Bến lở (kỳ 6)

Tiểu thuyết

Nxb Lao Động, 2008

Tác giả Đặng Văn Sinh

CHƯƠNG 12 

Cuối tháng sáu, Diệu từ C22 ra chơi đưa cho Sa bức thư của anh Túc. Thư lòng vòng mãi, từ Cao Bằng lên Sơn La mất hơn ba tháng. Anh Túc vào Quảng Bình một đợt với Phan. Thư viết:

“Diệu thân mến! Như đã thông báo với em lần trước, C22 vào trong này không ở cùng nhau mà tách ra thành từng nhóm bổ sung vào các đơn vị thanh niên xung phong. Bọn anh đã chuyển sang quân đội, anh ở đơn vị chiến đấu còn Phan về bên công binh. Cách đây hơn một năm tình cờ anh gặp Phan ở miền tây Quảng Bình. Cậu ấy ở một đội khảo sát thiết kế đang chuẩn bị nhận nhiệm vụ mới. Hai anh em chỉ nói được mấy câu vì anh đang trên đường hành quân. Phan nói đã lâu không nhận được thư của bạn bè ở Cao Bằng. Anh bảo rằng, địa chỉ của cậu thay đổi xoành xoạch, có khi người đi rồi thư mới đến nơi thì làm sao nhận được. Một lần gặp cô Đài, anh mới biết hình như Phan yêu Sa và nó rất ân hận vì vụ tai nạn làm hỏng bàn chân cô ấy. Nghĩ rằng sau này anh em sẽ còn có dịp được gặp nhau, ai ngờ mới hôm kia anh nhận được tin chẳng lành. Cậu Nhàn bị dính bom ở ngầm Đá Xanh. Cậu Phan đi tìm đường bị lạc vào một đơn vị biệt kích. Năm anh em đã chiến đấu đến viên đạn cuối cùng rồi anh dũng hy sinh. Tin này anh nghe ở một người cùng làng tên là Ngoạn trong nhóm công tác của họ vừa thoát chết về đơn vị kể lại. Thế là từ ngày vào chiến trường đến nay, đơn vị mình đã mất mười một người. Có lẽ đấy chưa phải là con số cuối cùng. Nghe nói anh Phương cũng đã hy sinh ở Quảng Trị nhưng tin chưa được chắc chắn lắm. Thôi, nói sơ vài nét để em và các bạn nắm được. Cho anh gửi lời hỏi thăm tất cả anh chị em của C22 còn lại. Chúc em khoẻ và lựa lời động viên an ủi Sa”.

Đọc thư xong, mặt Sa trắng bệch ra. Cô phải vịn vào Diệu mới đứng vững được. Diệu đỡ ngang lưng cho Sa ngồi xuống khẽ bảo:

– Chưa nên mất hết hy vọng. Đấy mới chỉ là nguồn tin do một người kể lại.

– Cậu động viên mình thôi. – Sa để mặc cho những giọt nước lăn dài trên gò má, giọng thổn thức. – Mình đã có linh cảm là chuyện này rồi thế nào cũng xảy ra. Cậu biết không, những ngày còn ở trường cấp 3, một đứa bạn đã dự báo cho số phận mình.

– Đừng bi quan như thế. Trong thư anh Túc chẳng nói có người thoát được là gì. Biết đâu Phan cũng gặp may.

– Diệu này, cậu đừng dối lòng. Mình biết cậu nghĩ gì và cậu cũng biết hoàn cảnh mình hiện nay. Thôi số phận chẳng chiều thì cũng đành, coi như đã lỡ một chuyến đò.

Giọng Sa vừa nghẹn ngào vừa cay đắng làm Diệu bỗng oà lên khóc. Cô ôm lấy Sa thổn thức:

– Nhưng chúng mình còn bé Hoà An. Mình đến đây bàn với cậu, cuối tháng này, chúng ta xin nghỉ phép về thăm con. Hơn một năm không gặp nó rồi còn gì.

– Mình nhớ con lắm nhưng thời gian này đang bận túi bụi làm đồ án thiết kế. Cậu đợi mình đến tháng tám, sau khi tốt nghiệp, hai đứa cùng về.

– Thế cũng được, nhưng còn chuyện này mình vẫn băn khoăn.

– Chuyện gì?

– Hay là nhân dịp nghỉ phép ta về quê Phan. Biết đâu cái tin anh Túc nói chỉ là sự nhầm lẫn.

– Mình đã nghĩ đến chuyện này. – Sa lắc đầu tỏ vẻ chán nản. – Hồi còn ở Cao Bằng, Phan đã kể với mình về hoàn cảnh anh ấy. Mẹ Phan đã mất. Ông bố rất gia trưởng và nhẫn tâm, lúc nào cũng dùng áp lực roi vọt để giữ nền nếp gia phong chứ không quan tâm đến tình cảm của các con. Cậu nghĩ xem, Phan không còn nữa, tự nhiên lại có một cô gái lạ hoắc mang con về nói là cháu nội ông ấy thì còn ra thể thống gì.

– Không, mình không bao giờ khuyên cậu làm việc dại dột như thế. Mình muốn chúng ta về để xác minh xem Phan còn sống hay đã hy sinh, thế thôi. Cậu vừa xinh đẹp lại vừa có học, không nên tự huỷ hoại đời mình.

– Cậu nói đúng. Mình còn có Hoà An.

– Nó cũng là con gái mình. – Diệu tức mình sẵng giọng. – Cậu không muốn về nhà Phan thì thôi nhưng ít ra cũng nên đến uỷ ban xã hỏi cho rõ ngọn ngành chứ.

Bị bạn mắng, Sa không nói gì. Cô ngồi bất động như pho tượng đá, mắt ráo hoảnh, hoàn toàn vô cảm.

Nhưng rồi ngay cả chuyện đi phép cũng không thành. Giữa tháng bảy, những đơn vị còn lại của công trường được điều động vào khu Bốn. Ở Sơn La chỉ còn lại Trường Trung cấp giao thông đang tổ chức thi tốt nghiệp cho học viên. Trước khi lên đường Diệu chỉ gặp Sa có một lần.

Nhóm làm đồ án của Sa có năm người do thầy Nguyễn Công Bính, giáo viên dạy môn thiết kế đường ô tô hướng dẫn. Thầy Bính đẹp trai, tốt nghiệp trung cấp giao thông Vĩnh Yên, là con trai ông vụ trưởng Vụ Tổ chức. Cách đây gần một năm thầy Bính đã để ý đến Sa. Bính mấy lần hẹn gặp nhưng cô đều lảng tránh. Nhóm này do Lê Khắc làm nhóm trưởng. Khắc ít tuổi hơn Sa, học cũng không có gì xuất sắc nhưng vẽ khá đẹp. Thầy Bính đưa cho Khắc mảnh bản đồ tỷ lệ 1/100.000 vùng Mường Khoa Mộc Châu. Đây là vùng địa hình đặc trưng có đủ những yếu tố cần thiết để học viên vận dụng kiến thức đã học cũng như các quy trình, quy phạm kỹ thuật vào việc thiết kế. Thầy Bính lấy bút chì đỏ đánh dấu hai điểm khống chế cách xa nhau chừng năm cây số trên bản đồ rồi bảo cả nhóm:

– Việc đầu tiên các anh các chị phải làm là xác định hướng tuyến dọc theo đường đồng mức căn cứ vào độ dốc cho phép. Bước tiếp theo là thăm dò trên thực địa. Có hồ sơ thăm dò mới được định tuyến và thiết kế sơ bộ. Bước thiết kế sơ bộ phải được nhà trường thông qua mới thực hiện công đoạn cuối cùng là thiết kế kỹ thuật. Riêng về công trình thoát nước, nhóm ta chỉ phải thiết kế cống và cầu bản, vì đoạn đường này không có sông suối lớn.

Thăm dò, khảo sát đoạn đường năm cây số khá vất vả nhưng vui và cũng một phần vì công việc mà Sa tạm quên đi nỗi buồn. Hàng ngày, buổi sáng, cả nhóm đóng bộ bảo hộ lao động, tất chống vắt, giày cao cổ, dao quắm, máy quang học, thước dây, địa bàn, mire[1], cọc, sơn và trăm thứ lỉnh kỉnh khác, cắt rừng, lội suối lên tuyến. Thỉnh thoảng thầy Bính cũng lên thực địa chỉ dẫn học viên. Một hôm, Bính cùng về với Sa. Anh cố ý đi chậm lại. Thấy Sa chỉ im lặng, thẫn thờ bước từng bước nặng nhọc, Bính hỏi:

– Trông Sa có vẻ mệt, để tôi vác mire cho.

– Ấy chết, thầy cứ để em, em vẫn khoẻ mà.

– Hay là em có chuyện gì buồn?

– Thưa thầy không ạ.

– Sa này, chuyện mấy hôm trước em đã nghĩ kỹ chưa? Tôi nói rất thật lòng, mong em hiểu.

– Thưa thầy, em biết thầy ngỏ lời chân thành nhưng số phận em chẳng ra gì, sau này lại làm khổ cả thầy.

– Em đừng nghĩ thế. Tương lai của mình là do mình quyết định, làm gì có số phận nào chi phối. Bố tôi hiện nay là vụ trưởng, chỉ cần Sa đồng ý là sau khi học xong, ông cụ ra quyết định cho em về Hà Nội. Tôi mến em từ lâu rồi, vừa mến vừa ngưỡng mộ em, mong rằng một ngày kia chúng ta sẽ sống cho nhau và vì nhau.

– Vì sao thầy lại dự kiến cho cả tương lai của em?

– Là vì, ngay từ lúc mới về tôi đã biết em chưa yêu ai. Mối quan hệ với bên ngoài của em chỉ là các bạn gái. Tôi còn biết đã không ít người tỏ tình nhưng chưa có ai được em chấp nhận.

Sa vẫn lẳng lặng bước đi, giọng chua chát:

– Thầy tìm hiểu về em kỹ quá nhỉ? Nhưng em xin hỏi thật, liệu sau này thầy có gánh được cả nỗi cay đắng của một đời con gái bất hạnh như em trên vai không?

– Sao Sa bi quan thế? Muốn sống được bình yên người ta phải luôn nghĩ đến những điều tốt lành chứ?

– Thầy nói thế là vì thầy chưa hề hiểu gì về hoàn cảnh của em.

– Chỉ có một điều tôi hiểu và quan tâm nhất đó là tôi yêu em, còn những việc khác không đáng để ý.

– Ví như em đã có chồng thì thầy có còn để ý đến em không?

– Không bao giờ có chuyện ấy. – Thầy Bính thản nhiên bảo. – Trước khi nói với em chuyện tương lai tôi đã được anh Kha lớp trưởng cho biết về quá trình học tập, rèn luyện của em.

– Vậy là thầy đã điều tra lý lịch của em trước khi cầu hôn?

Nghe Sa hỏi, Bính có vẻ lúng túng. Anh tự trách mình đã buột miệng thốt ra những điều dại dột nên vội tìm cách chữa khéo:

– À không… Tôi nói vui ấy mà. Xét đến cùng, nam nữ đến với nhau trước hết phải là tình yêu có đúng không em?

– Vâng, đúng ạ. Thôi ta đi nhanh lên kẻo trời sắp tối rồi thầy.

– Em chưa muốn trả lời ngay cũng được, nhưng tôi lúc nào cũng nghĩ đến em, muốn em có cuộc sống khác với hoàn cảnh hiện nay.

– Em cảm ơn thầy!

Đây là lần thứ hai thầy Bính ngỏ lời và cũng là lần thứ hai Sa từ chối. Cô không muốn làm thầy Bính thất vọng, nhưng là một phụ nữ có trái tim nhạy cảm, cô rất ngại gây trong anh những ảo tưởng.

Thời gian một tháng qua đi rất nhanh, đồ án thiết kế đang hoàn thành những công đoạn cuối cùng thì Sa được lớp trưởng báo lên phòng Tổ chức làm việc. Ông Chuyển trưởng phòng, là một người rất khó đoán tuổi. Điểm nổi bật nhất ở ông ta là cái trán hói đến mãi đỉnh đầu trông như quả dưa hấu vỏ màu lòng tôm bôi mỡ bóng loáng. Vị trưởng phòng ngồi sau chiếc bàn rộng, trên xếp một chồng sổ sách dày cộp, chốc chốc lại nhìn ra ngoài có vẻ như đang chờ. Thì ra không chỉ có mình Sa. Ngoài cô ra còn có anh Lạc ở lớp Cầu, anh Định người Tày ở Cao Bằng và cô Bến học lớp thi công đường bộ. Cả mấy người đều không biết lý do được triệu tập. Ai cũng hồi hộp chẳng hiểu chuyện gì đã xảy ra vì đây là lần đầu tiên trong đời ngồi đối diện với một nhà tổ chức bằng xương, bằng thịt. Ông Chuyển trễ cặp kính lão nhìn lướt qua bốn người rồi hắng giọng:

– Các đồng chí đến đủ cả rồi đấy nhỉ? Bây giờ tôi sẽ lần lượt làm việc với từng người. Nào, mời đồng chí Lạc.

– Dạ, tôi đây ạ.

Lạc người cao lòng khòng, quê thị trấn Cẩm Giàng, một mắt hơi lé nên bạn bè tặng cho biệt danh “Lạc Lác”, mặt mũi trông như Tây lai, học khá nhưng trong sinh hoạt có phần phóng túng. Trước năm 1954 anh sống trong vùng tạm chiếm, chịu ảnh hưởng của nền văn hoá Pháp thuộc địa. Lạc biết một ít tiếng Pháp và thuộc khá nhiều bài hát tiền chiến như “Giọt mưa thu” của Đặng Thế Phong, “Cô láng giềng” của Hoàng Quý, “Gửi gió cho mây ngàn bay”, “Thu quyến rũ” của ông hoàng ca khúc mùa thu Đoàn Chuẩn…, hứng lên vừa đệm guitare vừa hát. Chỉ riêng hai điểm đó đã làm các cán bộ tổ chức ngứa mắt chứ chưa nói đến việc anh có tính hay châm chọc thỉnh thoảng lại đem những khuyết tật của một vài lãnh đạo ra đàm tiếu. Lạc nghiện thuốc lá nặng nhưng chỉ hút loại Tam Đảo, Điện Biên bao bạc trở lên. Thời gian gần đây anh bỏ thuốc lá chuyển sang thuốc lào. Chiếc điếu cày của Lạc bằng cả một ống bương, mỗi khi hút phải ấn cả mũi miệng vào mới kéo được khói. Anh chàng này cuốc bộ rất giỏi. Khi đi, anh vắt chéo chân nọ sang chân kia trông giống hệt loài đà điểu châu Phi chạy trên hoang mạc, vì vậy còn một danh xưng nữa là “Lạc Quăng”. Thời gian gần đây không hiểu vì chuyện gì Lạc hay bỏ giờ, thầy chủ nhiệm lại có ấn tượng không mấy thiện cảm nên cuộc gặp tổ chức hôm nay dữ nhiều lành ít. Quả như Lạc dự đoán, ông Chuyển bỏ mục kỉnh, nhìn mái tóc rối bù của anh bằng cặp mắt soi mói rồi cất giọng rề rà rất khó phân biệt vần “l” với vần “n”:

– Theo báo cáo của thầy chủ nhiệm, đồng chí thường xuyên bỏ học, nại hay lói xấu nãnh đạo, sinh hoạt thì tuỳ tiện, hay vi phạm kỉ nuật lên nhà trường quyết định chuyển về đơn vị sản xuất.

Lạc không ngạc nhiên trước sự kiện này. Anh học lớt phớt mà kết quả điểm số khá cao, nhưng, giống như lời bí thư Phan Lân đã nói, “chuyên” tốt mà “hồng” kém thì cũng vứt.

Người thứ hai được gọi là anh Bế Văn Định. Ông Chuyển rút tờ giấy đánh máy từ trong cặp ra thong thả đọc, xong ông bảo:

– Đồng chí là người dân tộc, học trung bình khá, chúng tôi tiếc nắm muốn giữ nại nhưng không được vì thành phần gia đình có vấn đề. Bố đồng chí trước kia nàm chức dịch cho chính quyền cũ, có tội với nhân dân.

Anh Định vốn dễ xúc động, nghe lời tuyên bố như đinh đóng cột của ông trưởng phòng Tổ chức, bị choáng, suýt nữa ngất, giọng mếu máo:

– Bố cháu chỉ làm trưởng bản có hai năm, không gây tội ác với nhân dân, bác xem có thể chiếu cố cho hoàn cảnh của cháu được không?

– Chúng tôi đã về quê đồng chí xác minh. Bây giờ không thể thay đổi quyết định được lữa. Đồng chí lào là Nguyễn Thị Sa?

– Tôi đây. – Sa bước lại gần bàn ngồi xuống trước mặt ông Chuyển, không đợi ông ta phải mất công mào đầu mà hỏi ngay bằng giọng thản nhiên như không. – Chắc phòng Tổ chức đã điều tra lý lịch của tôi là đã có một ông bố đào ngũ, làm tay sai cho địch trong kháng chiến chống Pháp phải không?

– Đồng chí không lên lóng lảy. Sự việc chưa đến lỗi như thế…

– Vậy ông cho gọi tôi lên đây làm gì?

– Cũng chuyện ấy… – Ông Chuyển dè dặt nhìn Sa. – Chính quyền địa phương người ta ghi , việc mất tích của ông cụ chưa được những cấp có thẩm quyền xác minh bằng văn bản. Mà Đảng và Nhà lước ta chủ trương đào tạo cán bộ để phục vụ nhân dân phải có thành phần trong sạch từ tầng nớp công lông. Vì thế, đồng chí cứ tạm về đội sản xuất, chúng tôi sẽ nưu ý trường hợp này.

– Vậy ông đưa bốn người chúng tôi về đâu? – Sa cười nhạt hỏi vị cán bộ tổ chức. – Các đơn vị đã chuyển hết vào Quảng Bình từ đầu tháng. Hay là cấp trên “điều động” về địa phương?

– Đồng chí không lên châm chọc. Tổ chức một công việc hết sức nghiêm túc. Bây giờ thế lày, trước mắt giải quyết cho các đồng chí nghỉ phép lăm lay, cuối tháng sau, mọi người tập trung tại đây, chúng tôi sẽ bố trí đưa vào Khu Bốn cùng với bộ phận còn nại.

Nhận giấy phép rồi, phải ba hôm sau Sa mới đi nhờ được chuyến xe tải của công trường xuôi Hà Nội. Việc đầu tiên phải làm là về nhà Diệu thăm con. Bà Phúc mừng lắm dở khóc, dở cười mắng Sa:

– Mải học với hành lắm vào rồi quên cả con bé. Nào, cháu thử nhìn xem, mấy đứa trẻ ngoài kia, đứa nào là con Hoà An.

Trên mảng sân hẹp lát gạch Bát Tràng, ba cô bé sàn sàn bằng nhau đang chơi đồ hàng. Một bé tóc đen sẫm mềm như tơ ngước cặp mắt lúng liếng nhìn Sa hỏi bằng giọng bập bẹ, nũng nịu rất đáng yêu:

– Cô… có mua… bánh tẻ… cháu bán cho?

Sa nhận ngay ra Hoà An. Cô lại gần giơ tay bế con bé lên, thơm vào má nó rồi thì thầm trong tiếng nấc:

– Cô có mua, mua thật nhiều… Nào, bánh của Hoà An đâu?

– Sao cô lại biết tên… cháu? – Con bé tròn mắt nhìn mớ tóc quăn của Sa với dáng vẻ rất lạ lùng.

Bà Phúc nhìn cảnh hai mẹ con gặp nhau, rơm rớm nước mắt, chạy ra sân bảo:

– Hoà An, mẹ Sa cháu đấy. Con chào mẹ đi.

– Ứ ừ! – Con bé bỗng giãy nảy lên đòi tụt xuống đất. – Không phải mẹ Sa. Mẹ Sa tóc đẹp cơ, không quăn thế này đâu.

– Hoà An, mẹ đây mà. Mẹ thương con lắm.

– Ứ phải mẹ! Mẹ đi vào Quảng Bình rồi…

– Hoà An, nghe bà hỏi đây. Cháu có mấy mẹ?

– Cháu có hai mẹ ạ!

– Mẹ cháu tên gì, nói cho bà biết nào?

Con bé xoè bàn tay ra rồi lại lần lượt đếm, vừa đếm vừa lấm lét nhìn Sa.

– Một mẹ Diệu này, một mẹ Sa này.

Bà Phúc chỉ vào Sa hỏi:

– Cháu nhìn mẹ Sa ở đây có giống mẹ Sa trong ảnh bà vẫn cho cháu xem không?

– Cháu không biết ạ!

– Đây chính là mẹ Sa cháu đấy. Ra với mẹ đi, đừng làm mẹ buồn.

– Thế… vì sao mẹ ấy lại khóc hở bà? Người lớn khóc là xấu lắm.

– Con… Mẹ xin lỗi vì đã bỏ con hơn một năm mới về…

Xa Hoà An đã lâu thành ra con bé quên mất hơi mẹ mà chỉ quấn bà Phúc. Sa dỗ mãi mà con bé vẫn có vẻ cảnh giác. Phải đến cuối ngày thứ hai nó mới dần dần bớt xa lánh cô. Đêm ấy, chỉ có hai mẹ con nằm một giường trong gian buồng chống chếnh, Sa thầm nghĩ, đó chính là cái giá phải trả cho những năm tháng vô bổ đi săn đuổi những thứ hão huyền mà quên mất cuộc đời người ta quá ngắn ngủi. Mấy hôm sau bà Phúc bảo:

– Từ hôm cái Diệu đi đến nay bác cứ nghĩ vẩn vơ. Thời buổi bom rơi đạn lạc, người đi biền biệt, người ở nhà chẳng yên lòng chút nào. May mà con về, bà cháu đỡ buồn. Nhưng bác có lời thế này, ngày mai phải tranh thủ về quê thăm bà cụ. Các chị là tệ lắm, đứa nào cũng bỏ nhà mà đi đằng đẵng chẳng biết bố mẹ sống chết thế nào…

– Con cũng định xin phép bà. Có điều lại phải phiền bà trông cháu giúp ít bữa. Nói thật , lúc này con mang bé Hoà An về chưa tiện, hơn nữa con cũng đã nhận được tin bố cháu hy sinh rồi. Hoàn cảnh của con bây giờ khó trăm bề.

– Chị bảo cái gì? – Bà Phúc ngỡ mình nghe nhầm hỏi lại. – Ai nói bố con Hoà An hy sinh?

– Thế  Diệu chưa viết thư nói gì với bác ạ?

– Nói gì? Nó cũng cứ đi biền biệt như cháu, thỉnh thoảng mới được mấy chữ gửi về. Thư nào cũng bảo con khoẻ, ở nhà mẹ yên tâm. Tin ấy con nghe ở đâu?

– Anh Túc hồi còn ở Cao Bằng là A trưởng của chúng con, giờ ở Quảng Trị viết thư ra cho Diệu. Trước khi vào Quảng Bình mấy ngày nó mang vào tận trường cho con xem bà ạ.

Bà Phúc thở dài:

– Thật tội nghiệp, mới tí tuổi đầu đã mồ côi bố… Nhưng chuyện ấy có đáng tin không hả con? Ở xã này năm ngoái cũng có một trường hợp báo tử rồi sau lại về đấy.

– Con cũng mong như thế… – Sa lặng đi một lúc cố nén tiếng nấc. – Mấy hôm nữa con cũng phải về quê anh ấy xem thực hư thế nào.

– Phải, cứ để con Hoà An ở đây bác trông cho. Thật khổ. Trông dáng mày nhàn nhã vậy mà số kiếp lại lận đận. – Bà Phúc lẳng lặng nhìn Sa rồi ngoảnh mặt đi, trong lòng thầm nghĩ: “Các cụ nói chẳng sai con bé này đúng là hồng nhan bạc phận”.

Nhưng rồi Sa không thể về thăm mẹ ngay. Cô bắt buộc phải thay đổi hành trình tìm về làng Yên. Làng Yên nằm trong vùng đồng chiêm trũng, lại gần sông, chỉ đi đò là tiện. Sa hỏi thăm vào uỷ ban xã. Chủ tịch xã lúc ấy là chị Thấm, cô họ của Phan, nghe Sa trình bày xong mới hỏi:

– Em là thế nào với Phan?

– Khi ở công trường Cầu đường Cao Bằng chúng em cùng đội sản xuất. Trước khi vào miền Trung cậu ấy có cho địa chỉ. Dịp này được nghỉ phép, em muốn sang hỏi xem lâu nay gia đình có nhận được tin tức gì không?

Chị Thấm nghe xong im lặng không nói gì làm Sa bồn chồn. Cô nhìn thoáng qua gương mặt người nữ chủ tịch thấy mắt chị chớp chớp biết là đã có chuyện chẳng lành. Cuối cùng, bằng một giọng xót xa, chị Thấm bảo:

– Phan hy sinh từ hồi đầu năm nhưng xã mới nhận được giấy báo tử. Tháng trước, đảng uỷ và chính quyền đã tổ chức lễ truy điệu cho ba đồng chí đợt này. Cậu ấy học giỏi lắm nhưng ở nhà bị ông bố gia trưởng hành hạ đến nỗi không chịu được phải thoát ly. Con trai làng Yên mấy năm nay cứ lần lượt ra đi. Ở nhà còn lại toàn ông già bà cả với con gái, tội lắm em ạ.

– Chị… Anh ấy cũng đang ở chiến trường phải không? – Sa lén quay đi lấy tay quệt nước mắt.

 – Cũng… hy sinh từ năm Mậu Thân rồi.

– Em thành thật chia buồn cùng chị. – Sa chợt oà lên khóc – Cảm ơn chị, em phải đi…

– Ơ kìa, vậy em không đến nhà Phan sao? Mà tên em là gì nhỉ?

– Em là… Sa, nhưng giờ em đang bận, xin phép chị để khi khác.

– Thế là hết. Hoà An vĩnh viễn mất cha. – Trên đường ra bến đò Sa ngậm ngùi nghĩ đến hoàn cảnh của mình. – Đời người chả lẽ chỉ thế thôi sao? Tình yêu và hạnh phúc là gì mà làm khổ con người đến vậy? Phan ơi! Thế là trên chặng đường dài đầy nỗi đắng cay mà em sắp phải dấn bước không còn chỗ dựa tinh thần để mà dũng cảm vượt qua nữa. Từ cõi vô cùng, anh hãy phù hộ độ trì cho hai mẹ con được bình an. Mong cho con của chúng ta sau này không phải khốn khổ như em.

                                                  *

Sa về nhà thật may. Bà Trầm đang ốm nặng. Trong vòng năm năm, Sa chỉ thăm mẹ được hai lần. Lần đầu vào cuối năm 1965, lần thứ hai giữa năm 1966. Từ khi bị tai nạn, cho đến bây giờ là chẵn ba năm mới trở lại làng Hạ. Làng chẳng khác trước là mấy. Dòng sông vẫn bên lở bên bồi, và trên những vạt ruộng ven đầm Vực những cánh cò trắng nhởn nhơ bay lượn như không hề biết chừng ấy năm có bao thời khắc đã qua.

Nhìn ngôi nhà xiêu vẹo do thời gian huỷ hoại, Sa ứa nước mắt tự trách mình vô tâm, chừng ấy năm trời mải chạy theo những đam mê phù phiếm mà quên đi người mẹ tần tảo nhịn nhục nuôi cô khôn lớn. Đành rằng ở đời nước mắt bao giờ cũng chảy xuống. Đến lượt cô rồi cũng lại phải chăm sóc Hoà An nên người, cũng phải nếm đủ nỗi cay cực của một đời làm mẹ, nhưng không hiểu sao, lòng cô vẫn áy náy, cảm thấy có tội với người đã sinh ra mình.

Bây giờ mẹ nằm đó. Người con gái làng Hạ xinh đẹp năm xưa giờ chỉ còn là chút hình bóng nhập nhoà trên gương mặt mệt mỏi hằn rõ những nếp nhăn thời gian. Sa ngồi bên bà Trầm, giọng cố nén để khỏi bật ra tiếng nấc:

– Tình cờ con gặp bác Trần Quang Song ở Cao Bằng, trước ở cùng trung đội với bố, chẳng may bị bệnh phong phải ở lại. Bác ấy vẫn còn giữ tấm ảnh chụp chung với bố. Khi cho con xem ảnh bác Song nói rằng, bố không bao giờ là kẻ phản bội đầu hàng địch.

– Còn về sau này khi bố lên Điện Biên bác Song có biết gì thêm không con?

– Bác ấy cho hay, bố con không tham gia chiến dịch Điện Biên mà được cử về công tác ở miền xuôi từ cuối năm 1953.

– Mẹ biết, việc này đối với con là quá sức nhưng vì danh dự gia đình, con nên đến huyện, đến tỉnh hỏi các cấp lãnh đạo xem. Ở làng này, bây giờ họ Trịnh nắm quyền. Họ làm nhiều điều ngang tai trái mắt lắm mà dân vẫn phải chịu. Con còn nhớ ông Quyền hồi Cải cách làm xã đội phó không?

– Con nhớ, cái ông răng vẩu ấy chứ gì?

– Con trai lớn ông ta giờ làm chủ tịch xã.

– Thì ra là thế. – Sa bỗng chép miệng thở dải. – Chẳng trách lão trưởng phòng tổ chức cứ úp úp mở mở mãi khi công bố quyết định đuổi con khỏi trường trung cấp giao thông. Ông ta thù mẹ vì cái tát, đến bây giờ con trai ông ta lại thù con.

– Thôi con ạ. Người ta sinh ra ở trên đời có phúc là có phận. – Bà Trầm an ủi Sa – Những đứa ăn ở thất đức rồi đời nó chẳng ra gì đâu.

– Con chẳng tin vào số hệ đâu mẹ. Người ta hơn nhau nhiều khi ở sự may rủi. Có khối kẻ ăn ở bạc ác, bất nghĩa mà vẫn nhà cao cửa rộng, vợ con ăn sung mặc sướng vênh mặt lên với đời kia.

– Không nên mất lòng tin vào những gì tốt đẹp khi mà trên đời còn lắm chuyện nhiễu nhương. – Bà Trầm bảo. – Đó là lời bố con nói trước khi ông ấy lên đường gia nhập Vệ quốc quân. Nếu con đánh mất niềm tin thì sẽ mất tất cả. Khi ấy sống sẽ khổ lắm.

– Mẹ nói đúng. Nhiều lúc bực bõ vì những nỗi bất công nên con cạn nghĩ.

– Còn chuyện chồng con đến đâu rồi? – Bà Trầm nhìn con gái, giọng xót xa. – Tính cả tuổi đẻ thì năm nay là hai mươi nhăm, con cứ nay đây mai đó thì đứa nào nó để ý đến.

Nghe mẹ hỏi Sa càng nẫu ruột nẫu gan. Biết nói thế nào cho mẹ hiểu lòng mình? Tình cảnh cô bây giờ thật oái oăm. Mẹ biết chắc là buồn lắm. Đời mẹ đã khổ, mong đời mình khá hơn một chút, ai ngờ hạnh phúc chưa tròn đã nửa đường đứt gánh.

– Thế nào con? Hay là còn có điều gì không tiện nói ra? Mẹ cũng chẳng còn sống được bao lâu, đừng giấu mẹ.

– Kìa mẹ! – Sa bỗng ôm lấy bà Trầm oà lên khóc. – Mẹ ơi, con khổ lắm.

– Kể cho mẹ nghe đi. Đừng khóc nữa. Sinh ra làm kiếp đàn bà chẳng ai thoát khỏi bể khổ đâu con.

– Người con yêu hi sinh rồi mẹ ơi…

– Tội nghiệp con gái mẹ… – Bà Trầm thở nặng nhọc. – Quê nó ở đâu hả con?

– Anh ấy ở làng Yên bên Hải Dương cơ.

– Chúng mày hò hẹn với nhau từ bao giờ?

– Chuyện dài lắm… Chúng con quen nhau từ hồi còn ở Cao Bằng. Anh ấy là người tốt nhưng nhút nhát lắm. Hồi đầu năm 1967 anh ấy vào Quảng Bình. Chúng con đã có một cháu gái.

– Thôi chết! – Bà Trầm thở hắt ra, giọng thều thào. – Con bé bây giờ ở đâu?

– Con gửi cháu bên Hưng Yên.

– Thật khổ cháu tôi… – Bà Trầm thì thầm trách Sa. – Sao không mang nó về đây cho mẹ mà lại gửi mãi góc bể chân trời hả con?

– Mẹ tha lỗi cho con. Thực tình con muốn mang Hoà An về lắm nhưng lại thương mẹ. Đời mẹ đã khổ vì cái nghi án của cha, giờ lại thêm chuyện này làm sao tránh khỏi buồn tủi. Hơn nữa, còn bà con trong làng, có phải ai cũng thông cảm với mình đâu.

– Thế cũng phải, nhưng mà tội con bé quá. – Bà Trầm nghĩ một lúc rồi quả quyết bảo. – Mặc kệ thiên hạ rỗi mồm. Ở đời tình nghĩa máu mủ ruột rà là quý hơn cả, đằng nào chuyện cũng đã xong, nay mai cứ đi đón cháu về đây cho mẹ.

Mỗi ngày bà Trầm một yếu. Sa phải đưa mẹ đi bệnh viện, nằm chờ đến hơn tháng mà không phát hiện ra bệnh. Người bà cứ teo tóp đi, hai hốc mắt trũng sâu, hình hài giống như cái xác không hồn. Nhìn thấy tình trạng bệnh nhân, ông trưởng khoa nội ái ngại bảo Sa:

– Chúng tôi đã làm hết sức mình nhưng không có phương tiện kỹ thuật cần thiết để tìm ra căn bệnh của bà cụ. Bây giờ chỉ còn cách chuyển đi tuyến trên, nhưng bệnh viện tỉnh ở nơi sơ tán, mọi sinh hoạt sẽ rất khó khăn, cô nên chuẩn bị trước.

Số tiền Sa mang về chẳng được bao nhiêu, lại phải gửi bà Phúc một phần nuôi Hoà An, cô đành về nhà xúc mấy thúng thóc mang ra chợ bán . Bệnh viện sơ tán cách nhà năm chục cây số. Một mình Sa, thân cô thế cô chăm nom mẹ thật khổ trăm bề. Nhập viện được ba ngày thì có kết quả xét nghiệm. Bác sĩ Tùng, phó giám đốc gọi Sa vào phòng bảo:

– Mẹ cháu bị một khối u trong ổ bụng. Điều đáng ngại là khối u này di căn phát triển ngày càng lớn.

– Thưa bác sĩ, có mổ được không ạ?

– Mổ thì cũng được nhưng không sống thêm được bao lâu. – Bác sĩ lắc đầu, – Sức khoẻ bà cụ suy sụp lắm, tốt nhất cháu nên đưa mẹ về…

– Thế là mẹ cháu không qua khỏi?

– Có rất nhiều loại bệnh mà bây giờ y học hiện đại cũng đành phải bó tay.

Bác sĩ Tùng là người nhân đức. Biết hoàn cảnh của Sa, ông điều hẳn một chiếc xe đưa hai mẹ con về làng Hạ. Trước khi xe chạy ông còn cử thêm một y tá mang theo đầy đủ thuốc men để đề phòng bà Trầm bị đột quỵ dọc đường.

Về nhà được hai hôm, bà Trầm thấy trong người dễ chịu một chút nên bảo Sa:

– Con đi đón cháu về đây cho mẹ gặp nó.

– Mẹ cứ yên tâm nghỉ cho khoẻ đã. Thời gian nghỉ phép còn dài, đợivài hôm nữa trời nắng lên rồi con sang bên ấy đưa cháu về.

Nói vậy cho mẹ yên lòng chứ Sa bỏ đi lúc này sao đành. Từ làng Hạ sang Hưng Yên cả đi lẫn về phải mất bốn năm ngày, cô đi chẳng may xảy ra chuyện gì thì sẽ ân hận suốt đời. Sang đến tuần thứ hai thì bà Trầm suy sụp hoàn toàn. Sa phải nấu cháo lỏng, nghiền ra pha thêm chút đường bón cho mẹ.

Buổi tối hôm ấy bà tỉnh lại, ra hiệu cho Sa đến gần rồi nói bằng giọng mệt mỏi đứt quãng:

– Điều làm mẹ lo nghĩ bao nhiêu năm nay là việc của bố con. Sau này, khi có thời gian rảnh rỗi, con nên tìm đến các bạn chiến đấu của bố để họ xác minh cho cái chết của ông ấy. Mấy năm qua mẹ đã tìm và xin được giấy chứng nhận có cả chữ ký và con dấu của bác Đáp trung đoàn trưởng trung đoàn 218.

– Việc ấy mẹ đã dặn rồi, con nhớ.

– Mẹ biết bệnh mẹ không thể qua được, chỉ cần nhìn thái độ của bác sĩ Tùng là hiểu… Còn một việc nữa. Con gái mà không có bố thì khổ trăm đường. Cứ suy từ mẹ con mình ra đủ biết. Con nên chọn một người tử tế, chẳng cần danh giá mà cần họ thật lòng thương yêu để sau này con Hoà An có chỗ dựa…

Nghe đến đây Sa oà lên khóc. Tiếng khóc của cô vừa nghẹn ngào vừa cay đắng xót xa làm cho bà Trầm cũng phải nấc lên khiến người bà rũ ra rồi lả dần. Nửa đêm hôm ấy bà Trầm qua đời. Bà chết mà mắt vẫn mở trừng trừng dường như chưa muốn về cõi vĩnh hằng bởi cảnh dở dang của con gái và người chồng bị hàm oan. Sa phải quỳ xuống chắp tay lầm rầm:

– Lạy vong linh mẹ sống khôn chết thiêng, những việc mẹ dặn con xin nhớ, chỉ mong mẹ nhắm mắt cho con và cháu Hoà An yên lòng.

Khấn xong, Sa đặt tay vào mắt bà Trầm vuốt nhẹ. Lúc ấy đôi mắt người quá cố mới từ từ khép lại.

Làm lễ an táng xong, Sa về Hưng Yên với con được một ngày rồi lại lên Sơn La vì thời gian nghỉ phép của cô đã quá hơn một tháng. Lên đến nơi cô mới hay, Trường trung cấp làm lễ bế giảng từ đầu tháng, các cán bộ kĩ thuật trẻ đã được phân công công tác đi khắp mọi nơi. Trên thực tế, công trường xem như đã giải thể, vì vậy Sa đành quay về quê Diệu. Thấy Sa trở lại, bà Phúc mừng lắm. Khi nghe cô nói rõ hoàn cảnh của mình bà vui vẻ bảo:

– Cũng chẳng sao con ạ, mày đi thế là đủ, bây giờ cứ ở đây làm hợp tác với mẹ. Xã mình nhiều ruộng lắm, ngày một ngày hai xem có đám nào tốt, mẹ làm mối cho.

– Con đội ơn mẹ lắm nhưng…

– Còn “nhưng” cái gì nữa, mẹ coi con cũng như con Diệu, đừng nghĩ ngợi mà thêm khổ vào thân. Đời con gái là thế đây. Chúng mày cứ thích bay nhảy lắm vào.

– Thế này bác ạ. Bác nói con xin nghe. Có điều hộ khẩu của con bây giờ người ta đã chuyển vào Quảng Bình, con ở lại đây thì sẽ phiền cho bác. Con định là vẫn nhờ bác trông bé Hoà An một thời gian nữa để đi Hải Phòng tìm người dì báo tin mẹ con đã mất.

– Thế cũng được, đi nhanh lên rồi về với con bé. – Bà Phúc rưng rưng nước mắt nhìn Sa. – Đã có địa chỉ của bà ấy chưa?

– Lúc còn sống, mẹ con chỉ nói dì ấy ở làng Cùa huyện An Hải.

– Vậy thì tìm cũng khó đấy. – Bà Phúc lắc đầu tỏ vẻ ái ngại. – Nhưng cũng nên đi cho trọn nghĩa trọn tình. Nhớ giữ gìn cẩn thận con ạ. Thời buổi tao loạn này, đi đường dễ xảy ra bất trắc.

Sáng hôm sau, Sa để bé Hoà An lại, từ biệt hai bà cháu rồi lại ba lô trên lưng tìm đường ra Hải Phòng. Sợ máy bay ném bom, các chuyến xe khách đường dài hầu như chỉ chạy ban đêm. Sa chờ đến chiều mà số khách đăng ký mua vé từ hôm trước vẫn chưa giải quyết hết. Mấy bà quê Thuỷ Nguyên rủ Sa xuống bến Tuần đi đò dọc. Các bà bảo, đi đò ban đêm vừa mát vừa đỡ mệt,  sớm mai là đến Vạn Giã. Từ Vạn Giã về An Hải chỉ mất một thôi đường.

Con đò gỗ nhỏ chỉ chở được hơn chục người rời bến khi trời chạng vạng. Ra đi vào lúc nước cường, thuyền chạy chậm rì rì. Thỉnh thoảng một cơn gió hiếm hoi tạt ngang mặt sông làm cánh buồm vá chằng vá đụp giật nảy lên như là bị vấp. Đêm cuối tháng tối đen như mực. Mặt sông lặng sóng, phải chú ý lắm mới nghe thấy những âm thanh nhè nhẹ kéo dài của mũi thuyền rẽ nước. Hai bên bờ, lũ ếch nhái gân cổ thi nhau hoà tấu bản giao hưởng đồng quê với đủ các bè từ tiếng ồm ồm của chú ếch cốm mới vỡ giọng đến tiếng lanh lảnh của vài cậu nhái bén sọc xanh. Bọn ễnh ương thì ngậm miệng lấy hơi làm toàn thân phình ra như quả bóng bầu dục rồi nhả từng tiếng khàn khàn như là nốt trầm của đàn contre bass. Duy có nhà cóc – Cậu ông Trời – là chẳng hiểu gì về âm nhạc, luôn phá ngang bằng những cái nghiến răng ken két.

Vòm trời đêm nay có cái lạ là rất thưa sao dù rằng thỉnh thoảng mới có gợn mây. Từ dải Ngân Hà nhợt nhạt như đám sương mù, một ngôi sao rạch ngang đầu Con Vịt và cái Gầu Tát Nước, kéo xuống tận chân trời một vệt sáng chói. Ngồi bên cạnh Sa là một người đàn ông có những nét đặc trưng của dân hạ bạc: da ngăm đen, trán cao, miệng rộng, mũi thẳng và cặp mắt từng trải. Anh ta rất ít nói, chỉ ngồi ngắm thiên hạ một cách lơ đãng rồi châm thuốc hút. Trái lại, các bà Thuỷ Nguyên rất nhiều lời. Chỉ một chuyện bắt phi công Mỹ ở Đình Trang thôi mà mỗi bà kể một phách, chẳng ai chịu ai, xuýt nữa thì cãi nhau. Ông già lái đò xấp xỉ lục tuần, tóc muối tiêu, búi củ hành, má bên phải hằn lên mấy vạch ngang dọc khá sâu giống như vết cào của thú dữ khi cùng đường buộc phải quay lại giao tranh với người. Chí ít ra, ông già cũng là một tay giang hồ sông nước. Làm nghề đò dọc hiếm người lương thiện. Họ phần lớn là những tay anh chị trên không sợ trời dưới không sợ đất, giữa chẳng sợ người, nổi tiếng một thời.

 Cũng như người đàn ông ngồi bên Sa, ông lái đò khá kín tiếng, thỉnh thoảng thấy thật cần thiết mới buông một lời. Thực ra những người thường xuyên đi rẻo sông này không phải ai cũng biết lai lịch của ông. Thỉnh thoảng có khách hỏi, ông chỉ cười trừ, thay câu trả lời mà nếu nói rõ ngọn ngành sẽ rất nhiêu khê. Trước đây ông học trường Bách Nghệ. Năm 1946, sau khi Hải Phòng bị quân đội Pháp tái chiếm, ông làm tài công cho một hãng vận tải thuỷ chạy đường Hà Nội – Hải Phòng. Quản lý tuyến Hà Nội – Hải Phòng là một gã Tây lai tên là Jacqués (Giắc kê). Giắc kê có cô vợ xinh đẹp người Việt tên là Phượng. Từ khi Công về làm thợ máy thì Phượng thường xuyên đòi xuống tàu lấy cớ đi chơi ngắm phong cảnh nhưng thực chất là để có dịp gần gũi người thanh niên làm thuê. Lúc đầu Công không dám nghĩ là bà chủ để ý đến mình. Dần dần anh nhận ra những cái nhìn không bình thường của người phụ nữ. Rồi hai người phải lòng nhau. Nàng say mê anh đến mức, mặc kệ những lời đàm tiếu của thiên hạ cứ thản nhiên gặp tình nhân  hàng ngày. Không lâu sau Jacqués biết chuyện. Hắn cáu lắm nhưng vốn sợ vợ nên không dám đuổi chàng thợ máy. Một lần Jacqués đích thân lên tàu sai bọn tay chân bí mật trói Công lại, dùng roi da quất túi bụi vào mặt rồi quẳng xuống sông, sau đó phao tin anh uống rượu say ngã xuống sông chết đuối. Phượng bỏ tiền thuê thợ câu chèo thuyền suốt mấy đoạn sông mà không tìm thấy xác liền chửi thằng Tây lai:

– Chính mày đã sai người giết anh ấy. Đồ sát nhân!

Mặt Jacqués cau có. Hắn vừa nốc mấy cốc rượu ngang Phú Lộc, cất giọng lè nhè:

– Mày đã ngủ với nó phải không? Đồ đĩ!

– Tao sẽ ra sở Cẩm tố cáo tội giết người của mày.

– Ố là là! – Hắn cười hô hố, giọng nồng nặc hơi men. – Cứ ra mà báo cảnh sát đi xem pháp luật thuộc về ai. Nhà nước Đại Pháp không bao giờ bênh lũ da vàng hèn hạ.

– Thằng khốn! – Phượng cáu tiết văng tục. – Thế mẹ đẻ ra mày là giống người nào?

Tay chủ hãng bỗng sầm mặt dịu giọng:

– Đó là nỗi đau của tao. Đáng lẽ bà không nên sinh ra tao mới phải.

Chuyện xảy ra được hơn một tháng thì Jacqués bị chết trong chuyến chở xi măng từ Hải Phòng đi Phả Lại. Mãi ba ngày sau người ta mới vớt được hắn nổi lập lờ trên vụng Giải ở ngã ba Rào, hai tay bị trói bằng chiếc thừng đay, còn đầu vẫn nhét trong bao tải. Hắn trương phềnh lên như con bò mộng, da thịt bị cá rỉa lỗ chỗ, bốc mùi khăn khẳn lợm giọng.

Vụ án Jacqués, nhà chức trách chẳng bao giờ tìm ra thủ phạm sát nhân, nhưng thiên hạ đồn, đó là cú đòn trả thù của người tài công. Anh ta vốn có tài bơi lội, thời trai trẻ lại được học dăm ba miếng võ, lúc bị quăng xuống nước đã cắn đứt dây trói rồi lặn một mạch vào bờ, đi tìm lá dấu[2]chữa vết thương, sau đó lộn về Hải Phòng chờ dịp thằng Tây lai lên tàu thực hiện kế hoạch trừng phạt. Hắn chết rồi, việc quản lý hãng rơi vào tay Phượng. Công được nhận lại nhưng không phải làm thợ máy mà là ông chủ. Chạy đường Hà Nội – Hải Phòng thêm được ba năm, sau Công thấy bộ đội, du kích đánh mạnh quá, không trụ được liền bàn với vợ bán tàu cho hãng Khánh Hưng ở Sài Gòn rồi mua mấy chiếc thuyền buồm gỗ chạy đò dọc kiếm cò con nhưng chắc ăn. Hoà bình lập lại, hai người hiến toàn bộ số phương tiện cho Chính phủ, chỉ để lại một con đò nhỏ làm kế sinh nhai. Ở tuổi năm mươi tám, đáng ra có thể kiếm việc nhẹ nhàng để sống bình yên bên các con những năm tháng cuối đời nhưng cái máu giang hồ làm ông không thể quên được nghề sông nước.

Đêm khuya lắm. Sương bắt đầu nặng hạt. Dải ngân hà mờ dần. Bầu trời trong suốt màu lam ngọc như bị đẩy lên cao làm cho không gian nở rộng ra, thoáng đãng, thanh khiết. Gần sáng trời chuyển gió. Nước sông đã lên cao. Sóng vỗ óc ách hai bên mạn. Sa đang chập chờn trong giấc ngủ nặng nề chợt nghe thấy những chuỗi âm thanh ào ào như sóng biển dội lại. Mọi người chưa kịp phản ứng gì, bỗng nhiên một trận cuồng phong dữ dội tựa gió bão từ trên cao chộp lấy con thuyền. Đầu tiên gió bẻ gãy cột buồm, sau đó bằng sức mạnh siêu nhiên, vô hình, nó hút con thuyền lên cao quay tròn trên không trung theo một đường xoắn ốc kì lạ rồi ném đám hành khách đang vô cùng khiếp đảm vào bóng đêm. Sa không biết mình bị rơi như thế nào, khi ý thức được cái chết đã kề bên thì đồng thời cô bị sặc. Sa lấy hết sức, cố gắng đạp nước nhoi lên thở nhưng càng nhoi lên lại càng chìm xuống, người cô đờ ra, hai tay quờ quạng trong trạng thái lơ lửng. Vào đúng lúc chín phần chết mới có một phần sống như thế, có một bàn tay đàn ông quờ được mái tóc Sa. Anh ta lặn xuống, lấy vai đẩy cô lên thật nhanh rồi vừa bơi vừa dìu cô nương theo dòng nước đang triều cường mênh mông. Anh bơi mãi, bơi mãi cách xa nơi thuyền bị nạn hơn cây số mới táp được vào bờ. Lúc ấy đã nhìn rõ mặt người. Sa nằm ngửa, vắt ngang trên hai tay người đàn ông, rũ ra như một cái xác không hồn, sau gần nửa giờ mới tỉnh lại. Cô ngỡ ngàng nhận ra, ân nhân của mình chính là người đàn ông đã ngồi cùng chuyến đò đêm qua.

Mãi đến chiều hôm ấy Sa mới đủ sức cùng người đàn ông đi ngược lên phía thượng lưu nơi con đò bị nạn. Dòng sông ban ngày trông thật đáng sợ. Con đò bị đắm ở bờ bên lở. Đoạn sông này rộng và có một vực xoáy cách bờ chừng năm sáu chục thước. Đứng trên cao nhìn nước triều cuồn cuộn chảy va đập vào bờ tạo thành những đợt sóng bạc đầu gối nhau làm Sa bất giác rùng mình. Con thuyền mỏng manh bị cơn lốc cuốn đột ngột giống như chiếc lá tre xoay theo chiều gió bay mãi vào cánh dồng mả Hủi làng Cháy cách bờ sông chừng nửa cây số. Phần lớn hành khách trên đò đều tử nạn. Sáng hôm sau người ta tìm được hai bà buôn trầu vỏ, một bà quê Biển Động, một bà ở Thủy Nguyên. Các bà hết hồn vì cú thăng thiên vài chục thước rồi bị ném xuống Cồn Khoai ngất xỉu nhưng không chết. Lúc tỉnh dậy, cả hai vị phật tử mộ đạo đều nhăn nhó vì mông đau ê ẩm cứ chắp tay lên giời vái lấy vái để, miệng liên tục niệm “Nam vô Quan Thế Âm Bồ Tát cứu khổ cứu nạn”. Riêng ông lái đò không tìm thấy xác. Mãi sau này, khi đã về ở xóm Trại bên sông Rào cô mới nghe người ta kể, nơi con thuyền bị nạn, chính là chỗ cách đây hơn hai mươi năm, ông Công đã bí mật lên tàu bắt thằng Jacqués thả trôi sông.

Sau vụ tai nạn, hai người mất sạch hành lý, đành đi bộ men theo bờ sông, về Hải Phòng. Dọc đường Sa kể cho Thảo (tên người đàn ông) nghe cảnh ngộ của mình. Thảo chỉ im lặng, không nói gì. Ngày hôm sau khi sắp về đến quê Thảo, anh bảo Sa:

– Tôi vẫn còn ít tiền dành dụm được, Sa cầm một ít ra An Hải tìm bà dì, xong việc lại về đây, tôi sẽ đón em ở bến đò Vạn.

Sa cúi đầu ngẫm nghĩ một lúc rồi ngập ngừng nhìn người đàn ông:

– Như thế thì phiền anh quá. Anh cứ cho em địa chỉ em sẽ đến tìm.

– Em cứ đi cho được việc rồi về. Ngày nào tôi cũng ở bến đò này.

Phải khó khăn lắm Sa mới tìm được làng Cùa. Làng Cùa bây giờ đổi tên thành thôn Thống Nhất, thành ra chỉ người già trong vùng mới biết còn lớp trẻ hỏi ai cũng lắc đầu. Bà Trà, dì của Sa đã theo chồng vào Nam năm năm tư. Từ khi đi đến giờ đã mười sáu năm không có tin tức gì. Sa cảm ơn những người đã chỉ đường cho mình rồi lại về Đáp Khê.

Vừa sang đò Vạn, Sa đã thấy Thảo đứng chờ trên bến. Anh mừng lắm, dẫn cô về ngôi nhà nhỏ cuối xóm Trại cách bến sông một đoạn đường. Ngôi nhà đã lâu không có người ở bốc mùi ẩm mốc. Hình như trong lúc Sa đi An Hải, Thảo đã tranh thủ quét dọn. Gần tối, lúc Sa đang nấu cơm thì Thảo hỏi:

– Em có mang theo căn cước đấy không?

– Rất may em để trong túi nên vẫn còn nhưng ngấm nước, bị nhàu.

– Không sao, cứ đưa tôi mang trình công an để họ khỏi hạch sách. – Thảo như chợt nhớ ra điều gì vội nói thêm: – Thế này, tối tôi đưa em sang nhà cô em họ nghỉ tạm, khi nào về tôi sẽ mượn xe đèo ra bến ô tô.

– Thôi anh ạ, em di bộ cũng được.

– Đừng ngại, đây với bến xe cũng gần thôi.

Hôm sau, Sa vẫn ở lại xóm Trại. Cô chưa đáp nghĩa được ơn cứu mạng nên ra đi không đành. Tối hôm ấy Sa lựa lời nói với Thảo:

– Có thể chỉ ngày mai là em xin phép về… Giữa đường gặp nạn được anh cứu sống em rất lấy làm cảm kích. Anh Thảo, em thấy ở anh có một cái gì đó khác thường, hãy kể cho em nghe xem em có giúp được gì không.

Tối hôm ấy, bên ngọn đèn dầu leo lét để trong hộp gỗ phòng không chắn gần hết ánh sáng, Thảo kể về mình.

Thảo sinh ra ở xóm Trại cạnh sông Rào. Nhà chỉ có hai anh em. Bố mẹ chết vì đạn mortier trong trận càn năm Nhâm Thìn. Lúc ấy Thảo mới mười một, còn Mộc chưa đầy bảy tuổi. Hai anh em được một bà cô bên mẹ cưu mang nuôi nấng cho đến lúc trưởng thành. Bà này người nền nã, dáng thanh thoát, ăn nói có duyên nhưng không lấy chồng. Sau hoà bình, bà cho cả hai anh em đi học. Thảo lớn hơn, thương cô vất vả chỉ học đến lớp bốn rồi bỏ theo vạn chài kiếm sống. Mộc học hết lớp bảy thi đỗ vào trường trung cấp Nông lâm. Học xong, Mộc được phân công lên mãi Yên Bái làm ở nông trường chè thỉnh thoảng mới về. Mấy năm sau làng Đáp Khê vận động nhân dân vào hợp tác xã nông nghiệp. Thảo bỏ nghề hạ bạc, lên bờ xin vào làm ăn tập thể ở xóm Trại.

Hợp tác xã nông nghiệp vui lắm, nhất là những đợt đi làm thuỷ lợi, như đào mương, đắp bờ vùng bờ thửa. Thanh niên thời ấy nói chung là vô tư và những ước mơ của họ cũng giản dị, thiết thực chứ không phù phiếm, viển vông như bây giờ. Thảo thuộc loại khoẻ mạnh và tuy không đẹp trai nhưng dáng cao lớn, nói năng chững chạc nên gái làng Đáp Khê cô nào cũng để ý. Cách yêu của thanh niên nông thôn cũng khác. Nó kín đáo và tế nhị. Không ồn ào mà sâu nặng. Xóm Trại có những cô gái khá xinh mà Thảo không để ý đến ai. Hình như chuyện trăm năm của người ta có số cả. Trong một đợt Đoàn thanh niên tổ chức làm mương thuỷ lợi ở Tào Khê, Thảo gặp một cô người làng Đoài tên là Mây. Cô này phải nói là có nét, người tầm thước, tóc dài đen nhánh, chỉ phải đôi mắt sắc quá lúc nào cũng như thiêu cháy người ta. Hai người gặp nhau, mối đồng cảm tự nhiên giao hoà qua những cái nhìn đắm đuối. Mây là con nhà tử tế. Anh ruột làm phó bí thư xã Đoàn, bố, chủ tịch Mặt trận Tổ quốc. Biết chuyện yêu đương của em gái, anh Lĩnh bảo:

– Cô yêu đương hoa lá hay là muốn lấy thằng Thảo mà tối nào cũng sang xóm Trại?

– Em đã hai mươi mốt rồi còn gì. Anh phải để cho em kiếm chồng chứ.

– Anh thấy không nên chọn đám ấy. Bố mẹ nó mất cả rồi. Gia đình lại không cơ bản.

Cô em vốn chẳng phải loại ít lời, nghe ông anh “phán”, đốp chát luôn:

– Thôi đi. Bố với anh làm việc xã, hễ cứ mở miệng ra là y như kể đến thành phần giai cấp. Em có thân em lo. Tình hình chiến sự ngày càng phức tạp, không kiếm ngay một tấm chồng tử tế làm chỗ dựa, nay mai trai làng đi hết, còn độc lũ sứt môi lồi rốn, quá lứa nhỡ thì rồi lấy ai?

Nghe thứ lập luận lạnh lùng nhưng lại rất thực tế của em gái, Lĩnh đành chịu. Hơn một tháng sau Thảo nói với bà cô sang làng Đoài dạm hỏi. Bà Đông sắm buồng cau hơn ba trăm quả mập như trái hồng, một hộp bánh cáy làng Nguyễn và hai tút thuốc Điện Biên sang thưa chuyện với ông Chủ tịch Mặt trận. Gia đình Mây chấp thuận. Mọi việc diễn ra tốt đẹp nhưng xem ra bà Đông không hài lòng. Trên đường về, bà bảo riêng Thảo:

– Gia đình ông Đạo thì cô không dám chê nhưng cái mắt của con Mây làm cô chưa yên tâm. Từ trước đến nay các cụ đã dạy, loại đàn bà mà con mắt đong đưa là không chính chuyên. Việc vợ chồng là chuyện hệ trọng của cả một đời người, cháu hãy nghĩ cho kỹ.

– Cô câu nệ quá. Thanh niên bây giờ khác xa với thời các cụ. Cô mà cứ đắn đo thế thì cháu ế vợ mất.

– Làng này thiếu gì gái ngoan mà phải lấy vợ thiên hạ?

– Thế mới gọi là cái duyên cái số chứ cô. Bố mẹ cháu mất sớm, cô đã nuôi anh em cháu nên người, giờ mong cô tác thành cho cháu.

– Cô không phải là khó tính mà chỉ mong cháu tìm được người có đức có nhân về gánh vác việc gia đình rồi sinh con đẻ cái. Cháu đã nói thế thì cô cũng đành chịu.

Lễ cưới được tổ chức gọn nhẹ theo đời sống mới. Bạn bè hai bên cô dâu, chú rể đến dự rất đông. Trên tấm phông lớn màu xanh, ngoài hai chữ TM cắt bằng giấy đỏ lồng vào nhau và đôi chim bồ câu trắng còn có khẩu hiệu: “Vui duyên mới không quên nhiệm vụ”. Quà mừng đôi vợ chồng mới toàn khăn mặt với mấy chiếc ca uống nước.

Cưới vợ cho Thảo xong, bà Đông sang chùa Từ Vân ở. Mấy năm trước bà đã nhận với xã trông coi ngôi chùa này. Làng Đáp Khê có hai chùa và một đình. Đình bị Tây đốt năm Nhâm Thìn chỉ còn trơ nền đất với mấy chục viên đá tảng kê cột. Chùa Dọc ở xóm Miễu thì xã cho phá lấy gỗ lim làm trường học năm 1958. Các tượng Phật bị học trò khênh ra ném xuống sông. Chỉ còn chùa Từ Vân nguyên lành nhưng trải qua bao cơn binh lửa, thế sự thăng trầm nên đã xuống cấp nghiêm trọng. May mà có bà Đông cùng một số vãi đứng ra bảo vệ nếu không họ cũng phá sạch.

Cưới nhau được một năm thì Thảo đi bộ đội. Dịp ấy là năm sáu mươi sáu. Anh nhập ngũ được chừng tám tháng, cô Mây ở nhà lòng thòng với tay Tiệp, phó chủ tịch xã. Họ quan hệ với nhau kín đáo lắm nhưng vẫn có người biết. Cô Thảnh xóm Giữa kể là đã gặp anh chị đưa nhau lên huyện chẳng biết để làm gì. Sau đợt ấy, về nhà người Mây cứ xanh xao như vừa ốm dậy. Các bà nạ dòng thóc mách đoán già đoán non… Chị Tam, vợ Tiệp nghe phong thanh, vốn có máu Hoạn Thư, một hôm đợi Mây đi làm về, đón ở gốc đa làng gây sự. Đầu tiên hai người còn đấu khẩu, sau xông vào đấu võ, vật nhau lăn cả xuống ruộng người lấm lem như vừa đi tát vét về. Tiệp bị mất mặt, hằm hằm lôi vợ về nhà đánh một trận thừa sống thiếu chết. Bà Đông biết chuyện về nhà bảo cháu dâu:

– Cô nghe người ta nói là mày đánh nhau với vợ nhà Tiệp ở gốc đa?

– Tự nhiên con mẹ ấy lại đón đường chửi cháu, cô bảo thế có ức không? Thế nên cháu mới cho nó một trận.

– Làm sao mà đến nông nỗi ấy? – Bà Đông thăm dò. – Người ta bảo mày phải lòng nhà anh Tiệp có phải không?

– Chúng nó ghen ăn tức ở đặt điều ra vì thấy ủy ban xã cử cháu làm văn thư, chứ cháu với anh Tiệp có gì đâu.

Bà Đông lựa lời khuyên cháu dâu:

– Con gái có chồng rồi phải giữ gìn để tránh tai tiếng cháu ạ.

– Cô cứ yên tâm. Cháu không làm gì hại đến thanh danh gia đình đâu.

Nhìn vào mắt Mây, bà Đông biết là đã có chuyện xảy ra, nhưng bà nói một nó cãi mười cứ liến thoắng như súng liên thanh, thành ra chỉ biết lắc đầu thở dài. Một hôm bà Đông gọi Mây lên chùa lựa lúc các bà trong Hội Quy đã về bà mới tỉ tê bảo:

– Cô hiểu tình cảnh của cháu nên rất thông cảm với cháu. Con gái thời chiến tranh là khổ lắm, chỉ cần mềm lòng một tí là không giữ được mình. Âu đó cũng là lẽ thường. Có điều, nếu đã trót dại thì nên cắt ngay đi, đừng đa mang rồi ảnh hưởng đến hạnh phúc gia đình. Bọn đàn ông có vợ mà đi ve vãn phụ nữ không đứa nào tử tế đâu cháu ạ.

Nghe bà Đông nói, Mây có vẻ nghe ra, hôm sau đến ủy ban xin nghỉ chân văn phòng. Nhưng tay Tiệp vốn dại gái, anh ta tìm đủ mọi cách thuyết phục cô, thế là chuyện đâu vẫn đóng đấy, hai người lại thậm thụt với nhau. Cuối năm ấy Thảo được về nghỉ mấy ngày để đi chiến trường. Anh giúp vợ sửa tường vách, mua thêm lá gồi chữa lại những chỗ dột trên mái. Hôm Thảo ra bến đò thì gặp cô em họ là Hường đang chèo thuyền sang Cồn Dưa chở dây khoai. Hường gọi:

– Bên Hạ Chiểu mới có mấy bè nứa về, anh xuống thuyền em đưa sang.

Tưởng thật, Thảo xuống đò rồi cầm chèo thay cô em họ. Đi được một đoạn Hường mới bảo:

– Nói đùa anh vậy thôi, bên ấy làm gì có nứa nhưng có chuyện này, em nói anh phải thật bình tĩnh mà nghe.

– Có chuyện gì mà nghiêm trọng thế?

 – Anh nghe đây. Chị Mây ở nhà phải lòng tay Tiệp. Hai người túng tấng với nhau từ lâu rồi. Xóm làng biết cả nhưng họ ngại nói ra nó thù, lại gây khó dễ. Bây giờ anh về liệu mà bảo chị ấy thôi đi, nếu không, hạnh phúc cả hai gia đình đều tan vỡ mà rồi bà con người ta cười cho.

– Cô nói thật hay đùa đấy? – Thảo cảm thấy mặt nóng ran, người bứt rứt khó chịu, hỏi nhát gừng.

Hường cười nhạt buông từng lời một:

– Tôi có quý mến anh mới nói chuyện hệ trọng như thế. Lời nói đọi máu, anh nghĩ tôi là cái thứ gì mà đi đưa tin thất thiệt. Cứ về hỏi bà Đông sẽ rõ.

Thảo tái mặt. Anh đảo mái chèo xoay mũi cho thuyền vào bờ rồi nhảy lên:

– Anh xin lỗi. Tin của em làm anh mất bình tĩnh.

– Nghe em bảo đây. – Hường dịu giọng dặn. – Về nhà đừng có nổi máu Trương Phi mà hỏng việc. Phải đối xử với chị ấy thật tình cảm vào. Trưa mai mời anh sang ăn cơm với thầy em rồi em bảo cách.

Ở nhà đến ngày thứ năm, Thảo bảo vợ:

– Mai anh phải đi rồi.

– Sao đi sớm thế? Anh không ở nhà với em thêm mấy hôm nữa ư?

– Quân lệnh như sơn. – Thảo mỉm cười nhìn vợ. – Đơn vị cho nghỉ tranh thủ về thăm nhà thế là nhiều đấy. Em giữ anh ở lại chỉ cần chậm nửa ngày là bị kỷ luật ngay.

– Anh ơi! – Mây rưng rưng nước mắt giọng mếu máo. – Đi rồi về với em…

Thảo mỉm cười động viên vợ:

– Tiền tuyến đang thắng lớn, chẳng mấy chốc giải phóng miền Nam. Đến lúc ấy anh sẽ về hẳn với em, lo gì. Còn một việc nữa anh dặn đây. Khi anh đi vắng cứ đứa nào lợi dụng trêu chọc em phải báo ngay cho chính quyền để các anh ấy giúp đỡ. Nhà mình gần bến sông phải cảnh giác.

– Dạ, em nhớ.

Trưa hôm sau, Thảo từ biệt vợ và cô Đông khoác ba lô tắt cánh đồng Lác lên chợ Ô đón xe. Nhưng anh chưa về đơn vị ngay. Buổi tối Thảo vào nhà một người bạn gửi ba lô, mượn bộ quần áo, chụp chiếc mũ lá lên đầu rồi lại tắt đồng lộn về xóm Trại. Thời chiến, xã cấm nuôi chó, làng xóm yên ắng lắm. Thỉnh thoảng chỉ có cánh dân quân đi tuần. Một chú trống choai nào đó gần trụ sở hợp tác xã tự nhiên đập cánh phành phạch rồi cất tiếng gáy.  Hường và cậu em đã đợi Thảo ở bụi duối. Vừa thấy anh cô đã thì thầm:

– Hắn đến rồi…

– Có chính xác không?

– Thằng Hoan nhà em theo dõi từ lúc nhập nhoạng tối.

– Đã chuẩn bị các thứ chưa?

– Xong rồi, nhưng anh không được manh động.

– Bây giờ làm thế nào? – Thảo hỏi khẽ.

– Cánh cửa nhà anh có chắc chắn không?

– Bằng liếp ấy mà, chỉ cần đạp mạnh một cái là bật ra.

– Vậy thì… ta vào, nhưng khi nào em ra hiệu mới được hành động, nhớ chưa?

– Nhớ… – Miệng Thảo ậm ừ nhưng bàn tay phải thọc vào túi áo gại gại lưỡi con dao thiến lợn vừa mới mài lúc chiều.

Ba người như là ba tên kẻ trộm dò dẫm từng bước tiếp cận ngôi nhà để tránh gây tiếng động. Khi đã bò vào đến cửa, Hường ghé tai Thảo bảo nhỏ:

– Phải nghe xem bọn họ nói gì đã…

Quả nhiên trong nhà sột soạt rồi một giọng đàn ông rất khẽ phải thật chú ý mới nghe rõ:

– Hắn có nghi ngờ gì không?

– Không. Hắn cả tin lắm. – Mây cũng thì thầm. – hắn còn dặn em ở nhà có đứa nào trêu ghẹo thì phải báo cho công an xã.

Gã đàn ông chợt cười thành tiếng:

– Hắn cũng khôn đấy nhưng vẫn còn hớ…

– Thôi đi, đồ nỡm… – Mây nói nũng nịu. – Nói thực tình, em không ngại chồng em mà ngại con sư tử Hà Đông nhà anh ấy. Anh mà không nẹt nó đi thì có lúc chết cả nút.

– Nào, thôi… làm gì mà giận lâu thế.

Những câu đối thoại không đầu không cuối đến đấy thì tạm dừng. Có tiếng động nhẹ, rồi mạnh dần, kèm theo những nhịp thở hổn hển, gấp gáp… Hường bấm Thảo. Anh co chân đạp thật mạnh vào cánh liếp. Cửa bật ra và cả ba chiếc đèn pile cùng một lúc rọi vào giường.

– Nằm im! – Thảo quát khẽ. – Các người động đậy là mất mạng.

Cặp tình nhân còn chưa hết bàng hoàng thì Hường đã đưa một tờ giấy viết sẵn và cây bút Trường Sơn bảo:

– Anh chị đọc đi rồi ký vào.

Tiệp mặt cắt không còn hạt máu, giọng lập cập van xin:

– Trăm lạy chú Thảo, cô Hường, tôi trót dại một lần, cúi mong cô chú tha cho…

– Được rồi, cứ ký vào đây đã. – Thảo nghiến răng nói dằn từng tiếng. – Nếu không, chúng tôi đành phải trói lại đưa đến ủy ban.

Chỉ có Mây là không nói câu nào. Cô ta gườm gườm nhìn Thảo rồi định vơ quần áo chạy ra ngoài.

– Ngồi yên! – Thảo huơ con dao loang loáng trước ánh đèn pile. – Cô mà nhích ra một bước tôi cắt cổ liền.

Trước mặt, sau lưng không còn con đường nào tháo lui, đôi gian phu, dâm phụ bắt buộc phải kí vào biên bản. Hường còn bắt tay Tiệp ghi thêm phía dưới mấy chữ để sau này hắn không thể cãi. Trong khi ông phó chủ tịch đang lúng túng mặc quần áo thì nhanh như cắt, Thảo túm lấy tai hắn, đưa xoẹt một đường dao. Hắn rú lên, ngã vật xuống làm cho hai chị em Hường cũng bị bất ngờ. Cậu Hoan soi đèn vào đầu Tiệp đã thấy cái tai cụt máu chảy nhoe nhoét. Cô Mây phải nhịn nhục mặc quần áo cho hắn rồi lấy khăn mặt áp vào thái dương cầm máu.

Hường nhăn mặt:

– Đã bảo việc đâu có đó, thế mà anh lại manh động.

Thảo cười nhạt:

– Tội vạ đâu tôi chịu, nhưng phải cho thằng chó dái này bài học để nó không bao giờ dám quyến rũ vợ người khác nữa.

Ngay đêm hôm ấy, Thảo và Hường dẫn đôi “tình nhân” cùng tang vật là tờ biên bản và cái tai ra trình ủy ban xã. Đảng uỷ và chính quyền vội triệu tập cuộc họp khẩn cấp. Tiệp được đưa sang trạm xá băng bó. Thảo bị giữ lại để sáng hôm sau giải lên công an huyện.

Trước bằng chứng không thể chối cãi về tội hủ hoá, tay Tiệp bị khai trừ khỏi Đảng và cách chức phó chủ tịch. Hắn còn bị lao động cải tạo sáu tháng ở công trường thuỷ lợi An Hoà. Còn Thảo, do hành vi quá khích, gây thương tích nghiêm trọng cho người khác, bị tước quân tịch, phải ra Toà án binh lĩnh án mười tám tháng tù giam. Trước khi vào trại, anh viết đơn xin li hôn với cô Mây. Đơn chép làm hai bản, đã ký sẵn, lúc Toà xử anh không phải về nữa. Bà Đông thương cháu lắm, gặp ai cũng phân bua:

– Tôi đã bảo cặp mắt của con Mây là lăng loàn lắm, lấy nó thế nào cũng sinh chuyện, vậy mà thằng Thảo có nghe đâu.

Phải đi tù nhưng Thảo không ân hận gì. Anh làm việc quang minh chính đại nên lương tâm thanh thản. Trong quá trình ở trại, anh cải tạo tốt, được anh em đồng phạm quý mến vì vậy cuối năm được giảm án. Ra tù, Thảo đã định bỏ làng đi nơi khác để xoá khỏi ký ức những chuỵện đau buồn của một thời lầm lẫn. Nghĩ đi nghĩ lại, anh chợt nhớ đến bà cô đã nuôi nấng mình từ tấm bé, hết lòng thương yêu, thế là xuống bến Ba Kèo chờ đò xuôi Vạn Giã. Thật là một chuyến đi khủng khiếp nhớ đời, chỉ chút xíu là bỏ mạng.

– Chị Mây sau này thế nào hả anh? – Sa khẽ hỏi.

– Cũng về đến nhà tôi mới biết cô ta bỏ làng đi theo tay Tiệp hồi giữa năm. Hắn bị mất một tai chắc là nhục quá, không sống nổi với dư luận phải bán xới, nghe đâu lên vùng Lào Cai, Yên Bái làm phu bè gì đó.

– Vậy là anh ta bỏ vợ con đi theo nhân tình?

– Hắn thì làm gì còn nhân cách để dàn mặt vợ con.

Sáng hôm sau, lúc Sa sắp về Hưng Yên, Thảo đăm đăm nhìn cô rất lâu, ngập ngừng mãi rồi mới dè dặt bảo:

– Tôi nói thế này, có gì không phải Sa hãy bỏ qua.

– Có chuyện gì mà anh Thảo cứ phải rào đón…?

– Bây giờ em không có gia đình mà hoàn cảnh của tôi thì em biết rồi đấy. Tôi muốn em mang bé Hoà An về đây ở. Tôi thề trên có trời cao, dưới có đất dày, sau này, nếu phụ bạc em thì phải chết đường chết chợ.

Sa lắng nghe Thảo, ngẫm nghĩ một lúc khá lâu rồi mới nhẹ nhàng bảo:

 – Việc gì anh Thảo phải nặng lời thề như vậy. Nghe chuyện Sa đã biết tấm lòng anh. Hãy thư thư cho mấy hôm để em về Hưng Yên thưa chuyện với bà mẹ nuôi rồi ngày một ngày hai em sẽ mang con bé về đây.

– Hay là để tôi đi luôn với em cho tiện, dọc đường nhỡ có chuyện gì xảy ra còn kịp đỡ đần.

– Vâng, thế cũng được, có anh đi em yên tâm hơn.

Bà Phúc nghe Thảo trình bày vừa mừng vừa lo. Mừng vì từ nay Sa có một gia đình còn lo buồn vì thế là Hoà An phải xa bà. Bà cháu đã quấn túm nhau hơn hai năm, giờ nó đi, khỏi sao chuyện nhớ thương. Bà quệt nước mắt nói:

– Chuyện nhân duyên của các con là do Trời định. May mà em nó được anh cứu sống. Cái ơn ấy nặng bằng núi Thái Sơn, thôi thì về với nhau là hợp lẽ. Chỉ có điều khi nào con Hoà An lớn, vợ chồng đưa nó về đây thăm bà, nhớ đấy.

– Dạ, chúng con nhớ.

– Sau này các con phải nói cho Hoà An biết về bố nó.

– Dạ, bà dạy phải.

– Còn bây giờ thế này. – Bà Phúc lấy trong hòm ra một bọc giấy báo đưa cho Sa. – Đây là ít tiền bác cho hai đứa làm vốn.

– Chết, sao bà làm thế. – Sa giãy nảy lên. – Bà nuôi cháu Hoà An bao nhiêu năm con chẳng báo đáp được chút gì, giờ bà lại cho tiền con không dám nhận đâu.

– Đã thế thì bác phải nói thật. – Bà Phúc vừa nhai trầu lúng búng vừa bảo. – Tiền này là con gửi về mấy năm qua để nuôi cháu Hoà An, nhưng nó còn bé, ăn mặc hết bao nhiêu mà phải dùng đến. Người ta sống với nhau là ở cái tình con ạ. Giờ bác biết các con sắp ra ở riêng khó khăn trăm bề nên đưa lại cho con. Cứ cầm lấy, đừng làm bác và cái Diệu buồn.

Hai người ở lại nhà mẹ Phúc ba hôm thì xin phép mang Hoà An về làng Hạ. Sau khi ra viếng mộ bà Trầm, Thảo lại đưa mẹ con Sa về Hải Phòng. Bây giờ Sa rất sợ đò dọc. Thảo bế con bé, Sa khoác ba lô lếch thếch đi bộ từng đoạn, mệt đâu nghỉ đấy. Đến Lai Cách Hải Dương gặp chiếc xe tải, anh tài là người tốt bụng cho cả nhà đi nhờ, chập tối thì về đến xóm Trại.

Ăn cơm xong, Thảo vào chùa Từ Vân mời bà Đông sang thưa chuyện. Nhìn thấy Sa bà ưng ý lắm. Hôm sau, Thảo làm thủ tục trình báo với chính quyền. Cán bộ địa phương biết Thảo mới đi cải tạo về nhưng họ cũng không gây khó dễ trong việc tái lập gia đình. Đám cưới hai người đơn giản. Thảo chỉ làm ba mâm cơm mời bà Đông, cô Hường và mấy gia đình bạn bè thân cận. Cưới xong, Thảo sửa lại ngôi nhà cho gọn gàng rồi sang đò tìm mua gỗ. Anh có ý định đóng một con thuyền, tiếp tục làm nghề đánh cá trên sông Rào.

Sau ngày cưới, Thảo và Sa sống hạnh phúc bao nhiêu thì Hường buồn bấy nhiêu. Về thứ bậc họ hàng, Hường là con bà cô họ, nghĩa là gần như không còn mối quan hệ huyết thống, nên ngay từ lúc Thảo chưa cưới Mây, Hường đã thầm yêu anh. Thảo thì vô tâm, còn Hường vẫn lấn cấn một chút về dây mơ rễ má, thành thử chuyện hai người chẳng đi đến đâu. Cô âm thầm chịu đựng nỗi thất vọng mà không biết ngỏ cùng ai. Khi vạch kế hoạch cho Thảo, Hường không dự kiến tình huống anh cắt tai gã phó chủ tịch. Kết quả là mọi chuyện đều đổ vỡ. Bây giờ nghĩ lại cô cảm thấy việc làm của mình có cái gì cay cú giống như một sự trả thù đối với cô gái làng Đoài. Rồi niềm hy vọng của Hường vừa mới được nhen nhóm lại vụt tắt khi Sa xuất hiện cùng với Thảo về xóm Trại. Thế mới biết, chuyện vợ chồng là do duyên số. – Hường thầm nghĩ và tự an ủi mình. – Nó vượt ra ngoài những toan tính ích kỷ, vụ lợi của con người.

Thấm thoắt, Sa về xóm Trại đã được bốn tháng. Chiếc thuyền gỗ của Thảo đã đóng xong, anh mua thêm mấy tay lưới rồi bắt đầu gia nhập vạn chài kiếm ăn bằng nghề sông nước. Thỉnh thoảng Thảo đưa mẹ con Sa xuống thuyền. Lần đầu tiên trong đời được du ngoạn trên sông, Hoà An thích lắm. Cô bé ngồi trên sạp nhìn bố Thảo gỡ những con cá lấp lánh ánh bạc vứt xuống khoang, mắt nó sáng lên miệng rối rít:

– Mẹ ơi…! Cá đẹp…

 Công việc dần dần ổn định. Mỗi sáng khi thuyền về, Sa lại xuống bến Vạn đón cá mang ra chợ. Thảo ở nhà chơi với Hoà An. Con bé quấn quýt lấy anh, người ngoài không biết cứ nghĩ anh là bố đẻ. Cho hay, hạnh phúc ở đời đâu phải cao xa lắm. Hạnh phúc có khi ở ngay tầm tay, có điều ta phải biết với lấy đúng thời cơ và giữ gìn thế nào để nó được lâu bền mà thôi. Cưới nhau được hơn một năm, Sa sinh con trai, một thằng bé nặng ba cân bảy, khóc toáng lên khi vừa lọt lòng, làm cho ông bố chực ngoài phòng sản cuống lên, dở khóc dở cười. Bà Đông ra trạm xá chăm nom cháu dâu. Ở cữ được một ngày, Sa đòi về, bà cô lắc đầu, nhả miếng bã trầu cầm tay giọng dứt khoát:

– Cứ nằm đây nghỉ cho đỡ mệt, việc gì cần cô làm cho. Gái đẻ mà đi lại sớm là sau này đau lưng đấy con ạ.

Bà bế thằng bé, nâng lên tận mặt thơm nó rồi nựng:

– Chà, thằng cún của bà nặng quá, cái miệng giống thằng bố như đúc. Hai đứa định đặt tên nó là gì?

Sa mỉm cười, nhìn bà Đông, giọng hóm hỉnh:

– Bố cháu đặt tên là thằng May cô ạ.

– Sao chúng mày tai quái thế? – Bà Đông có vẻ trách vợ chồng Thảo. – Con chị là Hoà An sao không gọi nó là Hoà Bình, lại đặt là May, tao nghe thế nào ấy.

Sa mủm mỉm cười giải thích:

– Thế này cô ạ, lúc anh Thảo ra trại, cháu với anh ấy cùng đi đò dọc trên sông. Quá nửa đêm, đò bị cơn lốc đánh đắm. Hơn chục người trên thuyền chỉ có chúng cháu với hai bà buôn trầu thoát chết, rồi nên vợ nên chồng, vì vậy đặt tên thằng cu là May để làm kỷ niệm.

– Ra vậy… – Bà Đông lẩm bẩm. – Vậy mà từ bấy đến nay anh Thảo không nói cho cô biết.

– Chuyện buồn ấy mà, kể làm gì hả cô…

                                                  *

Cuối năm bảy mươi, làng Đáp Khê đã ba đợt tiễn tân binh nhập ngũ làm Thảo bứt rứt không yên, một hôm anh bàn với Sa:

– Có lẽ anh phải làm đơn …

Sa sững người tưởng mình nghe nhầm:

– Anh bảo gì cơ? Lại đi bộ đội ấy à?

– Phải thế em ạ. Lần trước chưa hoàn thành nhiệm vụ anh vẫn thấy không yên tâm. Bọn trẻ xóm Trại đều đi cả, mình cứ rong ruổi kiếm cá trên sông như thế này xem ra không ổn.

– Anh đừng đi! – Sa tỏ ra khá kiên quyết, một điều trước đây chưa từng thấy ở cô. – Con Hoà An đã từng mất bố, em không muốn cu May lại rơi vào hoàn cảnh ấy.

– Anh hiểu tâm trạng em. – Thảo dịu dàng bảo Sa. – Nhưng em cũng phải hiểu cho anh. Làm thằng đàn ông trong lúc nước sôi lửa bỏng này mà quẩn quanh bên vợ con chỉ là kẻ ích kỷ, hèn nhát. Anh định đăng ký đợt trong tết nhưng lúc ấy thằng May còn bé quá, mình em ở nhà một nách hai con sẽ vất vả nên để lui lại.

– Anh không thương mẹ con em… – Sa nói dỗi.

– Khổ lắm, sao lại không thương. Em chỉ quá lời.

– Anh làm đơn chưa?

– Rồi.

– Việc làm thì cứ làm chứ chắc gì người ta đã cho đi…

– Em nói đùa.

– Em không đùa. – Sa chớp mắt định nói tiếp nhưng lại thôi.

– Anh hiểu em định nói gì. – Thảo lưỡng lự giây lát rồi tiếp. – Mấy hôm trước, anh đã đến huyện đội trình bày nguyện vọng. Người ta bảo nếu anh có đơn thì sẵn sàng chấp nhận.

– Thế là anh lại bỏ ba mẹ con em mà đi?

– Lần này chắc là không lâu. Miền Nam đang thắng lớn. Đánh xong Mỹ anh lại về với mẹ con em.

Sắp đến ngày lên đường, Thảo bàn với Sa quyết định bán thuyền. Sa bảo:

– Nên để cho hợp tác xã làm đò ngang. Con đò của ông Thốn nát rồi anh ạ.

– Ở vạn chài khối người muốn mua. Mình bỏ ra bao nhiêu công sức với tiền bạc, giờ để cho hợp tác xã, họ chỉ trả bằng điểm.

– Theo em, anh cứ gửi vào hợp tác xã, không lấy tiền cũng không lấy điểm, độ một vài năm anh về ta lấy lại thế chẳng hơn sao.

– Nhưng mà đưa vào đấy cha chung không ai khóc, lúc anh về có khi làm củi rồi.

– Thì họ phải đóng cho mình con thuyền khác, lo gì.

– Anh đi rồi liệu em có làm ruộng được không? – Thảo nhìn vợ lo lắng hỏi.

– Anh quên em là con nhà nông à?

– Ấy là anh nói thế.

Đợt nhập ngũ này xóm Trại có bốn tân binh, trong đó Thảo lớn tuổi hơn cả. Thằng Tỵ con ông Khoản ít tuổi nhất, mới có mười bảy. Thế mà trước khi tòng quân nó đã kịp cưới một cô vợ người xóm Giữa. Cô này bé loắt choắt, chỉ được mỗi bộ ngực to đùng như ngực đàn bà nạ dòng. Hường bấy giờ đã là bí thư xã Đoàn, cùng ba cô trong Ban chấp hành tặng mỗi chiến binh một chiếc khăn mùi xoa có thêu bốn chữ “Kỷ niệm hậu phương”. Khi trao tặng vật cho Thảo, cô bảo:

– Chúc anh lên đường may mắn, hoàn thành nhiệm vụ.

– Hường ở nhà thỉnh thoảng động viên chị Sa giúp anh.

– Được rồi, anh cứ yên tâm. Mà này, mấy hôm trước, em nghe tin chị Mây…

– Sao? Cô Mây về rồi à?

– Mây chết rồi.

Thảo lặng người đến mấy giây rồi thẫn thờ hỏi lại:

– Chết thế nào hả em?

– Bị sốt rét ác tính ở Lào Cai. Hình như chị ấy theo cánh sơn tràng.

– Thôi thế cũng xong một đời người.

Hường rưng rưng nước mắt, giọng ngậm ngùi:

– Em thương chị ấy quá. Trăm sự chỉ tại em anh Thảo ạ.

– Hường không nên nói thế. – Thảo lắc đầu bảo. – Đó là cái giá mà một kẻ lăng loàn như cô ấy phải trả. Em thử nghĩ rộng ra một chút xem, nếu tất cả những phụ nữ có chồng đang chiến đấu ngoài mặt trận đều hành động vô liêm sỉ như thế thì làm sao ta đánh thắng kẻ thù được. Em làm công tác Đoàn phải hiểu điều ấy hơn anh chứ.

Thảo nhập ngũ được ba tháng thì đơn vị vào chiến trường. Anh chỉ về nhà thăm vợ con được hai ngày rồi lại khoác ba lô cuốc bộ tắt cánh đồng Lác lên đường cái đón xe đi nhờ. Chuyến ấy, Thảo hành quân một mạch vào đến Tây Ninh, mãi bốn tháng sau ở nhà mới nhận được thư.

Đầu năm 1972, thằng Tỵ hy sinh ở Quảng Trị. Cái Chắt khóc chồng sưng cả mắt phải đi bệnh viện tỉnh. Về nhà, nó ra chùa Từ Vân đòi xuống tóc, đi tu.

Bà Đông lựa lời an ủi:

– Cháu còn trẻ, đừng vội huỷ hoại đời mình, làng ta không chỉ có mình cháu goá bụa nên phải cố mà sống. Sau này gặp người tử tế bà làm mối cho.

– Ứ ừ! – Cái Chắt tức tưởi khóc. – Từ nay cháu chẳng lấy chồng nữa đâu, khổ lắm.

– Con bé này chỉ nói dại. Mày định làm bà cô à?

– Cháu sẽ lên chùa ở với bà.

– Cái số kiếp con người nó nặng lắm. – Bà Đông thủ thỉ nói. – Muốn dứt khỏi trần duyên cũng không phải dễ. Ở tuổi của cháu, gặp nỗi bất hạnh thường phẫn chí mất hết niềm tin… Thôi được, cứ ở đây với bà mấy hôm. Cửa Phật là nơi thanh tĩnh sẽ làm nỗi đau của cháu dịu đi.

Sau bức thư đầu tiên, một năm rồi hai năm, Sa thấp thỏm chờ vẫn không có được tin của Thảo. Thôn Đáp Khê, cùng đợt đi B với anh đã  ba người báo tử. Các chị, các cô có người thân đi chiến đấu hễ gặp nhau lại thì thầm to nhỏ. Thỉnh thoảng một chiến sĩ khoác ba lô về là gần như cả làng đến hỏi thăm tin tức. May nhất là anh em thương binh. Thôi thì dù có què cụt chăng nữa cũng còn được về đoàn tụ với gia đình. Khổ hơn cả là những người vợ mòn mỏi chờ chồng hết năm này qua năm khác trong hy vọng mong manh, trong nỗi đớn đau vò xé con tim và trong niềm khắc khoải đến khôn cùng của chút kỷ niệm những ngày hạnh phúc ngắn ngủi bên nhau.

Rồi việc xảy ra đã xảy ra. Đúng vào dịp Quốc khánh 2 tháng 9, Hường đến nhà báo tin cho Sa, Thảo đã hy sinh ở chiến trường miền Tây. Giấy báo tử đơn vị gửi về tuần trước nhưng cô cứ nấn ná mãi hôm nay mới dám nói. Sa ngồi lặng như một pho tượng, mắt ngây dại nhìn Hường hoàn toàn vô cảm. Hường sợ lắm, ôm lấy vai Sa khẽ bảo:

– Chị khóc đi một tí cho nhẹ người…

Nhưng Sa làm sao khóc được nữa. Cô đã bao năm nhịn nhục nuốt nước mắt vào lòng để sống, và càng cố sống càng thấy cuộc đời lắm nỗi đắng cay. Những kẻ đểu giả bất chấp đạo lý, tha hồ làm điều ác vẫn sống nhởn nhơ và tự cho mình cái quyền được cười cợt trên sự đau khổ của đồng loại. Không hiếm người lương thiện, suy nghĩ và hành động theo chuẩn mực của những thang giá trị đạo đức, nhân văn, luôn thể hiện tinh thần công dân ở cấp độ cao nhất, vậy mà vẫn bị nỗi bất hạnh truy đuổi đến cùng. Thế thì sự công bằng từ xưa đến nay trong cộng đồng được xác lập dựa trên những tiêu chí nào? Sức mạnh bạo lực? Lòng nhân ái hay những hầu bao ních đầy tiền? Nhân loại, từ cả ngàn năm nay đã cố tìm câu trả lời, nhưng càng tìm bao nhiêu lại càng bế tắc bấy nhiêu. Nó là bản chất của đời sống cộng sinh, là vấn đề muôn thuở có tính tổng quát, chi phối toàn bộ hành vi con người.

[1] Mire: Một loại thước có chia vạch dùng để đo vẽ thực địa cùng với máy quang học

[2] Một loại lá cây thuốc có hoạt tính cao, chữa lành vết thương ngoài da.

This entry was posted in Văn and tagged . Bookmark the permalink.