ cần đông và giàu. Các vị cũng ngấm ngầm tranh nhau chức nọ chức kia không khác gì các quan ở ngoài đời. Đêm cứ ngủ kỹ, có băng cát-xét thay các vị tụng kinh gõ mõ. Trong mơ các vị không thấy Niết Bàn mà chỉ thấy hòm công đức mở ra đầy ắp tiền.

Nhưng mẹ tôi, một người tuyệt vọng vì không tìm thấy con, có thể tìm đến Đức Phật để được an ủi. Nghĩ thế nên tôi tìm đến các tịnh xá của ni sư. Biết đâu trong số các bà vãi mặc áo già lam kia có mẹ của tôi.

Chùa của sư nữ thanh tịnh và nghèo hơn chùa của các sư ông. Có vẻ họ đã tìm được, hay gần như tìm được sự giải thoát cho riêng mình, nên họ vui vẻ bận rộn với những bữa ăn từ thiện cho những người nghèo đói không nơi nương tựa.

Có một người đàn bà tôi tưởng không bao giờ gặp nữa mà lại gặp. Đó là người mà trong gần mười năm tôi phải gọi bằng “Má”, người tưởng tượng cái bụng bầu của mình là một cái bình đựng đứa bé đã biết đi biết chạy.

Thực tình mà nói thì bà không hề ác với tôi. Bà có la mắng đấy, đôi lúc đánh đập nữa nhưng bà không như ông chồng tàn bạo của bà. Tuy nhiên, cái cảnh bà nhào vô xé hết áo quần của chị Mị Lan, ngắt véo hai cái bắp vế đến tươm máu vẫn khiến cho tôi kinh hãi mỗi khi nhớ tới.

“Ê, Nhi! Ai cho mày vào đây?”.

“Dạ thưa, con vào thăm má!”.

“Bậy! Má con gì nữa! Tìm mẹ phải không?”.

“Dạ!”.

“Không có đâu. Chỉ có những người tội lỗi như tao chứ mẹ mày tội gì mà vào đây!”.

“Dạ, thử tìm đại, may ra!”.

“Lớn dữ a! Vợ con gì chưa?”.

“Dạ chưa”.

“Có gặp bả, cho tao xin lỗi, ngay cả mày nữa. Thôi đi đi!”.

“Dạ, bà ở lại mạnh giỏi”.

Thế đấy, cuộc đời mà tôi biết lại có những chuyện ngược đời như vậy. Tôi tin là đã bay đi hết những cơn ghen cuồng nộ trong lòng bà.

Tôi cũng có xuống Cà Mau, ra tận chỗ giống như cái lưỡi cày trên bản đồ của tổ quốc. Chỉ thấy ba mặt là biển lao xao sóng vỗ.

Đây là nơi cuối cùng của đất, còn ngoài kia, là nơi cuối cùng của trời! Như thế, dẫu có đi ra biển và đi hết biển cũng không cách gì tìm được mẹ, thì thôi quay về tìm lại nơi bà đã sinh ra tôi.

Nhớ có lần chị Mị Lan bảo “Tao nhớ cái chỗ mày ở có nhiều tháp lắm, lại có cốm nữa, mày đã cho tao một miếng cốm rất ngon”. Thế là tôi đi ra miền trung, nơi có những ngọn tháp không biết chờ ai mà cứ đứng mãi trong nắng mưa đến cả ngàn năm. Và nơi mà mùi cốm từ những năm xa xưa vẫn còn thơm mãi trong trí nhớ của tôi.

xiếc của mẹ

Con đường đất mà người bộ hành xa lạ đang đặt những bước chân bồi hồi, giống như một con trăn dài bất tận, nó lặng lẽ trườn mình qua những thôn xóm với những cau, những chuối, những rặng tre, những mái nhà… tưởng chừng là giống nhau nhưng có ở quê ra mới biết mỗi làng mỗi khác. Chẳng những khác về mức độ giàu nghèo, về phong tục tập quán, mà còn khác về cái mùi vị rất riêng của từng làng. Không phải mùi hoa bưởi hoa cau trong những đêm trăng, cũng không phải mùi trầm nhang trong những ngày tết, mà có khi là mùi bột chua chua của những lò bánh tráng, mùi hèm nồng nồng của các lò rượu, mùi đậu chín thơm béo của các lò ép dầu…

Làng, ông không còn nhớ tên, nhưng nhớ nó nằm cạnh một con sông mà hàng tre chạy theo ven bờ lúc nào cũng rì rào lá rụng. Thời gian bạc bẽo gần như đã xóa mờ đi tất cả chút ký ức mơ hồ của ông, ngoại trừ cái mùi mật đường của những lò cốm trong làng, một mùi đậm và gắt như mùi của những xóm vạn làm nước mắm, nhưng ngọt ngào và thơm tho hơn.

Khi nghe cái mùi không thể nào quên ấy, ông tin là đã về tới làng của mình.

Ông bước vào một hàng quán thấp đến nỗi phải cúi gần như sát đất mới chui vào được. Bà chủ quán, mà tuổi già và cái sự nghèo cũng giống như mái tranh mục nát, đang ngồi cời lửa bên cạnh ba ông táo bằng đất cùng đội trên đầu một cái om lọ nghẹ đen xỉn. Không cần hỏi cũng biết khách cần gì, nên bà liền đặt một chiếc bát sành trên cái chõng tre, với lấy cái gáo múc nước lạnh trong vò đổ vào chừng nửa bát, rồi dùng một cái kẹp bằng tre nhấc cái om đang sôi rót xuống long tong một thứ nước màu cánh gián. Bọt sủi lên tràn vun miệng bát, thơm mùi lá khô gọi là chè, vừa đủ chát để làm miệng bớt đắng và vừa đủ ấm để trôi qua cổ họng.

Thay vì, như những khách đường xa, bưng bát nước lên thổi bớt bọt rồi nín thở uống cạn một hơi, khà một tiếng, lại chìa bát ra cho bà rót thêm bát nữa thế mới đã khát, thì ông cứ ngồi nhìn những bọt trắng chậm rãi tan đi như bọt xà phòng. Có điều gì đó gần như niềm xúc động, vì đây là lần đầu tiên ông uống một bát nước chè, mà lại là bát nước chè mộc mạc của nơi chôn nhau cắt rốn.

“Uống đi kẻo nguội, mất ngon”, bà chủ quán giục.

“Ờ, bà cho xin thêm miếng cốm”.

“Cốm bắp hay cốm gạo?”.

“Cốm gì cũng được”.

“Cốm bắp nghe, còn răng ăn cốm bắp ngon hơn”.

Ông nhìn bà, hơi bất ngờ vì lời khuyên thật thà của một người mà hai hàm răng chỉ còn trơ hai cái lợi. Thực ra ông cũng chẳng còn đủ răng, nhưng nghe lời bà ông cũng cố mà nhai và cũng là lần đầu tiên ông thấy còn răng ăn cốm bắp ngon hơn, vì ngoài mùi vị ngọt thơm ông còn nghe thấy tiếng kêu rào rạo của những hạt bắp vỡ ra dưới những chiếc răng còn khỏe mạnh.

Ông ăn hết miếng cốm, uống cạn bát nước, định lân la hỏi thăm bà về người mẹ mà ông chỉ còn nhớ loáng thoáng hai hàm răng đen bóng sáng lên mỗi khi cười.

Đúng lúc ấy, bà lão hỏi: “Ngó bộ, chú không phải người quanh đây?”. Ông định buột miệng: “Tui là người của làng này mà”, nhưng cứ nghe cái giọng lúc nào cũng nẩy tưng tưng như những đồng bạc cắt rơi trên mặt đá khác hẳn với cái giọng bè bè ngang ngang của mình, ông nói:

“Ờ, không phải, tui ở nơi khác tới”.

“Thăm bà con hử?”.

“Ờ, thăm bà con”, ông đáp lửng lơ.

Ông định nói “Tui đi tìm mẹ”, nhưng chẳng biết mẹ tên gì, cao thấp ra sao, cùng lắm là phải biết vợ của ai, làm ông gì bà gì, chứ nói khơi khơi thì đố ai mà biết được, nên ông chỉ ngồi im nhìn bà lão, tự hỏi không chừng đây là mẹ của mình chăng?

Ờ, biết đâu đấy, ông nghĩ, mẹ mình chắc cùng lứa tuổi với bà và ước chi bà là mẹ của mình, ông sẽ quỳ xuống bên cạnh, nắm lấy bàn tay nhăn nheo của bà mà nói, “Con đây mà mẹ!”.

Cũng có thể nãy giờ bà ngờ ngợ sao đó, cố đem cái hình ảnh của đứa bé đã mờ đi quá nhiều vì năm tháng ra so với người đàn ông đang ngồi trước mặt, rồi chợt mếu máo hỏi: “Có phải chú là…là con của tui phải hôn?!”.

Nhưng chẳng có dấu hiệu nào báo trước một cuộc đoàn tụ đầy nước mắt, bà chỉ lặng lẽ cầm lấy bát úp lên chỗ cũ, tắt bớt lửa trong bếp, rồi lấy cái cối giã trầu ra ngồi ngoáy như thường lệ.

Ông đành đứng dậy trả tiền, ra khỏi quán, tiếp tục bước đi.

Lúc này đang vào giữa ngọ, trời nắng chang chang, cái bóng của ông như một bãi hắc ín xê dịch giữa hai bước chân. Vào giờ này mà đi như thế, ông giống như một lão thợ hoạn, chỉ khác là không có tiếng rao “Heo thiến hôn?”, mà cái tiếng “thiến” lúc nào nghe cũng lạnh và sắc như con dao.

Giờ là lúc những nong bắp phơi trước mọi nhà đang nóng rực lên, chờ được đổ vào những chiếc chảo rang. Bắp nóng gặp cát nóng liền đồng loạt nổ bung, cho ra một thứ gọi theo tiếng nhà nghề là “nổ”, trắng và thơm như bông bưởi.

Ông nhận ra mình đã từng nghe tiếng nổ rào rào ấy, từng hít thở cái mùi thơm của nắng, của gió, của đất và cả mùi mồ hôi của mẹ trong những năm đầu đời. Nhưng người đàn bà nào trong làng này là mẹ của tôi? Và, trong số những mái tranh nghèo này, mái tranh nào là mái nhà của mình? Những câu hỏi bật lên một cách vô vọng khiến mắt ông như mờ đi.

Cuối cùng người khách lạ cũng tìm ra được ngôi nhà của mẹ mình, phải nói là nơi đã từng là nhà của mẹ thì đúng hơn vì chỉ còn trơ lại cái nền nhà với cỏ vàng hiu hắt. Khi ông bảo mình là đứa bé năm xưa theo mẹ ra chợ rồi đi lạc thì có một người già như bà lão đổi nước, nói: “Vậy hả?, hồi đó trong làng xao xác dữ, té ra chú mầy là thằng Quạ đó sao?”, ông gật đầu và mơ hồ nhớ lại cái tiếng mẹ kêu “Quạ ơi, Quạ ơi, về nhà ăn cơm” vang lên văng vẳng, mà tiếng “ơi” bao giờ cũng ngân dài tha thiết.

“Chao ơi! bà ấy chết lên chết xuống! Ai cũng nói chắc là nó bị bắt bỏ vào bình để ngâm rượu, nghe nói vậy sao mà không chết ruột chết gan!”.

“Rồi sau đó mẹ tôi ra sao?”, ông hỏi thêm.

“Thì bả lặn lội đi tìm chớ sao. Ban đầu là hỏi ông Sáu chèo đò, ổng bảo là có chở nó cùng với vợ chồng thằng cha hát xiệc. Sau đó bả đi coi thầy, thầy nói đại nó chưa chết đâu, bả cũng mừng”.

Dừng lại bập bập điếu thuốc vấn bằng lá chuối khô, ông già nói tiếp: “Rồi bả bỏ cái chỗ này mà đi, chắc là đi tìm chú mầy chớ đi đâu, nhưng tận trong cái xứ Cà Mau xa xôi, chắc gì tìm được! Còn chú mầy sao mãi bây giờ mới về? Trễ quá rồi!”.

Ừ, trễ quá rồi! Từ khi đặt bước chân ở đầu làng, ông lờ mờ cảm thấy cái ngày trở về của mình đã quá muộn. Ông đứng nhìn những tàu lá chuối gió thổi te tua, nhìn lên nền trời bàng bạc, cố hình dung cái dáng hớt hơ hớt hãi của mẹ mình bươn bả đi tìm con, thấy búi tóc mẹ sổ ra, thấy chiếc nón không đội trên đầu mà cầm trên tay, thấy đôi bàn chân không giày dép, hai gót chân nứt nẻ bám đầy bụi…

“Mà bả không bỏ đi lúc đó, ít năm sau cũng phải bỏ đi thôi”, ông già lại trầm ngâm tiếp tục câu chuyện của xóm làng trong đó có chuyện của chính mình, “Làng bị thả bom cháy sạch trơn không còn cái nhà nào, bà vợ tui, tội nghiệp cũng bị chết thảm!”. Có dịp nhắc lại chuyện cũ, mắt ông đỏ hoe nhưng cũng chẳng còn giọt nước mắt nào để làm cho nó dịu bớt.

Ông đứng lên, “Thôi tui về, chú mầy chắc còn ở lại lâu, bữa nào ghé lại tui chơi”.

“Dạ, cụ về, cảm ơn cụ đã cho cháu biết ít nhiều về mẹ cháu”.

”Ờ”, ông vẫn còn nấn ná, “Bà ấy cũng tội nghiệp lắm, hết khổ vì chồng lại khổ vì con!”.

Thế ra mình cũng có một người cha làm khổ mẹ như mình! Mình thì ham chơi mà đi lạc còn cha mình thì sao? Ông nghĩ rồi sẽ hỏi lần ông cụ, lâu nay ông chỉ nghĩ tới mẹ, mà quên mất mình hãy còn một người cha cũng cần phải nghĩ đến.

Ông tính mình sẽ mua tranh tre, cất một ngôi nhà nhỏ. Không gì quý hơn là có một mái nhà ngay tại nơi chốn mình đã sinh ra. Chính trên mảnh đất già cỗi này, cha mình đã cầm cuốc ra góc vườn, đào lỗ đặt một cái nồi đất trong đó có đựng nhau của mình. Nó tuy không còn dính với khúc ruột, nhưng nó chưa chịu lìa xa, chưa chịu mất hẳn, nó hãy còn đâu đó và nối với mình bằng một dây rốn dài, nên chi, khi ông già nói “Đây là vườn nhà của chú mầy”, thì tự dưng lòng ông nôn nao, tưởng chừng như mỗi cọng cỏ, mỗi lá cây đều có chút gì hơi hướng của ông.

Những ngày sau, khi phát cỏ dọn vườn ông bắt gặp một cái chảo gang đã bị vỡ, chảo rất to dùng để thắng mật trộn bắp, một cái nồi đất cũ để nấu cơm có con cóc làm hang ngồi trong đó, một con dao đã rỉ sét, mấy cái chén sành sứt mẻ.

Ông cẩn thận lau chùi để qua một bên, hơi buồn khi nghĩ rằng đây là gia tài của mẹ. Rồi ông lại nhặt được một con dao găm, mấy hột nút bằng đồng có hình mỏ neo, một khung ảnh lồng kiếng ố mờ, ông tin chắc là của cha mình, xúc động đến muốn khóc, nhưng khi mở ra chỉ thấy lẫn lộn một thứ bột xam xám như tro chứ chẳng có hình ảnh nào cả.

Có mấy người bảo là bà con nghe ông về tới thăm, rồi giúp ông làm nhà. Một người là cậu họ, một người là em bạn dì, chẳng có ai là người bên nội. Hóa ra đây là quê ngoại, mảnh đất này là của ông bà ngoại cắt cho con gái, mẹ ông đã ở đây sau khi không sống được với chồng.

“Sao vậy?”, ông hỏi.

“Thì ghen chớ sao! Cha mầy đi lính Tây, hết giặc đem theo về một con đầm lai, ở sao nổi!”.

“Dạ cháu biết có nhiều người hai ba vợ mà vẫn ở chung”.

“Ở thì cũng được, nhưng phải hầu hạ nó như đầy tớ, chịu sao nổi!”.

“Bà đầm ấy chắc đẹp?”.

“Ờ, cũng đẹp và nó nghĩ rằng mình đẹp nên nó bắt ai cũng phải hầu hạ nó, kể cả chồng, cha mẹ chồng chứ không riêng gì mẹ mầy”.

“Vậy ông già của cháu giờ ở đâu?”.

“Ở trong mả chớ còn ở đâu nữa. Hồi đó mà, dính tới Tây và Nhựt là bị giết!”.

Người cậu họ ngần ngừ một lúc rồi thở dài, nói:

“Ông già mầy chắc cũng còn thương mẹ mầy, nên xác nằm trong bao bố rồi mà hồn vẫn cứ lẩn quẩn. Sáng hôm đó đứng giặt đồ dưới sông, mẹ mầy thấy một cái bao tấp vào chân không chịu trôi đi. Bớ làng bớ xóm kéo lên, mới tá hỏa thấy cha mầy nằm trong đó!”.

Những trang sách của đời ông cứ dần dần được mở ra, cho dù qua lớp bụi thời gian, nó như vẫn còn mới nguyên, ở đó mẹ ông, cha ông đã để lại những thứ mà không ai muốn, là những tai ương, những đắng chát làm của để dành!

Ngôi nhà chừng mươi ngày đã làm xong, một cái nhà tranh vách đất. Bữa cúng mừng nhà mới còn có thêm ông cụ hôm nào. Cụ khen: “Giỏi đó, mới về mấy bữa mà đã làm được nhà. À, có ông Bảy Quế đây, hèn nào làm nhà chẳng mau”. Ông Bảy Quế té ra là tên của cậu họ, giờ ông mới biết.

Ông rót rượu vào chén của mọi người, trịnh trọng: “Xin mời cụ, mời cậu, mời chú em, xin cảm ơn đã thương mà hết lòng giúp đỡ”. Ông cạn chén, mắt rưng rưng. Đây là chén rượu mà ông tưởng chừng như đựng đầy nước mắt. Phải chi là chén cơm của mẹ thì ngon biết chừng nào!

Ông cụ cũng cạn chén, nói: “Qua cũng mừng cho chú mầy, bị mẹ mìn bắt cóc mà nay vẫn tìm về được quê cha đất tổ là giỏi. Chớ mầy trôi nổi những đâu, vợ con thế nào rồi, mà nay về có một mình vậy?”.

“Dạ!”, ông đáp lời, “Chuyện của cháu dài lắm, thì cứ biết cháu còn sống ngồi đây với cụ, với cậu và chú em này là quý lắm rồi, chuyện gì nữa thì để nói sau”.

Ông Bảy Quế cũng nói thêm; “Chắc là chuyện không vui, tôi cũng có hỏi nhưng cháu nó không nói, thôi uống đi anh Chín”.

Ông cụ thứ chín cạn thêm chén nữa, ngồi trầm ngâm không ăn, ông nói:

“Xứ này là xứ của Hời, ông bà mình nói, Hời nó đi để của lại nhiều lắm. Bao nhiêu là vàng bạc, châu báu, vua quan lấy hết đem về bắc. Còn lại cái đất này, toàn rừng thiêng nước độc, thì dành riêng cho những kẻ tội đồ, những người bị án chém mà chưa chém. Họ bị đưa vào đây, nếu không chết vì bị dân Hời giết thì cũng chết vì lao dịch”.

Ngừng một lúc, ông cụ lại thở dài:

“Tổ tiên ông bà mình đó, sống như vậy bảo sao con cháu không buồn!”.

Tan bữa rượu, ai cũng bảo ông ráng kiếm một người đàn bà, đẻ vài đứa con để nối dõi. Ông cũng ậm ừ vậy vậy.

Cái buổi trưa hôm đó đã quét ngang qua đời ông như một cơn gió lớn. Chẳng những nhổ bật hết mọi gốc rễ mà còn ném ông vào cái dòng đời xa lạ, với những thác những ghềnh, khác hẳn cái ao làng bé nhỏ và tĩnh lặng này.

Giờ đây cái chợ quê nghèo nàn đã không còn, chẳng có gì làm chứng cho cuộc chia ly ngoài cái bến đò mà ông lái đã chết từ lâu. Trên khúc sông đó, nay vắt vẻo một cây cầu, nơi bọn trẻ ngày nào cũng chạy ùa ra nhảy tòm xuống tắm.

Ông về tới làng đã gần tròn năm. Cây trái trong vườn cũng đã lên xanh. Đã ra vẻ một gia đình, nhưng chỉ có mỗi mình ông ra vào thui thủi.

Ông hãy còn một người mẹ, thật khó mà tin rằng bà vẫn còn sống đâu đó trên cái đất nước nhiều đạn bom và bất trắc này, nhưng ông vẫn cứ thấp thỏm chờ.

Một buổi chiều nắng đẹp, ông đang ngồi nhìn những đám mây trắng trên trời, bỗng có một người da đen đi vào sân. Đó là một người đàn bà chừng hơn bốn mươi tuổi, da đen nhưng không đen lắm, dáng người vừa phải thon gọn chứ không to bè.

“Xin cho hỏi, đây có phải nhà bà Lữ không?”.

“Ờ, à… phải, nhà của bà ấy”, ông lúng túng, “nhưng bà ấy không có ở đây”.

“Tôi biết rồi, bà ấy ở Mỹ!”.

“Ở Mỹ?”, ông hỏi lại như chưa tin vào tai mình.

“Vâng, ở Mỹ. Và ông là Quạ?”.

“Ờ, vâng.. vâng”, ông bối rối. “Nhưng mà cô là ai?”.

“Tôi là con bà ấy!”.

“Ơ! Và cha cô là…?”, ông nghĩ rất nhanh: Sao lại như thế hả Trời, sao mẹ tôi đi lấy Mỹ mà lại là Mỹ đen!

“Vâng, cha tôi là người Mỹ, nhưng không phải là giặc Mỹ! Ông ấy là một bác sĩ tình nguyện đến chữa bệnh sốt rét ở Cà Mau. Ổng gặp một người đàn bà đi tìm con lưu lạc xuống tận dưới đó. Hai người lấy nhau ra sao tôi không biết, chỉ biết khi sinh tôi ra dược một tuổi thì ổng bị giết. Việt cộng bảo là CIA!”.

Ông thở dài, định nói “Cô cũng chẳng khác gì tôi, cà hai có cha cùng bị vi xi giết” nhưng kịp dừng lại.

“Chúng tôi qua Mỹ theo diện con lai. Được hăm chín năm thì mẹ tôi mất”.

Ngừng một lúc, nhìn ông, nhìn căn nhà, bà nói tiếp.

“Chắc ông cũng mới về làng?”.

“Ờ, mới về”, ông áy náy về cảnh nhà cửa trống trơn.

“Mẹ nói, dễ tìm ra làng mình lắm, cứ nghe mùi cốm là tới đúng làng An Đông. Có phải là An Đông không?”.

“Phải!”. Ông sực nhớ ra mình cũng mới biết tên làng.

“Mẹ nhớ anh khóc miết. Gần chết thì khóc nhớ làng”.

Tiếng “Anh” từ miệng một người khác màu da khiến ông bàng hoàng. Té ra hai người cùng một mẹ mà chẳng tìm thấy một chút gì giống nhau.

Một người thì tóc quăn như râu bắp, mắt trắng chát như mắt cá, môi dày và thâm.

Một người thì tóc như rễ tre, mắt lá răm, môi mỏng không đủ che kín răng.

Có chăng là cùng một màu máu đỏ.

Và nữa, nếu hai người cùng khóc, chắc nước mắt cũng giống nhau.

Bà lôi từ trong xách ra một chiếc hộp, đặt vào tay ông.

“Đây là tro của mẹ!”, bà nói.

Gần như choáng váng, ông không thể ngờ là mẹ lại trở về tìm con trong chiếc hộp này. Ông ngập ngừng muốn mở ra nhưng lại thôi. Ông chỉ nhẹ nhàng ghì sát vào ngực, cảm thấy như đang ôm mẹ vào lòng.

Sau một lúc yên lặng, người em nói:

“Mẹ dặn, nếu không gặp được anh thì rải tro xuống sông”.

“Rải xuống sông à? Sao vậy?”, ông ngơ ngác hỏi lại.

“Em cũng không rõ. Chắc là để theo sông về với biển. Rồi từ biển biết đâu theo sóng mà về lại nước Mỹ… với em! Giờ được gặp anh thì…”.

“Thì sao?” ông lo lắng hỏi.

“Thì vùi đâu đó trong vườn”.

“Sao vậy?”.

“Em cũng không biết. Chỉ biết là mẹ muốn như vậy”.

Ông định làm một chiếc hộp to hơn bằng gỗ hương đặt trên bàn thờ để có thể đôi lúc ôm chiếc hộp vào lòng như đang ôm lấy mẹ. Ông cũng muốn hỏi cô em mẹ đã sống như thế nào trong gần ba mươi năm trên đất Mỹ. Nhưng rồi, ông thấy mình nên im lặng. Mẹ cũng đâu có hỏi, nói gì.

Ông nói:

“Ờ, tôi… à anh sẽ làm theo ý mẹ”.

Ông đi lấy cái nồi đất đã nhặt được hôm dọn vườn, để góc nhà, cùng cô em cẩn thận đặt vào lòng nó chiếc hộp đựng tro.

“Thôi mẹ nằm vào đây, ông nói nhỏ, dẫu sao cũng là cái nồi cũ của mẹ”.

Rồi ông nói lớn đủ cho người em nghe:

“Cảm ơn em đã đưa mẹ về với anh. Cuối cùng hai mẹ con cũng gặp nhau. Vậy là ấm áp lắm rồi!”.

Ngó ra vườn, thấy không có chỗ nào sạch và đẹp như khoảng sân trước nhà, ông liền đào ở đó một cái lỗ. Hai anh em chôn mẹ không theo một nghi thức nào, chỉ lặng lẽ đùa đất lấp lại, không đặt gạch hay đá để làm dấu, cũng không có một nén nhang. Nhưng ông biết, dù đêm hay ngày, dù nắng hay mưa… lúc nào cũng có mẹ ở gần.

Hai người ngồi lại rất lâu, tay bóp những hòn đất nhỏ cho tơi ra thành bụi, không một ai nói gì, nhưng trong lòng xôn xao nghe như có tiếng sóng.

Họ ngồi cho đến khi nắng tắt hẳn trên sân.

Lúc đó, một chiếc tắc xi dừng bánh trước ngõ.

Người em đứng lên chìa tay ra, ông hiểu ý nắm lấy.

“Thôi chào anh, em đi!”.

Ông cũng nói: “Đi mạnh giỏi!”.

Ông đứng trông theo, cố hình dung ra mẹ qua cô em, nhưng chỉ thấy những hạt bụi cuốn sau xe bị gió thổi tung lên cùng với rác trên đường, cuộn tròn như đang làm xiếc.

Viết lần 1, tháng 12/2015

Chỉnh sửa lại tháng 3/2018

Comments are closed.