Từ hình ảnh tới biểu tượng

Lê Hồ Quang

ĐÂY THÔN VĨ DẠ

Hàn Mặc Tử

Sao anh không về chơi thôn Vĩ

Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Gió theo lối gió, mây đường mây

Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay

Thuyền ai đậu bến sông trăng đó

Có chở trăng về kịp tối nay?

Mơ khách đường xa, khách đường xa

Áo em trắng quá, nhìn không ra

Ở đây sương khói mờ nhân ảnh

Ai biết tình ai có đậm đà? [1]

Rõ ràng có một thế giới thiên nhiên rất thực đã và đang tồn tại trong Đây thôn Vĩ Dạ. Đó là thế giới của "vườn ai mướt quá”, của “lá trúc che ngang” và  “thuyền ai đậu bến sông trăng đó”… đầy tình tứ. Một thế giới xôn xao của ánh sáng và sắc màu song vẫn gợi lên sắc thái cổ điển. Những  “nắng”, “vườn”, “con thuyền”, “vầng trăng” và “em”, tất cả tạo nên tập hợp hình ảnh cuộc đời sống động trong tâm trí Hàn Mặc Tử, khi ông, trong cảnh ngộ riêng bi kịch, bị gạt ra ngoài guồng quay của nó và chỉ có thể đứng từ xa để ngưỡng vọng và khao khát.

Hàn Mặc Tử đã tái hiện một không gian quá khứ tràn đầy ánh nắng. Đó là sự dồn nén của lớp lớp thời gian trong một khoảnh khắc, gợi nhớ thứ ánh sáng từng  phản chiếu rực rỡ kì lạ trong những bức vẽ ngoài trời của Claude Monet (Pháp). Tất cả đã trôi qua và tất cả cũng đã dừng lại trong khoảnh khắc kì diệu của nghệ thuật, nguyên vẹn và tinh khôi như  “thuở càn khôn mới dựng lên”. Không ngẫu nhiên mà tác giả  viết: “nắng hàng cau, nắng mới lên. Ta có thể đọc khác đi một chút: (đấy là) nắng hàng cau (và đấy là) nắng mới lên. Hai lần chữ “nắng” điệp lại, mở ra trong trong tâm trí của con người một không gian chan hoà ánh sáng. Từ một hình ảnh cụ thể, “nắng” đã trở thành biểu tượng đầy ám ảnh của quá khứ.

Biến những hình ảnh riêng lẻ, cảm tính thành những biểu tượng sâu xa, giàu sức gợi, đó là nghệ thuật diễn tả độc đáo trong Đây thôn Vĩ Dạ. Ở đây, hình ảnh được hiểu như là những dạng thức tạo hình cụ thể, sống động mà người ta có thể tri giác một cách trực tiếp. Hình tượng văn học, muốn đến được với độc giả, phải được "tạo hình" qua  chi tiết, hình ảnh, bởi xét đến cùng, chúng là những hiện tượng tinh thần. Phải hiểu được cái thế giới hình tượng được thiết lập nên từ những hình ảnh cụ thể đó, độc giả mới có thể khám phá, lí giải được các lớp nội dung hàm chứa trong tác phẩm. Có những hình ảnh chỉ mang ý nghĩa định danh, chúng gọi ra những ý niệm về sự vật đúng như vốn có trong thực tế. Nhưng có những hình ảnh, khi được đưa vào tác phẩm, theo cách tổ chức nào đó, chúng gợi lên vô số ý nghĩa rộng lớn và trừu tượng hơn, khác với cái nghĩa  thực tế, cụ thể ban đầu. Nói cách khác, những hình ảnh ấy trở thành cái vỏ vật chất ôm chứa nhiều lớp ý nghĩa mới, ngoài bản thân chúng, đó là những hình ảnh – biểu tượng. Có khi biểu tượng nằm sẵn trong ý đồ tác giả, nhưng phần lớn chúng nảy sinh  một cách ngẫu nhiên trong vô thức nghệ sĩ. Nói như Carl Gustav Jung, biểu tượng "là một hình ảnh thích hợp để chỉ ra đúng hơn cả cái bản chất ta mơ hồ nghi hoặc của tâm linh và nó không bó chặt gì hết, nó không cắt nghĩa, nó đưa ta ra bên ngoài chính nó đến một ý nghĩa còn nằm ở tận phía ngoài kia, không thể nắm bắt, được dự cảm một cách mơ hồ và không có từ nào trong ngôn ngữ của chúng ta có thể diễn đạt thoả đáng" [2].

Hàn Mặc Tử đã tạo nên một thôn Vĩ với những hình ảnh đầy mê đắm, ngay từ trong khổ đầu tiên:

Sao anh không về chơi thôn Vĩ?

Nhìn nắng hàng cau, nắng mới lên

Vườn ai mướt quá, xanh như ngọc

Lá trúc che ngang mặt chữ điền

Nỗi nhớ đã nhấc bổng tác giả lên khỏi mặt đất thực tại và cho phép ông sống lại kỉ niệm trong tột cùng cảm giác của mình. Nhờ sự nhập thân trọn vẹn ấy mà thôn Vĩ – lẽ ra phải được mô tả như những gì cũ càng trong quá khứ – lại hiện lên như những hình ảnh tươi mới nhất của hiện tại: Nắng hàng cau, nắng mới lên, vườn ai mướt quá, xanh như ngọc; lá trúc che ngang mặt chữ điền… Khu vườn ấy càng được chi tiết hoá, càng trở nên sống động và gợi cảm, càng khêu gợi trí tưởng tượng, càng khiến người ta nghĩ đến một cái gì đó, sâu hơn và xa hơn ý nghĩa hiển lộ ở bề mặt hình ảnh. Nói cách khác, tác giả càng mô tả “Vườn ai” một cách tỉ mỉ, kĩ lưỡng, thì vượt ra ngoài tầm kiểm soát của nhà thơ, ý nghĩa của nó càng bị “biến dạng” so với những hình ảnh thực tế ban đầu.

Trở lại với hoàn cảnh ra đời của bài thơ, ta nhận ra “Vườn ai" là một không gian ảo mộng tràn đầy ánh sáng và sắc xanh, trái ngược hoàn toàn với không gian hiện thực mà tác giả đang đối mặt. Sự đối lập ấy khiến không gian phi thực kia trở nên lung linh hơn, đồng thời khắc khoải và dằn vặt hơn. Đó là vẻ đẹp của một thiên đường đã mất trong mắt kẻ tội đồ. Đó là vườn mơ, bến mộng, niềm nhớ nhung đằng đẵng, về một hạnh phúc nguyên thuỷ. Hạnh phúc của nguồn trong trẻo mà loại người phải từ giã ra đi và bị cấm cản đường về” [3]. Cùng với tập hợp những hình ảnh đi kèm (nắng, hàng cau, lá trúc, mặt chữ điền…), “vườn ai”, trong sự lựa chọn của vô thức, đã trở thành biểu tượng cho “một cõi đi về” đầy nuối tiếc và khát khao trong thi sĩ.

Khổ thơ thứ hai xuất hiện khá nhiều hình ảnh: gió, mây, dòng nước, hoa bắp, dòng sông, con thuyền, vầng trăng… Nhà thơ đã bẻ rời những sự vật vốn gắn bó, đặt chúng trong các cụm từ có tính đối xứng, gợi cảm giác phân ly không thể cưỡng lại. Cũng vậy, hình ảnh thuyền, trăng, bến sông, trong hai dòng thơ cuối khổ sẽ là một vẻ đẹp thi ca hiền hòa, thơ mộng, nếu tác giả  không liên kết chúng bằng mốc thời gian “tối nay” và đặt giữa tổ hợp hình ảnh quen thuộc ấy từ “kịp” đầy nỗi niềm:

      Thuyền ai đậu bến sông trăng đó,

              Có chở trăng về kịp tối nay ?

  Cách viết bến sông trăng dễ gây ra sự nhập nhằng trong cách hiểu (bến sông hay là bến trăng ? dòng sông hay là dòng trăng ?). Song, cũng vì vậy mà nghĩa của thuyền, bến, sông, trăng… bỗng trở nên mờ nhòe, chúng tiết lộ mà che giấu và che giấu mà tiết lộ. Bên cạnh những hình ảnh giàu tính ẩn dụ ấy, hàm nghĩa “tối nay” bỗng trở nên chênh vênh, mơ hồ. “Tối nay” đâu chỉ là cái mốc thời gian để cho con thuyền chở trăng kịp về tới bến? Nó còn gợi ra cái giới hạn nghiệt ngã không thể tránh khỏi của đời người – Cái Chết. Câu thơ hàm chứa linh cảm khắc khoải của con người về cuộc đời, số phận, chứ đâu chỉ là những mơ mộng vô tư về sông nước! Vấn đề là, để đi đến những ý nghĩa rộng lớn và trừu tượng ấy, thi sĩ luôn phát xuất từ  hình ảnh cụ thể, để chúng “nói” với độc giả bằng thứ ngôn ngữ tự thân. Ma lực bí ẩn của những hình ảnh thơ này nằm ở chỗ chúng nhập nhoà giữa ranh giới chuyển vượt của cái đã biết và cái còn bị che giấu trong ý nghĩa chuyển tải.

Khổ thơ cuối ít những hình ảnh cụ thể hơn hẳn so với hai khổ trên, song kĩ thuật tạo độ nhoè đã được tận dụng triệt để. Điệp khúc “Mơ khách đường xa, khách đường xa” giống như tiếng vọng trong một giấc mơ. Sương khói “mờ nhân ảnh” dường như cũng là sương khói bao phủ giấc mơ. Cả màu “áo em trắng quá” cũng tựa như một ảo giác chập chờn (thực ra, đặt màu áo trắng trên cái nền khói sương kia cũng là một cách tạo thêm độ nhoè thị giác). Đặt không gian ấy, hình tượng em càng trở nên mơ hồ, hư ảo. Nhưng phải chăng đó mới chính là ý nghĩa đích thực của biểu tượng này? Em là hạnh phúc và tình yêu, và cũng như chính hạnh phúc và tình yêu, mong manh lắm thay!

Bài thơ chỉ 12 dòng nhưng có đến ba câu hỏi, phân đều cho ba khổ thơ. Câu hỏi đầu tiên thực chất là một lời tự vấn, tuy nhiên, tác giả đã mượn lời khách thể – cô gái thôn Vĩ – tạo nên một cái cớ rất thơ để nhập cuộc trọn vẹn  cảm xúc. Điều này giải thích vì sao  thôn Vĩ có thể hiện lên với một loạt chi tiết hết sức gợi cảm ở phía sau. Ở đây, câu hỏi đóng vai trò gợi mở kỉ niệm và “gọi dậy” hình ảnh nhờ quan hệ hô ứng của lời trao – đáp. Câu hỏi thứ hai nối kết những hình ảnh rời rạc ở bề mặt trong mối liên hệ ngầm, hé lộ một nội tâm đầy bất an. Chính câu hỏi này đã cho thấy sự hiện diện rõ hơn của chủ thể trữ tình (cho đến trước đó, anh ta vẫn còn giấu mặt sau những hình ảnh của thiên nhiên). Tuy nhiên, nỗi xúc động thực của tác giả vẫn bị che đậy khá kĩ lưỡng sau một loạt hình ảnh mơ hồ, bóng bẩy. Phải đến câu hỏi kết thúc, nỗi nấu nung buộc tác giả cầm bút mới thực sự lộ diện: Ai biết tình ai có đậm đà?

Càng ngày, cùng với những câu hỏi, tiếng nói chủ thể trữ tình càng vang lên mãnh liệt và xúc động hơn. Điều đó diễn ra song song với quá trình nhoè mờ của những hình ảnh tả thực. Đó là sự giằng co giữa tình cảm và lí trí. Tình cảm thì muốn thổ lộ, muốn giãi bày, nhưng lí trí thì ngại ngùng, gìn giữ; tình cảm thì muốn chọn con đường bộc bạch trực tiếp, nhưng lí trí lại mách bảo nên giấu mặt sau những hình ảnh gián tiếp; tình cảm thì chỉ muốn theo con đường ngắn nhất, nhưng lí trí lại đi đường vòng của những ẩn ngữ… Sự giằng co vô thức này cho thấy khá rõ kết cấu nội tại của thi phẩm.

Vừa là hình bóng của quá khứ êm đềm vừa là sự phản chiếu của hiện tại đau xót, đồng thời thức dậy tương lai với bao hoang mang thắc thỏm, Đây thôn Vĩ Dạ, nhìn rộng ra, là tiếng nói tinh thần của Hàn Mặc Tử, khi cận kề bên bờ vực cái chết, không ngừng hướng về cuộc đời, về tình yêu, trong tột cùng đau thương và hy vọng. Từ hình ảnh tới biểu tượng là kết quả của những thao tác chọn lựa và kết hợp ngôn ngữ nhằm tìm kiếm hình thức diễn tả phù hợp với tiếng nói nội tâm phức tạp của con người. Tất nhiên, như đã nói ở trên, quá trình thao tác ấy không chỉ được “vận hành” bởi hữu thức mà còn bởi vô thức. Điều đó mở ra những khoảng trắng bí ẩn trong tác phẩm, cho phép độc giả tiếp tục tìm kiếm những ý nghĩa mới.

Vinh, 7/ 2005


[1] Nhiều tác giả (1999), Thơ mới 1932-1945, tác giả và tác phẩm, Lại Nguyên Ân tập hợp và biên tập, Nxb Hội Nhà văn.

[2] Jean Chevalier, Alain Gheerbrant (2016), Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, (nhiều người dịch),  Nxb Đà Nẵng, Trường Viết văn Nguyễn Du, Hà Nội, trang XXIV – XXV.

[3] Lê Huy Bắc tuyển chọn và giới thiệu (2001), Thẩm bình tác phẩm văn học trong nhà trường (tập 3), Đây thôn Vĩ Dạ, Nxb Đại học Quốc gia Hà Nội, trang 128.

Comments are closed.