Trư cuồng (kỳ 8)

Nguyễn Xuân Khánh

Tiểu thuyết

Phần 1

Nhật ký lợn

Ngày… tháng…

Tôi sốt! Tôi sốt!

Tôi rét! Tôi rét!

Tôi thật tồi tệ. Tại sao tôi có thể đem ra chợ bán những Tchekhov, Shakespear? Tại sao tôi có thể để cho lũ lợn phè phỡn vênh váo, nhờ vào máu xương của những con người như vậy?

Từ ngày tôi bán sách, con lợn bò của tôi bỗng nhiên trông tươi hơn hớn. Nó lớn trông thấy từng ngày. Nó phây phây, hồng hào. Da thịt nó căng ra. Lông nó bóng nhẫy như phết mỡ. Cổ núng nính một cái yếm toàn là mỡ.

Hàng ngày, ăn xong, nó nằm nghiêng người, duỗi thẳng chân, để phơi ra chiếc bụng căng phềnh mầu máu thịt. Còn lũ lợn ỉn thì đốn mạt hết chỗ nói. Chúng đã hoàn toàn chịu thua, chịu là lũ đầy tớ của lợn Bò. Con ỉn Lang và con ỉn Đen chụm sau lưng con lợn Bò, để làm vật kê đệm, để làm vật sưởi ấm đằng lưng cho nó. Còn con ỉn út thì làm công việc la liếm. Đầu tiên, ỉn út liếm mặt, liếm mõm, tức là công việc vệ sinh những thức ăn dây rớt, dư thừa trên mặt lợn Bò. Sau đó, là việc liếm nách, liếm bụng, liếm mặt, liếm tai, một thứ liếm gây khoái, một thứ liếm nịnh bợ. Mỗi nhát liếm của con ỉn út, lợn Bò lại khoái chí kêu lên hự hự. Cuối cùng, lợn Bò chẳng cần e thẹn, liêm sỉ gì nữa, nó xoay mình nằm ngửa tênh hênh, chổng bốn vó lên trời, để con ỉn út liếm vào dương vật, cái của quí của nó.

Tôi hầm hầm tức giận, cầm chiếc chổi tre vụt túi bụi vào cả bốn con lợn đốn mạt ấy. Vừa đánh, vừa quát:

– Phè phỡn! Này, đồ phè phỡn!

Ngày… tháng…

Đêm nay tôi mơ thấy ông Tchekhov dắt tôi và Tám Bách Khoa ra chuồng lợn. Tôi hỏi:

– Cụ định làm gì vậy?

– Để thử xem con lợn Bò của anh là thứ gì?

– Cụ định quan sát để viết một thiên truyện ngắn về con lợn Bò của tôi có nhẽ?

– Đã gần một thế kỉ nay, tôi có viết gì nữa đâu.

Tchekhov từ tốn móc ở túi gilê ra một chiếc kính không gọng rồi kẹp vào mũi, rồi ngắm nhìn con lợn Bò. Con vật thấy Tchekhov nhìn, nó tỏ thái độ vênh váo hẳn lên. Nó đứng thẳng, vươn cái bộ mặt phị núng nính ra cho ông già ngắm. Rồi nó đủng đỉnh đi lại rất đường bệ. Tchekhov gật gù:

– Con lợn của anh có tướng mạo lắm.

Tám Bách Khoa nhìn cặp kính của Tchekhov với một vẻ thán phục. Tchekhov tiếp tục nói bằng một giọng thủ thỉ phiền muộn:

– Tướng mạo kỳ dị! Thánh thót, ngọt ngào, ai nghe cũng lọt tai. Nhưng cương nghị, tàn nhẫn thì cũng chẳng ai bằng. Có cái gì đó ma quái và linh thiêng. Rờn rợn và đáng sợ.

Tám vỗ tay reo lên:

– Đúng! Đúng! Poóc xi nô ma ni! à, phải rồi Porcinisme! Bái trư giáo!

Sêkhốp lặng lẽ đút chiếc kính không gọng vào túi áo gi lê, rồi cúi đầu bước đi. Ông bước đi buồn bã. Ông đang bước đi hay ông đang bay? Ông bước trong không trung mờ ảo. Những cây bạch dương xòe bóng che ông. Một khu rừng Nga cổ kính… tiếng lá rì rầm… bóng ông cúi đầu nhỏ dần, mờ dần, buồn bã như một màn sương mùa đông.

Tôi và Tám đứng ngây người nhìn theo bóng ông già huyền ảo. Và Tám bỗng ghé vào tai tôi:

– Anh thấy gì không?

– Cái gì?

– Chiếc kính không gọng của Tchekhov.

– Tôi không hiểu anh định nối gì.

– Còn phải hiểu gì nữa? Chiếc kính ấy là Kính – Chiếu – Trư.

– Thế nghĩa là gì?

– Nghĩa là gì? Trời ơi! Ngốc ơi là ngốc.

Ngày… tháng…

Tôi sốt hay tôi rét?

Tôi mê sảng hay điên rồ?

Tôi ngột ngạt, mà không gian thì xám lạnh. Đài phát thanh báo tin rét về, 9 độ.

Tiếng Tám vang to: Pooc xi nô ma ni.

Thằng Linh thấy tôi ốm, lấy trộm sách của tôi mang đi bán. Tôi hét lên:

– Không được phép bán sách. Bán sách hay là đốt sách? Đồ Tần Thuỷ Hoàng!

Tôi căm giận, tát mạnh vào má con tôi. Vợ tôi nhìn tôi, khinh bỉ lầm bầm:

– Đồ trí thức rởm!

Tôi quát to:

– Câm đi! Cút đi! Cả lũ cút hết đi!

Thằng con út của tôi ôm mặt nức nở và quì xuống

– Bố ơi! Con lạy bố! Con van bố!

Tôi ngồi phịch xuống chiếc ghế bành cà khổ: “Hay là nhà tôi đang bị ma ám”?

Ngày… tháng…

Tôi im lặng và cắm cúi làm việc. Tôi đã bị sơ cứng, bị chai sạn trước sự bì ổi của tôi và người xung quanh. Tôi chỉ còn là một chiếc máy đã được vặn giây cót, và theo quán tính nó vẫn tí tách chạy. Tôi chỉ còn là một sinh vật, theo bản năng, nó vẫn phải làm việc và phải sống. Hay là vì đã tiếp xúc quá lâu với loài lợn, tôi đã tự đồng nhất mình với lợn, điều đó tôi cũng không hiểu nổi. Tôi cũng không còn đủ năng lượng để mà thù ghét lâu dài. Hôm qua, tôi tức giận với vợ con, hôm nay tôi lại thờ ơ, cứ tưởng như chuyện đó xảy ra từ một buổi xa xôi nào đó, mà hình như cũng chẳng còn năng lượng để mà hối hận hoặc yêu thương. Tôi dửng dưng nhìn những người trong gia đình đi lại ăn uống, cứ coi họ như những con rối và mình cũng là một con rối. Dường như tôi đã chuyển hạ mình xuống thành một thứ sinh vật ơ hờ.

Nghĩ cũng thật hay! Chính trong lúc này, gia đình tôi lại sáng kiến ra một cái nghề rất là độc đáo, nó đã giúp chúng tôi phần nào thoát khỏi sự túng bấn, sự cùng bĩ. Đó là nghề: bán bèo. Thưa, không phải là nghề bán bèo cổ truyền sang trọng, thật hạt như ông cha ta đã làm. Ngày xưa, các cụ bán bèo hoa dâu, bèo cái, đó là những thứ bèo mà hàm lượng đạm, bột, vitamin khá nhiều; đó là những thứ bèo mầu mỡ, ăn vào lợn chảy da chảy thịt, như các cụ vẫn nói. Còn tôi, tôi bán thứ bèo rởm. Đó là bèo Nhật bản, một thứ bèo sinh nở như điên, một thứ bèo hoa tím hình như đuôi con công, rất duyên, rất đẹp, nhưng vô tích sự. Trong sách, các nhà khoa học đã phân tích, hàm lượng các chất dinh dưỡng của nó hầu như số 0; trong nó hầu như chỉ có chất sơ. Tôi ra chợ, nhận xét thấy số người ham mê nuôi lợn của Hà Nội tăng lên vòn vọt. Các thứ rau, lá tập tàng, người ta đều mua cho lợn ăn. Thế là tôi nảy ra ý kiến bán bèo Nhật bản. Tôi bơi thuyền trên hồ sau nhà, gom bèo lại thành một dàn bèo khổng lồ, lấy nứa tép quây thành ranh giới cẩn thận. Sau đó cứ mỗi sáng, tôi sai thằng út của tôi bơi thuyền khắp hồ vơ vét thứ bèo vứt đi đó, đem về nhà bó lại, mang ra chợ bán; còn dàn bèo kia làm kho dự trữ.

Lúc này, tôi còn hà tiện hơn cả lão Harpagon của Moliere. Tôi nhặt nhạnh tiền bán bèo từng xu một. Những buổi tối, trông thấy tôi bó bèo, thằng con sinh viên của tôi nói to rất hài hước:

– Hoan hô bèo! Bèo cứu sống con người. Hoan hô nhà trí thức chịu khó lam lũ.

Tôi hỏi:

– Cậu định chế diễu tôi sao? Làm việc thế này là trong sạch.

– Đúng rồi! Đúng chất của bố rồi. Trong sạch ư? Lương tâm ư? Bố sợ con bán nốt những cuốn sách thánh. Bố thay sách bằng bèo. Nhưng, trông kìa! Những cây bèo của ông xoè ra như cái quạt. Thưa rằng, làm như thế để bó bèo có vẻ to, có vẻ dầy dặn đẫy đà. Hoan hô nhà trí thức làm hàng giả dối, làm hàng rởm. Hoan hô sự trong sạch hiện đại.

Tôi ngượng tím mặt. Thằng quái con sọc đúng tim đen tôi rồi. Nó bóc nốt lớp sơn giả dối, mỏng manh bọc hờ lấy trái tim tôi. Giọng nó vẫn diễu cợt độc ác:

– Khái niệm trong sạch của bố sao mà khó hiểu thế.

Tôi nhức nhối:

– Thôi, con ơi! Ta van mày. Hãy im đi. Hãy tha thứ cho ta.

Tôi tự xấu hổ thầm. ừ, tại sao ta lại chỉ có thể trong sạch ở những điểm to tát, nguyên tắc? Còn những việc nhỏ bé thì cho phép làm ngơ với lương tâm. Ai cho phép anh giả dối dù công việc chỉ là những cọng bèo? Tại sao tôi lại bóc nõn nà những cây bèo Nhật Bản? Tại sao tôi phải sửa sang sắc đẹp cho chúng, để rồi bó xoè chúng ra như chiếc quạt? Là vì tôi muốn đánh lừa con mắt người đời, để họ tưởng bó bèo là non, là đẫy. Là vì tôi muốn kiếm thêm mỗi bó bèo năm xu, một hào.

Ô hô! Cọng bèo giả dối! Ô hô! Lương tâm trong sạch! Ô hô! Cái con người tự nghĩ mình là trí giả! Thảm thương lắm thay! Vậy thì, ta nên bán bèo hay ta nên bán sách?

Ngày… tháng…

Thằng Linh nói với tôi về một nhận xét rất hoang đường:

– Bố có thấy một điều lạ lùng đã xảy ra không?

– Điều gì?

– Từ khi bố bán bèo nuôi lợn, lũ lợn biếng ăn hẳn đi. Con thấy chú lợn Bò chỉ thích ăn sách của bố thôi. Có lẽ lũ lợn thích nhất ăn thịt các nhà văn bố ạ.

– Láo! Hoang đường! Mày định tiếp tục diễu cợt tao hay sao?

– Thôi! Tiếc làm gì. còn những cuốn sách của Dos, bố cũng nên bán nốt đi.

A ha! Thằng quái con. Nó biết tôi rất quí Dos, nên nó giở trò trêu tôi đấy.

Ngày… tháng…

Thằng Linh khoe:

– Một cô bạn sinh viên mới ở Sài gòn ra, tặng con cuốn: “Anh em nhà Karamazov” . Bố thấy không, con cũng có sách quí. Kém gì bố đâu.

Ngày… tháng…

Con lợn Bò gặp tôi trong giấc mơ. Nó gọi đích danh:

– Ông Hoàng! Ông Hoàng! Tôi muốn nói chuyện nghiêm túc với ông.

– Chuyện gì? Đòi hỏi thức ăn chăng? Ta vẫn cho ngươi sống đầy đủ. Con ta có hôm nào được ăn cá đâu; còn ngươi bữa nào cũng có dăm nhách cá. Vậy, còn mè nheo gì?

– Bèo của ông ăn vào đói lắm. Ta chưa đủ no.

– Mỗi bữa ăn hai thùng gánh nước còn chưa no? Có lẽ ngươi muốn yêu cầu ta bán nhà đi để nuôi ngươi sao?

– Đừng keo kiệt. Hãy hiến dâng tất cả cho ta. Ta biết những kẻ mê lợn như ông sẽ có thể hiến cả thân mình để nuôi lợn.

– Hiến dâng ư?

– Chứ sao! Rồi ông sẽ hiểu. Ta xứng đáng như vậy. Vả lại keo kiệt mà làm gì? Đã đến nỗi nào mà phải bán nhà. Tủ sách của ông mới vơi một góc nhỏ. Còn cô de Beauvoir, còn Beckett và còn cả Dos nữa…

– Đồ mật thám! Mày rình mò cả tủ sách của tao.

– Tiếc làm gì vài quyển sách nát. Giữ mãi rồi cũng hỏng. Này, quyển Kinh Thánh của ông đã rách cả đầu lẫn cuối rồi đấy.

– Thật bỉ ổi!

– Cáu làm gì. Anh ngớ ngẩn nên cứ tưởng sách là quý. Vợ anh nói đúng đấy, cô ta là vợ anh mà có cần gì sách của anh đâu, cô ta hứa là khi anh chết sẽ chôn sách theo anh… Ha ha…

– Câm mồm đi.

– Anh nghĩ mà xem; thế giới ngày nay có hàng vạn người cầm bút. Mỗi ngày, bình quân hàng nghìn cuốn sách được ra đời ở mọi nơi. Chao ôi! Tư tưởng? Ta đến ngột ngạt vì sách, vì tư tưởng của các người. Nhưng thử hỏi, sách mọc lên như nấm thế, mà sao con người hiện nay có tốt đẹp gì thêm đâu? Vả lại, sách còn đem vạ cho người. Ở thời buổi này, sách có thể dẫn ta vào cuộc đời tan nát.

– Quân láo xược! Mày định doạ ta sao? Cút xéo cho khuất mắt ta. Đồ con lợn.

Ngày… tháng…

Tôi ngồi uống nước trà đặc, cố làm tỉnh táo cái đầu óc đầy mộng mị kì quái của tôi. Đột nhiên, có tiếng lợn ăn rất lạ làm tôi sửng sốt. Tiếng lợn ăn như reo, như vỗ tay. Nhịp điệu vỗ máng bắt đầu nhịp nhàng từ tốn sau trở nên hối hả. Đó là tiếng đớp cám của chú lợn Bò. Nó vừa ăn vừa thở hổn hển. Nó ăn tuyệt quá, đến nỗi tôi ngồi uống nước trà không yên. Tôi càng sốt ruột hơn khi nghe tiếng thằng Linh thúc dục động viên ngoài chuồng lợn:

– Hãy ăn mạnh lên! Mạnh nữa lên! Hoan hô!…

Tôi xỏ dép ra ngay chuồng lợn. Linh quay lại:

– Bố đến mà xem. Con lợn Bò ngốn như thuồng luồng. Khác hẳn ngày hôm qua. Bố biết tại sao không? Vì hôm qua nó ăn bèo, còn hôm nay nó ngốn quyển “Karamazov” . A! Gau gáu! Ngon lành chưa! Nó đang nhai chân cụ Đốt.

– Thằng tồi tệ! Mày lại bán sách – Tôi buồn rầu – Mày coi thường lương tâm của bố mày.

Nghe giọng nói thảm hại của tôi, Linh không dám đùa cợt nữa. Nó lẳng lặng cùng tôi quay vào nhà. Hai bố con đối diện nhau trước bàn trà. Thằng bé có vẻ thương hại tôi. Nó đã thôi giọng bông lơn, và quay trở về nghiêm túc.

– Bố giận con ư? Con đâu dám coi thường bố. Bố hiểu cho. Con chỉ muốn tìm ra một sự thật.

– Sự thật?

– Vâng, điều con tìm ra là một sự thật. Dù lòng bố có tốt, không muốn như vậy; nhưng sự thật vẫn diễn ra không theo ý bố. Ta không thể chối bỏ nó.

Tôi chua chát:

– Như thế có nghĩa là, ở thế kỷ này, đã chấm dứt mọi sự trong sạch, và những cái gì gọi là…

– Bố cứ hay khái quát. Không nên thế. Con chỉ nhận xét thấy một điều: lợn thích ăn sách; và chắc là xương các nhà văn ròn và nhiều chất can xi nên lợn rất ham ăn. Nhất hạng, lợn thích nhai xương cụ Đốt.

Con tôi lại trở về giọng bông lơn. Tôi im lặng thầm nghĩ. Không biết thằng bé học được cái giọng đùa cợt này từ lúc nào. Tôi có dạy con tôi như vậy đâu. Có lẽ việc tôi nuôi lợn là một điều kỳ cục, tức cười quá chăng? Mà có lẽ vậy… Bởi vì lợn là một giống vật không được hay ho cho lắm. Mà lợn như con lợn Bò của tôi lại là một con vật ma quái. Thế, mà ta đã mang nó về nhà nuôi nấng, thờ phụng. Trong khi con ta đói, thì lợn ăn cơm cá. Trong khi tâm hồn con ta còi cọc, thì ta bán sách cho lợn ăn. Rồi ta tâng bốc nó lên, hí hửng khoe khoang với nhau, để rồi chồng, vợ, con cái cấu xé lẫn nhau. Hay ta đã rước hoạ về nhà?

Bệnh dịch, hay một cơn điên, hay là Poóc xi nô ma ni? Đầu óc tôi lại nhức nhối. Lại sốt, lại rét, lại quay cuồng. Những suy nghĩ bề bộn, không đầu, không cuối. Lắm lúc như hé mở, như đã tháy một điều gì đó rõ ràng minh bạch; nhưng rồi lại sợ hãi không dám tin vào những suy nghĩ của mình nữa. Ta lo lắng, giơ tay ra như muốn bấu víu lấy một cái gì đó thật là vật chất, thật là cụ thể; nhưng tay ta chợt hẫng, vì ta đã bíu vào một không gian loãng, mờ ảo và rất hấp dẫn…

Tôi ngồi ở chiếc ghế bành cà khổ ấy cho đến đêm, để mơ màng, suy nghĩ đến trăm điều, và để cuối cùng chẳng còn gì đọng lại trong đầu. Những ý tưởng của tôi như những gã mù loà chống gậy dò dẫm trong một không gian đen kịt.

Những hình thù kỳ dị bỗng đột nhiên hiện ra trong óc: con lợn Bò khổng lồ biết nói; và một bóng người mờ loãng, toàn thân hư không, tất cả chỉ còn đọng lại một bộ râu và những sợi tóc. Tôi hỏi:

– Lợn Bò thì ta biết rồi. Còn ông, ông là ai?

Một giọng trầm trả lời theo nhịp râu lắc lư:

– Lợn Bò của anh nghiến ngấu rất phũ. Chỉ một ngày, nó đã gặm hết toàn bộ thân thể ta. Riêng bộ râu và tóc không ăn được nên nó chừa lại.

Lợn Bò hể hả:

– Thịt cụ Dos thơm lắm. Còn món tóc và râu thì khô như rơm…

Tôi hỏi bộ râu:

– Vậy cụ là Dos?

– Vâng tôi là Dos.

Tôi lo lắng hỏi:

– Con lợn của tôi đã ăn mất cả đầu cụ, cả khối óc cụ? Trời ơi! Con quỉ!

– Xin cám ơn vì anh đã lo lắng cho tôi. Nhưng đừng lo. Tôi không như Tchekhov. Tchekhov còn muốn giữ lại trái tim. Còn tôi, dù con quỉ của anh có ăn hết toàn bộ hình hài, tôi cũng chẳng lo. Song, tôi vẫn e ngại một điều.

– Thưa cụ, điều gì?

Đốt hất hàm, để bộ râu cằm chĩa về phía con lợn Bò đang chễm chệ, đấc chí đang ngồi trên chiếc ghế bành thứ hai của tôi:

– Anh thử nhìn xem, con quỉ của anh muốn gì vậy? Hôm nay, nó nhai cuốn Karamazov. Nó bỗng chợt hiểu ra một điều ta nói trong đó: “Chúa đã chết. Thời vô trị đã đến” và con quỉ của anh đã nảy dã tâm.

– Hà hà… chứ sao! – Lợn Bò cười ngạo nghễ. Bàn tay nó vỗ nhẹ vào chiếc tay ngai ghế bành, rồi gật gù đắc chí.

Tôi giận điên người:

– Mày phải cút ngay. Mày phải rời ngay khỏi cái ghế đó. Đừng giở trò phè phỡn.

Lợn Bò càng trêu ngươi. Nó ôm cái bụng núng nính cười thật to. Tiếng cười xoáy vào óc tôi nhức buốt. Tôi cáu kỉnh, cầm chiếc dép ném thẳng vào mặt nó và quát:

– Cút đi! Cút đi!

Con tôi nghe tiếng hét vội bật đèn. Nó thấy tôi ngã sóng soài trên mặt đất. Và toàn thân vã mồ hôi như tắm.

Ngày… tháng…

Tôi ngồi im lặng trên chiếc ghế bành, chờ đợi. Chờ đợi rất lâu. Đêm đã khuya, chắc phải nửa đêm ông ấy mới đến. Tôi rất sốt ruột, tôi muốn trò chuyện riêng với ông.

Chờ quá lâu nên tôi đã mơ màng thiếp đi. Khi tôi choàng mở mắt thì đã thấy ông ngồi ở chiếc ghế bành trước mặt. Vẫn cái thân xác vô hình vô ảnh ấy, vẫn bộ râu và mớ tóc ấy. Chỉ có khác là lúc này bộ râu im phăng phắc. Một tiếng vang lên trong tâm tưởng tôi:

– Chắc anh muốn nói với tôi điều gì? Tôi biết, vì mắt anh nói lên điều ấy.

– Thưa cụ, tôi muốn nói một điều mà bấy lâu tôi cứ băn khoăn. Những chuyện từ xưa, nhưng đến nay vẫn cần. Đó là kích cỡ con người…

Bộ râu hơi chúc xuống một lúc, rồi ngẩng lên:

– Chắc anh muốn nói rằng sự quá kích cỡ… sẽ dẫn tới… những điều không lường được.

– Có nên nói rằng dẫn tới… những tội lỗi không?

– Anh là người khắt khe nhỉ?

– Biết làm sao được hở cụ. Bởi vì điều đó liên quan tới cuộc sống chúng tôi đang sống. Quá khứ vẫn toả bóng xuống chúng tôi. Có thể nói quá khứ vẫn ảnh hưởng nặng nề xuống chúng tôi.

– Điều đó, lúc ấy chúng tôi không nghĩ tới. Chúng tôi chỉ biết cuộc sống quằn quại và nhục nhằn. Chúng tôi đâu có phải là người đi tìm giải đáp.Tôi chỉ trình bầy sự thật về sự sống. Sự trình bầy ấy sẽ tạo ra mỹ cảm và dẫn tới cái Thiện. Cái đẹp cứu rỗi thế gian.

– Thưa cụ. Chúng tôi rất cám ơn những nhà nhân văn chủ nghĩa của nước Nga ở thế kỷ các cụ, mà cụ là một đại diện. Như cụ đã nói, hậu quả của nó thật không lường được. Chúng tôi đã theo các cụ đi tìm cái đẹp tuyệt vời ở thế gian này. Hãy không nói đến mặt tích cực vĩ đại của nó. Đã bao thế hệ rưng rưng nước mắt. Đã bao thế hệ lao mình xả thân vì cái đẹp tuyệt vời ấy. Nhưng điều không lường được ở đây là cái đẹp tuyệt vời ấy lại quá kích cỡ con người. Chúng tôi đã trở nên con người cuồng tín, những kẻ cực đoan. Chúng tôi đã đạp đổ các thần linh và đem con người lên địa vị thần linh. Chúng tôi muốn đi tới chỗ hoàn thiện hoàn mỹ. Và chính đấy là bi kịch mà chúng tôi không biết. Chúng tôi đã choàng một tấm áo lộng lẫy nhưng quá kích cỡ; tấm áo của những người khổng lồ, trong khi đó chúng tôi chỉ là những người bình thường. Một thế kỷ trôi qua, chúng tôi dù có tăng cao được vài phân, tấm áo vẫn là một cái chăn thùng thình chụp kín chúng tôi vào trong, để chúng tôi rãy rụa cắn xé lẫn nhau. Bây giờ chúng tôi mới vỡ lẽ ra, đường đến thiên đàng còn phải đi qua địa ngục.

Bây giờ thì chúng tôi chán ngấy sự trở thành khổng lồ rồi, chán ngấy sự cuồng tín bi thảm ấy rồi, chán ngấy những cái gì siêu kích cỡ. Chúng tôi đã đẩy chúng tôi vào ngõ cụt.

Chúng tôi bây giờ thèm một cái áo vừa vặn, thèm một cái đẹp bình thường miễn là đúng kích cỡ, thèm một con người nhân hậu hơn là một anh hùng, thèm một hạnh phúc giản dị hơn là một siêu hạnh phúc, thèm một nàng tiên cá hơn là một Prométhée…

Bộ râu kia rung rung lên. Ông cụ nói:

– Ta biết chứ. Dù đã ngủ yên một thế kỷ, lương tâm ta có bao giờ được bình an đâu. Ta vẫn quì sụp trước nỗi đau khổ của thế gian.

Tôi muốn ôm lấy ông già vĩ đại, song ông đã lặng lẽ biến hình.

Ngày… tháng…

Tôi sốt ly bì hai ngày liền. Hết sốt, cái mệt mỏi lại kế tiếp. Sau đó là một nỗi buồn mênh mông ghê gớm. Chẳng phân tích nổi vì sao nỗi buồn của tôi lại tăm tối đến vậy. Cứ cảm giác như mình đang ở một hang đá lạnh, sâu thẳm, âm u và cô đơn.

Phải chăng cái buồn bắt nguồn từ tình yêu? Hồ ly đi xa, chắc chắn là tôi buồn. Cái buồn vì mất một bóng râm, hình như nó mang mác nhè nhẹ, gây cho ta một cảm hứng cao thượng, chứ đâu có tối loà như thế này. Tôi quờ tay ra quanh mình, chỉ thấy một bóng đen run rẩy. Hay là tôi buồn vì đói nghèo? Thú thực sự thiếu thốn quá dai dẳng và trường kỳ đã làm trái tim tôi đâm ra chai sạn. Tôi không còn đủ sức để nghĩ đến oán hận số phận nữa. Vả lại, kiểu người như tôi chắc chắn không thể nào bị gục ngã vì những thiếu thốn… Hay là ta buồn vì tư tưởng? Vì lo lắng cho thế sự? Chao ôi! Cái thân phận bọt bèo, lau sậy như tôi mà lại suy nghĩ to tát đến thế kia ư? Thú thực cũng có lúc hoang tưởng, tôi đã nghĩ đến những điều ấy. Nhưng bây giờ chắc chắn là không. Tất cả đã dược khoá kín trong hòm. Dos ư? Marx ư? Lão tử ư? Nietzche ư? Thích Ca ư? Jesus ư? Kirkegard ư?… Xin lỗi! Tôi rất trọng các cụ, bằng chứng là tôi đã băn khoăn, dằn vặt khi bán sách. Nhưng hàng năm nay, tôi đã không ngó ngàng đến các cụ. Tôi đã để các vị nằm buồn trong hòm sách mốc. Cuộc sống bận rộn và tàn nhẫn đã làm con người quên lãng mất tư tưởng. Tôi còn bận lên cơn lợn; tôi còn bận say mê lợn. Đêm đêm, còn chút thời gian phù phiếm, tôi lại lãng du vào những chuyện trinh thám. Tôi cố tự đánh mất mình đi, tự ru ngủ mình vào những giấc mơ tầm phào trong cuộc đời trần tục của những thám tử, những tội ác, những săn đuổi, những đam mê, những máu và nước mắt. Ôi chao! Tôi đã giã từ tư tưởng của các vị từ lúc nào chẳng hay. Vậy thì, sao có thể nói nỗi buồn của tôi mang mầu sắc tư tưởng?

Vậy thì cái buồn thăm thẳm ấy từ đâu đến? Cái nỗi Buồn đen ấy từ đâu đến? Vợ tôi, từ khi tôi ốm, đã hết giận giữ, nàng lo lắng cho tôi. Sự lo lắng ấy hiện trên nét mặt đăm chiêu mà tôi đọc thấy. Sự lo lắng ẩn trong cái run run của cốc nước trà đặc mà nàng đem tới. Sự lo lắng náu mình trong âm sắc nhẹ nhàng bối rối khi nàng nói:

– Ông cố mà uống. Có đường pha vào đấy.

Lẽ dĩ nhiên, cái buồn không phải đi từ cốc nước ra để ám ảnh tôi. Nó cũng không còn bắt nguồn từ mâu thuẫn vợ chồng.

Có lẽ, một nàng tiên buồn, hoặc một con quỷ buồn nào đó đã tinh nghịch rót nỗi buồn vào trong tâm tưởng. Nỗi buồn ấy có lẽ đã ẩn náu trong tôi từ một đời kiếp nào đó; nó nằm trong phủ tạng sâu kín, ở một nếp óc, ở một kẽ tim, ở một đường giây nơ ron được giấu ở chỗ thật tối tăm. Nỗi buồn ngủ lịm đã từ lâu, nay bỗng giật mình thức giấc.

Thực ra, tôi vẫn có ý thức rằng cuộc sống rất vui; bởi vì tai tôi vẫn nghe thấy tiếng trẻ hát và tiếng một cô gái cười ròn rã ngoài đường; nhưng lòng tôi vẫn thấy buồn. Tôi nằm nghiêng người, nhìn vào vách đất. Những kẽ nứt sao ngộ nghĩnh. Tôi chợt nhìn ra hình một chiếc đầu, một chiếc mõm. à, kẽ nứt vẽ hình một con lợn, hao hao như chú lợn Bò. Kìa con lợn trên vách bỗng ngoe ngẩy cử động. Lạ chưa! Nó biết nói, nói thầm trong óc tôi:

– Ta đây. Ta ở trong ngươi từ lâu lắm rồi, có lẽ từ thủa sơ sinh, từ lúc ngươi mới chỉ biết khóc, biết cười. Ta quí báu ngươi. Sao ngươi cứ giận hờn ta?

– Giận hờn ư? Ta chẳng cần quan tâm đến một tình cảm nào khác lúc này. Chỉ cần giải đáp nỗi buồn của ta lúc này là đủ. Tại sao ta buồn?

– Buồn ư? Ngốc nghếch! Chính ta, chính ta đã đem lại cho ngươi nỗi buồn. Và chính vì nỗi buồn ấy, nên ngươi trở thành người. Ngươi quên bữa cơm ăn; ngươi trong mắt nhìn vào đêm đen; ngươi khóc những giọt nước mắt thầm; ngươi trăn trở; bởi vì ta bị dìm xuống và ta lại ngoi lên; bởi vì ta là sự sống, là tồn tại; bởi vì ta là thượng đế, là tôn giáo trong ngươi.

Kỳ dị chưa! Những tiếng nói mê sảng, hay ta điên? Đúng, phải rồi tôi điên. Tôi đang lên cơn buồn của một kẻ điên. Thôi, câm đi! Đừng rì rầm những lời hoảng loạn ấy vào óc ta nữa. Tiếng nói của lợn trên vách bỗng tăng âm lượng và trở nên tiếng ồn ào chói óc. Tôi sợ hãi bịt tai lại. Tôi khoác vội chiếc áo bông, và lừa lúc vợ tôi xuống bếp, tôi lẻn ra đường. Tiếng buồn ma ám tan đi và để dư đọng một nỗi buồn heo héo.

Ngày… tháng…

– Anh Tám ơi! Tôi mắc bệnh thật sao? Trư cuồng? Làm thế nào bây giờ?

Im lặng.

– Hay là tôi đốt chuồng lợn? Tôi giết con lợn Bò?

– Nhưng nó ở trong xương tuỷ, trong tim óc ta.

– Vậy, làm cách nào bây giờ? Nhưng liệu có phải đúng nó không? Đây này, bây giờ đầu tôi lại mát. Cơn sốt đã lui. Không, tôi không giết con lợn Bò đâu. Nó là niềm hi vọng của gia đình tôi. Con tôi, vợ tôi, nồi gạo của gia đình tôi đều trông vào nó.

Ngày… tháng…

Cơn sốt lui chưa đầy một ngày, rồi cơn sốt lại đến. Lần này, nó đến mãnh liệt hơn. Đứa nào đốt lò kéo bễ than hồng trong đầu ta? Rõ ràng ta nghe có tiếng lò rèn phì phò trong óc. Và nghe cả tiếng cãi lộn léo nhéo.

Bồng bềnh trôi đi những hình ảnh kỳ dị: một chiếc thủ lợn, một chiếc đầu lâu, một khúc lòng già, một ông Tchekhov, một con dao nhọn, một người đàn bà mếu máo… Tất cả diễu binh như một cuốn phim quay trong sương mù.

Tôi mê man mhưng cố cưỡng lại cơn bệnh. Tôi cố bíu vào dòng sông hình ảnh sương mù ấy. Nó kéo tôi đi rất nhẹ nhàng và tôi cảm thấy vơi nhẹ dễ chịu. Nhưng tôi chợt rùng mình. Thấy gai gai. Có một tiếng thì thầm trong đầu: “Anh buông xuôi theo dòng sương mù ấy là xong tất cả đấy”. Tôi chợt hiểu ngay. Xong ở đây có nghĩa là chấm dứt tất cả. Không. Tôi không chấm dứt. Chấm dứt có nghĩa là nhẹ nhàng, nhưng cũng có nghĩa là chẳng còn gì cả. Chấm dứt cũng có thể định nghĩa là hạnh phúc, nhưng còn có thể là cái chết.

Dòng sương mù ơi! Ta không muốn chết. Tôi vội hổn hển cố đi ngược dòng. Vất vả quá. Có phải tôi lội trong bùn? Có một chất keo nhầy đang mút chân tôi lại, đang cố níu tôi lại. Chợt cảm giác không phải là chất keo, mà là những bàn tay lạnh lẽo, những bàn tay ma đang bám dính vào hai chân. Tôi thét to:

– Buông ta ra! Đồ ma quỷ!

Có lẽ không phải là hét mà chính là tôi gào. Tôi nghe rõ tiếng mình vang lên tuỵet vọng. Tôi ngã xuống dòng sông bầy nhầy đó, nhưng vẫn cố đứng lên. Tôi vẫn gào:

– Ma quỷ! Buông ta ra!

Rồi tôi rãy rụa, tôi đạp. May thay, chân tôi chợt đụng phải một tảng cứng. có lẽ một mô đất. Tôi đứng trên mô đất, trên hòn đảo bé nhỏ bơ vơ đó mà kêu gào. Tiếng gào làm chấn động dòng sông sương mù, tôi cảm thấy mầu trắng sữa của nó hơi đung đưa. Tôi cố gào to thêm và chợt thấy mầu trắng sữa ấy có nhạt đi. Tôi vui mừng vì trông thấy qua màn sương nhạt, những bàn tay vẫy gọi. Luýnh quýnh quá, tôi vấp ngã bổ nhào.

Tôi chợt bừng tỉnh dậy, thấy mồ hôi vã ra. Thế là tan cơn sốt.

Ngày… tháng…

Vẫn sốt liên miên. Những giấc mơ hãi hùng. Tỉnh dậy chẳng nhớ gì hết.

Tôi nhắm mắt nằm yên. Chợt như cảm thấy có ai đang ngồi trên chiếc ghế đàu giường. Tôi choàng mở mắt, song chẳng thấy ai.

Thế nghĩa là gì nhỉ? Phải chăng cảm giác ấy sinh ra do thần kinh ta quá ốm yếu?

Ngày… tháng…

Mệt. Chẳng muốn ăn gì. Miệng đắng. Cơn sốt như những đợt thủy triều; sáng lui, đêm lại sốt. Cái nóng vắt kiệt cơ thể. Mồ hôi ở đâu mà ra lắm thế.

Ta sợ đêm tối lắm. Vì đêm đến, cơn sốt cũng đến theo. Cùng đi với nó là những cơn ác mộng.

Nửa đêm, chợt tỉnh vì bỗng nghe thấy tiếng kẹt cửa. Ta choàng dậy, hỏi: Ai? Không thấy trả lời. Ta nhỏm lên nhìn ra cửa. Thoáng thấy một bóng người to lớn bước ra ngoài. Ta chỉ kịp nhìn thấy chiếc lưng tròn múp của hắn. Thế là mất ngủ từ lúc đó.

Ngày… tháng…

Cả ngày hôm nay ta băn khoăn với câu hỏi: “Hắn là ai? ” Ta chờ đêm. Ta chờ hắn đến, nhưng đêm nay hắn lại không đến.

Ngày… tháng…

Hắn như kẻ đánh lén. Hắn có vẻ am hiểu nghệ thuật quân sự, vì hắn chú ý đến yếu tố bất ngờ. Đêm nay thấy dễ chịu; chập tối ngủ được một giấc.

Chính lúc ta không ngờ hắn đến, thì hắn lại đến. Mở mắt ra, hắn đã ngồi đấy, trên chiếc ghế đầu giường. Hắn có thân hình to béo, ăn mặc giản dị. Hắn có đôi tay lông lá và khuôn mặt triết gia. Đôi mắt sắc, râu mép tỉa xén kỹ càng và nốt ruồi trên má. Chẳng ra người da trắng và cũng chẳng ra người da vàng. Hắn ngồi đấy, mắt chăm chăm nhìn ta.

Ta định cất tiếng, thì hắn mỉm cười. Rồi thân hình to lớn của hắn bỗng nhiên mờ dần và biến mất. Ta lạnh toát người, sợ hãi. Hắn là người, hay ma quỷ?

Ngày… tháng…

Bây giờ hắn năng đến lắm. Trong lúc hôn mê, ta chỉ mê thấy lợn. Ta cố thức để khỏi mê. Nhưng cứ mở mắt ra, lại thấy ngay mặt hắn. Ta tức giận hỏi:

– Ngươi là ai?

Hắn cười to ha hả, rồi bốc hơi biến mất.

Ngày… tháng…

Hôm nay, hắn lại lấn thêm một bước nữa. Hễ ta nhắm mắt, hắn lại cười ha hả để đánh thức ta dậy. Ta lại hỏi:

– Ngươi là ai?

Lần này, hắn không cười to, mà chỉ nhếch mép cười bí hiểm.

– Rồi anh sẽ biết.

Ngày… tháng…

Ta hiểu ý định của hắn rồi. Hắn đến để ám ảnh ta, hành hạ ta, để làm đầu óc ta rối loạn, để cướp đi giấc ngủ ngon của ta, để…

Đêm nay, ta hỏi hắn bằng câu hỏi khác:

– Ngươi đến đây làm gì?

Hắn thản nhiên trắng trợn:

– Ta đến để xem anh chết.

Ta điên rồ, căm giận:

– Tên sát nhân! Hãy cút đi! Cút đi!

Hắn lại há to mồm và cười ha hả. Ta không chịu đựng nổi nữa rồi. Hắn nhân danh cái gì để hành hạ ta như thế? Ta ngồi bật dậy, rồi xông lại đánh hắn. Bàn tay lông lá của hắn gạt ta ngã sóng xoài trên mặt đất. Ta vẫn thều thào:

– Cút đi! Cút đi!

Cả nhà chạy đến. Vợ ta ôm lấy ta và nức nở.

Ngày… tháng…

Đảo lộn quy luật rồi. Mọi buổi sáng có bao giờ tôi sốt. Nhưng sáng nay, khi nghe thấy tiếng gà, cơn sốt lại bùng to.

Mệt lắm. Nhưng tôi thấy đầu óc còn chút tỉnh táo. Tôi cố ngồi dậy, viết nốt những dòng chữ này, vì sợ bệnh tôi khó khỏi.

Tay tôi run lên. Chợt nhớ đến chữ Poócxinômani của Tám. Tôi phải viết chữ ấy bởi vì hắn đang đến. Hắn, bây giờ bất kể ngày đêm, lúc nào cũng có thể xuất hiện.

Tôi mang máng biết nhân dạng của hắn rồi. Hắn muốn giết tôi đấy. Hắn muốn ám ảnh tôi cho đến chết.

Tôi cố chống cự. Còn chút tàn lực nào, tôi cũng đem ra cho bằng hết. Cũng có thể tôi sống, cũng có thể tôi chết. Tôi chấp nhận.

… Kìa! Cái thằng bụng lợn ỉ ấy đang cười hề hề khả ố trước mặt tôi. Lớp mỡ ở bụng hắn rung rung. Tôi đã chụp được khuôn mặt hắn, cái bộ mặt có vẻ triết gia, cái bộ mặt nung núc mỡ… Nếu tôi chết, xin hãy nhớ kỹ khuôn mặt hắn.

Trời ơi! Nóng quá! Em ơi, cho anh xin cốc nước.

(Còn tiếp)

N.X.K.

Comments are closed.