Tiếng cồng (kỳ 4)

Tiểu thuyết của Nam Dao

3 MỘ BƯỚM

Nghe tiếng lục đục trong bếp, Sa bật dậy. Choàng tấm áo len lên người, nàng mở cửa phòng rón rén đi xuống. Cánh cửa bếp khép hờ, mùi củi thơm thoang thoảng bay vào mũi. Mẹ Sa ngồi xổm hí hoáy cời lửa, mái tóc chưa cuốn lại xổ tung rơi xuống vai. Nhìn mẹ, Sa bặm môi, đăm chiêu một lát rồi lẳng lặng bỏ đi. Ðến chân cầu thang, miệng Sa thoáng một nét cười tinh quái. Nàng lắc đầu, chân bước nhẹ lên thang còn mập mờ tranh sáng tranh tối.

Sa gõ cửa căn phòng nằm trong góc cuối hành lang. Tiếng Freddy bảo chờ, rồi một lát sau, cửa hé mở. Mình trần, ngực vạm vỡ lông lá, Freddy nhìn Sa, nói như một phản ứng tự động:

– Không cần làm phòng… Cám ơn!

Sa cắn môi, ngập ngừng:

– Tôi muốn… cám ơn anh. Ngày hôm qua, anh…

Khoa tay, Freddy cắt ngang:

– Tôi có làm được gì đâu? Nó đã sàm sỡ rồi, lẽ ra tôi phải xin lỗi cô cho thằng Billy chứ mặt mũi nào nhận lời cám ơn này…

Sa gạt:

– Anh nói thế… Anh khác. Tôi nói thật, anh khác mọi người khách du lịch đến từ nước Mỹ- Sa tần ngần – xưa nay, chúng tôi nghe đài đọc báo, cứ tưởng là người Mỹ nào cũng giống nhau…

Freddy mở rộng cửa, tay làm dấu mời Sa vào, lạnh lùng:

– Ðiều cô vừa nói cũng không sai hết đâu. Chúng tôi có chung với nhau một Lincoln, một Washington… Vừa qua, chúng tôi lại có chung với nhau một cuộc chiến. Rồi lần đầu, một chiến bại…

Với tay quàng chiếc sơ mi lên người, Freddy tiếp, mắt nhìn lên những xác bướm ghim trên những mảnh bìa treo trên tường:

– … và tiếp đó là một hội chứng, gọi là The Vietnamese Syndrom. Cô đã từng nghe thấy từ này chứ?

Sa lắc đầu, miệng cười, tay vén mớ tóc ra sau. Giọng chợt buồn hẳn lại, Freddy thì thào:

– Tôi cũng đã sống với chiến tranh Việt Nam. Lúc đó, tôi được mười hai tuổi. Cha tôi là phi công… Sáng sớm hôm cha rời nhà lên đường bay sang Việt Nam, cha ôm tôi hôn, cứ tưởng tôi còn ngủ, rón rén đi ra không nói gì. Ðợi cha khép cửa buồng, tôi lẳng lặng theo. Cha ôm Mom(25). Mom khóc. Cha bảo: “… For God’s sake! I’ll come back if you don’t cry!”(26).

Nghẹn ngào, Fređdy đứng dậy đi ra cửa sổ nhìn trời. Sa theo sau, nhẹ nhàng:

– …rồi sao nữa anh. Hãy kể cho tôi nghe…

Không quay lại, Freddy cười hừ đánh trống lảng:

– Thôi, có gì hay hớm đâu… Vì sao cô muốn nghe?

Sa nói nhỏ:

– Cha tôi cũng đi, như cha anh…

Freddy quay lại, ngạc nhiên thấy tròng mắt Sa mắt ngấn lệ. Chàng không cưỡng lại cái nhu cầu thổ lộ, nhất là khi kẻ đối thoại chắc có thể hiểu vì đồng cảnh ngộ, chậm rãi nói tiếp:

– Nghe cha tôi nói, nước mắt tôi ứa ra. Tôi thì thầm “Mom! You shoud’nt cry! Please, you should’nt!”(27). Nhưng mom không kìm được, nức nở chẳng nói nên lời. Cha đi, tôi quay lại phòng, giả vờ ngủ… Tôi không dám nhìn mom lúc đó, và biết mình không làm gì để an ủi mom cho được! Tôi nhắm mắt và lẩm nhẩm đọc Kinh Lạy Cha. Từ đó, sáng nào tôi cũng đọc Kinh này. Ðọc xong, tôi lấy sáo ra thổi tạ ơn Thượng Ðế…

Freddy lẳng lặng quay vào ngắm những cánh bướm ướp ghim trên bìa cứng. Sa nhìn theo. Có lẽ phải có đến cả trăm con, được phân loại theo giống và theo kích thước. Vẫy Sa lại, Freddy chỉ:

– Con bướm cánh to bằng bàn tay này, tôi phải mất ba ngày mới tìm cách bắt được nó mà không mất lớp phấn màu vàng chói óng ánh nằm giữa nền xanh biếc quanh có những vân tím than… Cô thấy, đẹp lắm Chứ! Người Dao bảo mỗi con bướm đều mang một linh hồn người đang còn luyến tiếc thế gian. Có thể đó là linh hồn những người chết oan. Xứ sở này rất nhiều bướm, phải không cô? Mỗi lần vào rừng, tôi cũng mang sáo ra thổi để cởi dây oan khiên cho những linh hồn đó… Hôm nào, tôi mời cô đi. Khi tôi chơi những đoản khúc của Prokofiev, bướm thường lượn thành đàn xung quanh…

Sa ngạc nhiên:

– Thật vậy hả? Thế sao anh lại bắt chúng…

Freddy buồn bã:

– Tôi tin rằng một lúc nào đó, tôi sẽ bắt được một con bướm mang linh hồn cha còn vất vưởng đâu đó… Phi cơ của cha rơi ở vùng này, khi cha bay thám thính đường vận chuyển bằng xe lửa nối Trung Quốc với Lào Cai… Xác cha vẫn chưa tìm được… Cô biết chứ, linh hồn cha còn ở đây vì xương cốt cha còn vất vưởng trong núi rừng vây bọc dãy Hoàng Liên Sơn này!

Ðột nhiên, Freddy gằn giọng như có ai đó vô hình đang tranh cãi với mình:

– Cha tôi không phải là một tên sát nhân như báo chí, truyền hình cả thế giới này buộc tội. Nhớ đấy, cha chỉ làm những phi vụ thám thính và chụp hình, không bao giờ ném bom nhé! Thư cha viết về cho tôi, cha nói thế… Không bao giờ! Never, never… Thành thử cái chết của cha là cái chết đầy oan khiên, Freddy trầm giọng, và thế nào tôi cũng tìm được con bướm mang linh hồn cha!

Ngỡ ngàng một lát, Sa thoáng chút thương hại, dịu dàng:

– Vâng, tôi tin thế…

Nghĩ ngợi, Sa nói tiếp:

– Người H’mong có tiếng là có thuật gọi được hồn người chết về trò chuyện. Ðiều này, nhiều người cho là dị đoan…

Bật dậy, Freddy nắm lấy cườm tay Sa, nói van nài:

– Cô có biết ai có cái thuật ấy không? Tôi thì tôi tin! Tôi muốn nói chuyện với cha. Chỉ một lần thôi… Xưa cha viết về bảo mom và tôi rằng máy bay làm phi vụ thám thính bay rất cao, tên lửa không lên tới được. Vì thế, làm sao máy bay cha lái lại rơi? Ðấy, tôi van cô, cô làm trung gian tìm cho tôi một người biết gọi hồn, tốn kém gì tôi cũng trả được…

Gỡ nhẹ tay Freddy ra, Sa đi ra nói với lại:

– Tôi sẽ giúp anh – Sa cười – với điều kiện!

Freddy vội bước theo, vội vã:

– Ðiều kiện gì?

Sa đưa tay lên môi làm dấu:

– Tôi sẽ nói sau. Nhưng đừng kể lại cho ai cả nhé.

*

Khoảng vào lúc mặt trời ló lên khỏi đỉnh Fanxipan, chợ Sapa bắt đầu tấp nập vào mỗi sáng thứ bảy. Người H’mong, người Dao, cho đến người Pà Thẻn du mục cũng về tụ tập. Họ đi thành từng nhóm năm, bảy người, gùi trên lưng, nách kẹp những cuốn vải thổ cẩm thêu tay, áo chẽn, quần bó đủ màu đủ sắc mang lên bán cho du khách và những cửa hàng lưu niệm phần lớn do người Kinh làm chủ. Phân biệt được qua cách ăn mặc, màu khăn, màu mũ, họ hoặc là H’mong xanh, H’mong đen, H’mong hoa, hoặc là Dao đỏ, Dao Tiền, Dao quần chẹt… Một số kéo đến khách sạn chào hàng. Họ xô đến giúi hàng vào tay đám du lịch, miệng cười, líu lo “chíp, chíp”, và xì xào “lô vơ mác két”, làm như thể Chợ Tình họp tối nay là một dạ hội hóa trang.

Khi Marthe ra đến cửa khách sạn, họ reo “công chúa!” rồi ùa cả đến. Công chúa không mặc cả, lấy hết cái khăn choàng này đến cái váy nọ, cuối cùng mang vào cả đống sản phẩm thủ công, mặc cho ông hoàng bất đắc dĩ André cứ chau mày thở dài thườn thượt. Kể ra, Marthe là người rộng rãi. Marthe bảo với André:

– Mua về làm quà cho bạn bè! Ở Paris, làm gì còn ai có đồ thêu tay thế này!

André kêu:

– Xách nặng lắm! Và kẻ khuân vác cho công chúa đây đã già rồi…

Marthe cười:

– Chéri, già đâu mà già…

Lùng Thầu cùng một số gia đình cũng đến Sapa. Sau ngày họp chợ, họ sẽ đưa Marthe về Lũng Mây. Tất cả đều dự định cùng đi với Marthe, trừ Billy. Hắn bẽn lẽn, xin chuyển sang một khách sạn khác sau buổi tối sàm sỡ với Sa và nay theo một toán du khách mới từ Hà Nội lên. Buổi trưa, chỉ còn Hà và cặp vợ chồng đi cùng chuyến. Trong phòng ăn, André luôn miệng hỏi Sa về Chợ Tình. Sa chỉ cười bí mật, lảng chuyện, và bảo cứ đợi, khoảng tối trời là chợ họp.

Ăn xong, Hà ra ngoài hiên. Nắng óng ả rải một lớp vàng tươi lên cây cỏ. Mây mù tan trên những rặng núi trùng trùng điệp điệp vây quanh, vén lên bức màn the đục trắng như sữa che những đỉnh cao nay lồ lộ chọc thẳng lên trời xanh nhìn như dương vật của thứ giống đực vào mùa ái tình. Tiếng Sa cất lên làm Hà giật mình quay lại. Miệng cười, Sa và Marthe hiện ra trong trang phục người H’mong. Cả hai mặc áo bó, váy chẽn, có viền những hàng chỉ vàng và đỏ trên nền tím than. Marthe bảo:

– Nhờ anh bấm hộ cho mấy pô ảnh!

Hà gật đầu, đưa tay ra cầm máy. Sa bẽn lẽn, thì thầm vào tai Marthe. Marthe lại nhìn Hà:

– Anh chờ chúng tôi vài phút nhé. Ðể chúng tôi hóa trang cho đúng cách!

Vui vẻ, Hà mỉm cười. Lát sau, Marthe và Sa đầu đã đội khăn đỏ, tóc bới lên cao. Marthe đánh mắt cho Sa, bôi lên mi mắt một lớp phấn lục và lấy mascara kẻ lông mi, uốn cho cong lên, khiến cái nhìn của Sa bỗng dưng mất hết vẻ trẻ dại. Môi tô một lớp son đỏ tươi, Sa nhếch lên cười, ngượng nghịu hỏi Hà:

– Thấy có được không chú?

Ngắm Sa, Hà khẽ gật đầu, mắt để vào cổ Sa. Chiếc cổ cao, tròn, trắng bóc như ngọc thạch nổi lên cạnh mái tóc đen huyền bới cao. Bước đến gần, Hà ngửi thấy một mùi hương nhè nhẹ thoáng qua rồi biến mất. Nhìn vào những sợi lông tơ mọc trên gáy Sa, Hà bỗng thấy thèm đặt môi lên, cắn nhẹ vào, hệt như khi còn bé thèm mút một chiếc kem que. Marthe chọn góc vườn còn nhiều hoa thược dược, vẫy Sa:

– Lại đây, chỗ này đẹp…

Hà bấm máy ảnh, mắt nhìn, nhưng đầu cứ tưởng đến chiếc cổ tròn, gáy có những sợi lông tơ và thoáng thứ hương thơm Hà chưa kịp định loại. Một lúc sau, tay chỉ lên sườn núi cạnh khách sạn, Sa nhìn Hà và Marthe, miệng ríu rít:

– Ta lên đỉnh Hàm Rồng?

Từ đỉnh Hàm Rồng nhìn xuống, những nương lúa còn chân mạ đốt cháy đen nằm thoai thoải, xếp chồng lên nhau như người ta xếp khay, đều đặn nhưng có gì như một chút buồn tẻ. Trưa hôm đó, Hà chụp hết một cuộn phim ba mươi sáu pô. Khi trời bắt nóng hừng hực, Marthe quệt mồ hôi rồi đề nghị về. Cả bọn thả dốc, chân giẫm ngang để lấy thế cân bằng. Hà nhặt một khúc cây làm gậy chống, đi trước để đỡ Marthe và Sa khi cần. Ðến một đoạn thoai thoải đi đã dễ, Sa nói:

– Lối này dốc, nhưng về nhanh hơn!

Marthe lắc đầu, bảo Sa cứ đi. Nhìn Hà khiêu khích, Sa cười:

– Chú có dám không?

Hà vui vui, giả vờ lắc đầu, nhưng tuột xuống trước. Quả là dốc thật, độ nghiêng lắm khi làm chóng mặt. Sa xuống núi như một con sóc. Qua một đoạn đầy sỏi, chân Hà tuột đi, chiếc gậy chống không đỡ người nổi. Chàng chúi xuống đất, thân sóng xoài rồi ngã, đầu đâm vào lòng Sa. Chợt lại thấy mùi hương ban nãy thoảng lại, Hà nhắm mắt hít vào, có cảm giác đây không phải là lần đầu khứu giác mình bắt gặp một mùi hương hăng nồng tương tự. Ngửng lên, Hà bắt gặp đôi mắt Sa, viền mi kẻ đen, mí mắt tô xanh, mở rộng ra như cả bầu trời bát ngát lơ lửng. Nghe tiếng Sa cười, Hà hỏi như kẻ mất hồn:

– Mùi gì mà thơm thế?

Sa đáp, giọng cố làm ra tự nhiên:

– Mùi con gái, anh ạ!

Phần Hà, Hà biết rõ ràng Sa vừa gọi mình bằng anh nhưng nghĩ có lẽ là do Sa buột mồm nói lẫn.

*

Ðợi một lúc nơi cuối dốc, Hà và Sa thấy bóng Marthe từ xa đi lại. Họ cười với nhau rồi cùng về khách sạn. Ðến gần, tiếng sáo Freddy thổi đang vút lên cao, thình lình rơi xuống nghe như một cục đá tảng rời sườn non tuột xuống. Marthe bảo:

– Anh ta đang thổi theo hứng! Chắc nỗi lòng đang vào cơn xao xuyến…

Sa đẩy cánh cổng vào trước. Freddy vùng dậy, ngỡ ngàng nhìn Sa trong trang phục H’mong, buột miệng:

– Trông như một con bướm. Bướm đẹp nhất Sapa này!

Sa khẽ gật đầu chào, miệng cười như cám ơn. Freddy bước theo Sa. Sa ngoái lại, giọng tinh nghịch:

– Nhưng anh đừng chích phóc-môn nhé! Tôi không muốn làm một cái xác khô mà còn giữ được linh hồn đâu.

Chưa dứt lời, Sa chợt cảm nhận kiếp tù tội cùa những cánh bướm khô. Nàng thầm nhủ, linh hồn tôi không cần chất hóa học và cũng chẳng màng đến chuyện bất tử. Khi không còn thể xác, tôi cầu mong cho linh hồn tôi tự do…

Freddy chưa kịp phản ứng thì Sa tiếp:

-… và xin chớ ghim tôi lên tường cạnh những xác khô. Còn thể xác thì không thể tự do được.

Ðột nhiên Sa gằn giọng, mắt nhìn Freddy trừng trừng:

– Có phải tự do là điều mà người Mỹ các anh cứ hô hào tuyên bố gì là lại lập đi lập lại như cha tôi bảo vậy không…

Như bị thôi miên, Freddy khe khẽ gật đầu, miệng nhếch lên cười. Sa cười nhạt:

– … nhưng tự do để làm gì, các anh có biết không? Cha tôi ngờ rằng không! Ông bảo tôi, con ơi, tự do mà không có mục đích gì thì đó là điều ghê rợn nhất cho loài người.

Ðúng lúc đó, mẹ Sa ở đâu xô ra. Bà kêu:

– Sa con, vừa lên Hàm Rồng à! Vào đây, nhanh…

Sa lạnh lùng chào Freddy, theo mẹ vào bếp. Bà bực bội:

– Mẹ đã bảo nằm mơ thấy anh con tay chỉ lên đó, dặn con tránh đi mà thoáng một cái là con biến mất…

– Con phải dẫn khách đi chụp ảnh!

– Thiếu gì chỗ chụp! Lần trước mơ thấy anh ấy chỉ tay về phương Nam thì cha con bỏ đi. Lần này… – mẹ Sa thở dài – anh mày chết ở Campuchia, người ta bảo chết ở đó thiêng lắm. Lại chết trẻ, chưa được hai mươi…

Nghe tiếng mẹ sụt sịt, Sa lắc đầu bước ra, miệng lẩm bẩm:

– … sống khôn, chết thiêng. Thiêng thật thì giúp em… Ðừng để ai nhốt linh hồn em vào những cánh bướm khô cứng ở đây, tội nghiệp!

*

Mẩu đối thoại tưởng như chuyện thoảng qua không ngờ lại tác động lên Freddy một cách lạ lùng. Ði đi lại lại trong sân, hắn vò đầu, mặt co rúm lại nhăn nhó, thỉnh thoảng buột miệng kêu Trời. Ðến trước mặt Hà, Freddy run run:

– Người ở đây thù ghét người Mỹ đến thế à? Cả cái cô bé con kia cũng như họ, anh thấy không…

– Cô ấy chỉ lặp lại lời cha cô. Có lẽ ông thuộc vào một thế hệ khác… Còn Sa, cô ta nào đã biết gì!

Freddy bần thần nhìn Hà, băn khoăn:

– Anh nghĩ cha Sa nói có đúng không? Tự do mà không mục đích! Thật là người Mỹ không có mục đích, cứu cánh gì à? Xưa cha tôi qua đất này, ông bảo tôi, cha đi chiến đấu cho tự do. Một thế giới tự do. A Free World…

Nhìn Hà ngồi im lặng, Freddy tiếp:

– Anh không tin, tôi biết. Nhưng anh nay là công dân Mỹ, anh sống ở đấy anh biết thế nào là tự do, ít ra là tự do kiểu Mỹ. Anh thấy thế nào?

Trầm ngâm, Hà suy nghĩ mông lung, rồi bật lửa châm thuốc hút. Nhìn Freddy, Hà nhẹ nhàng:

– Có, tôi có tự do, hiểu một cách so sánh với tự do ở một nơi nào khác, chẳng hạn như ở đây. Nhưng vấn đề là cứu cánh của tự do…

Hà ngập ngừng, bỏ lửng câu định nói. Chàng bỗng thấy chua xót cho mình. Con người có thể tự do mà không cứu cánh, và như thế có là như hụt bước rơi trong chân không? Ðó liệu phải là trường hợp tôi – một anh broker – ở New York, có được ít ngày nghỉ, chợt hẫng chân rồi nhận ra cái vận tốc ly tâm của mình trong chuyển động vòng? Nó khiến tôi ngày một xa đi chính cái tôi, một cái tôi uyên nguyên, có trí nhớ, có ước vọng. Về đến xứ sở của mình, dĩ nhiên là tương đối mất đi một chút tự do, nhưng ngược lại, chuyển động ly tâm chậm lại, và hình như nó đổi chiều để cái tôi kia bị một thứ lực đồng tâm hút lại, qui về sự uyên nguyên tưởng như đã mất…

Lắc tay Hà, Fređđy đợi một câu trả lời. Ấp úng, Hà hạ giọng:

– Thôi, hãy thực tế. Giả thử như anh hỏi tôi chọn lựa giữa tiếp tục sống ở Mỹ hay về đây sống, tôi sẽ không biết chọn thế nào…

Freddy khổ sở xua tay, ngắt:

– Không, không! Tôi muốn anh bàn về cái thế giới tự do cha tôi tin vào. Cha tôi thuộc diện M.I.A. Chiến tranh Việt Nam đã chấm dứt gần một phần tư thế kỷ, và tôi tin rằng cha tôi đã chết. Tôi chỉ muốn hiểu ý nghĩa của cái chết đó, thế thôi…

Thò tay móc một điếu thuốc, Freddy lóng ngóng mồi lửa, giọng hoảng hốt nói mỗi lúc một nhanh:

– Cha tôi là thiếu tá không quân. Nước Mỹ có chiến tranh, ông nhận lệnh đi chiến đấu. Ông viết thư cho tôi, bảo cha không thả bom, chỉ bay thám thính. Rồi có thể bị trúng tên lửa, từ đó ông biệt tích. Nhưng tại sao khi đi ông bảo đi chiến đấu cho tự do, mà rồi sau đó cứ nhắc đi nhắc lại với tôi là máy bay ông không thả bom? Máy bay thám thính bay cao quá tầm tên lửa. Vậy vì lý do gì máy bay ông lại rơi? Ông thám thính hay thả bom? Nói với tôi, ông nói thật hay dối? Tại sao dối? Rồi chết, chết để làm gì? Cho cái gì?

Nhìn Freddy hào hển thở dốc ra, Hà biết nói gì cũng chẳng thể trả lời những câu Freddy hỏi. Hà đứng dậy khi nghe tiếng Sa gọi. Freddy bảo không đói, lại nâng cây sáo lên ngang miệng, thổi như để tự trấn an.

Trong phòng ăn, Marthe và André đã ngồi chờ. Hà lẳng lặng ngồi xuống bàn. André nhìn Marthe, vui vẻ:

– Thế mà không đợi tôi để tôi có dịp chụp ảnh với công chúa.

Vẫn mặc trang phục người H’mong, Marthe đáp, giọng giễu cợt:

– Dịp còn nhiều, thưa ngài. Bây giờ chúng ta uống một ly để ghi nhớ ngày họp Chợ Tình. Nhưng Freddy đâu?

Tiếng sáo ngang dìu dặt rồi thê lương. Sa ra, tay bưng đồ ăn. Nàng tưởng tượng ra một đàn bướm bay lại khi nghe sáo, chờn vờn nhảy múa, rồi bất chợt lả tả rơi xuống như những cánh bướm có trích phóc-môn, thứ hóa chất có thể giam hãm cái đẹp trong sự bất tử khô khốc của những linh hồn vất vưởng.

N.D.

Chú thích:

(25) Mẹ.

(26) Lạy Trời! Anh sẽ về nếu em đừng khóc!

(27) Mẹ, đừng khóc, con xin mẹ đừng khóc!

Comments are closed.