Mai An Nguyễn Anh Tuấn
(Tập Nhật ký – Tùy bút dành cho con gái)
Chương 7. MỘT NỀN PHẬT GIÁO SA ĐỌA VÀ HIỆN TƯỢNG HÀNH GIẢ MINH TUỆ
Ngày…
Con là người đầu tiên bố cho đọc bài này, trước khi đưa lên mấy trang Web văn chương có uy tín TIẾNG NÓI CỦA TRÍ THỨC VIỆT XƯA – NAY TRƯỚC SỰ SUY ĐỒI CỦA PHẬT GIÁO:
Những năm qua, công luận kêu ca phàn nàn nhiều về tình trạng khá suy đồi của sinh hoạt Tôn giáo – nổi bật ở đạo Phật Việt Nam – trước sự tàn phá thiên nhiên để xây dựng những khu Du lịch Tâm linh trá hình khủng nhằm lợi dụng Tôn giáo để kinh doanh… Và mới đây nhất, tràn ngập Mạng Xã hội là hình ảnh những con chim phóng sinh tội nghiệp bị nhốt trong lồng sắt để rồi sau đó ngắc ngoải trước cửa chùa, hình ảnh các vị sư đạo mạo mãn nguyện đặt tay lên đầu phụ nữ, trẻ em đang cúi rạp sát đất tựa Đức Chúa Trời ban phước lành, hình ảnh nhà sư ôm bát vàng đi “khất thực” song lại quơ tay vơ tiền cúng dường, v.v. cộng với hàng chục câu chuyện không hề bịa đặt về hành vi của không ít nhà tu hành Phật giáo hôm nay, cho thấy sự vi phạm hiển nhiên các giới luật nghiêm trang của Phật pháp kinh điển, như sinh hoạt xa hoa, ăn chơi trác táng, khuyến khích các hoạt động mang nặng chất kinh doanh trong các nơi thờ tự, kêu gọi người dân đừng đi du lịch & đừng tiêu tiền bất chính mà để dành cho cúng dường – xây chùa, như việc kiện cáo người dân đã xúc phạm cá nhân mình, v.v. Đáng thương thay, đáng buồn thay, khi một Đất Nước có truyền thống đạo Phật hàng ngàn năm giờ đây lại xuất hiện trong tâm tưởng người dân lương thiện không ít “sư hổ mang”, “ác tăng”!
Tình trạng Phật giáo hiện đại có gì thực giống với những thời đã khiến nhiều danh sĩ Việt Nam từng lên án sự suy đồi của Phật giáo. Như vua Lê Thánh Tông vốn là người có tình cảm sâu nặng với chùa chiền và Phật giáo, nhưng chính vì vậy ông càng cảm thấy phiền lòng và phẫn uất với sự sa đọa trong sinh hoạt Phật giáo một số tăng sãi. Truyện Hai ông Phật cãi nhau (Thánh Tông di thảo) là một trong cách tỏ thái độ phản ứng và phê phán tinh tế của một vị vua đã tạo nên thời đại Hồng Đức rực rỡ đối với một số ít phần tử chưa xứng đáng trong hàng ngũ tăng già lúc đó. Trước vua Lê Thánh Tông mấy thế kỷ, nhiều nhà nho vốn uyên thâm cả Phật lẫn Đạo cũng đã lên tiếng phê phán Phật giáo khi nó xa rời những yêu cầu cấp thiết của đời sống và Quốc gia mà sa vào thông tục; như lời tâu của nhà nho Đàm Dĩ Mông với vua Lý Cao Tông lên án Phật giáo làm bại hoại phong tục, phương hại giáo lý, sư sãi quá nhiều thoát ly lao động: “Hiện nay số sư sãi đã gần ngang với số phu dịch… (Bọn họ) tự kết bè lũ, lập càn thủ lĩnh, tụ họp thành bầy, làm nhiều việc xấu…”. Vì vậy vua đã “xuống chiếu thải bớt bọn nhà sư theo lời Đàm Dĩ Mông”[1].
Các thời sau đó, những nhà nho sử gia, văn nhân nổi tiếng như Lê Văn Hưu, Trương Hán Siêu, Lê Quát, Bùi Huy Bích, Phạm Nguyễn Du, v.v. chắc đều yêu quý và hiểu đạo Phật, song cũng vì hiểu và yêu nên các ông không chấp nhận được sự suy đồi, bê tha của một số người hoạt động trong Tôn giáo thiêng liêng này, chứ không chỉ vì bênh nho phỉ Phật vì lý tưởng quân chủ mà các ông đang phụng sự.
Xin trích dẫn Trương Hán Siêu trong bài ký Tháp Linh Tế núi Dục Thúy: “Ông Thích Ca lấy tam không mà đắc đạo, khi tịch rồi, người đời sau ít phụng Phật giáo mà chỉ làm mê hoặc chúng sinh. Thiên hạ có năm phần đất thì chùa chiền chiếm hết một phần, bỏ cả luân thường, hao phí của cải. Bọn sư sãi thì rông dài, người khờ dại thì vội vã tin theo…”. Người theo Phật thì “lũ lượt đi ở chùa, không cày mà có ăn, không dệt mà có mặc, thất phu thất phụ thường dời nhà cửa, bỏ xóm làng, theo gió cuốn”[2].
Trên văn bia chùa Khai Nghiêm, Trương Hán Siêu nhấn mạnh hơn: “một bọn giảo hoạt gian ngoan, mất hết cả bản ý khổ hạnh không hư, chỉ ham chiếm đoạt được vườn sinh cảnh đẹp, để nhà cửa lộng lẫy như vàng ngọc, tay chân đông đúc như rồng voi… Hiện nay Thánh triều muốn tuyên phong hóa nhà vua để chữa phong tục đồi bại, dị đoan đáng truất bỏ, thanh đạo nên phục hưng… Thế mà cứ bo bo lải nhải chuyện Phật, ta định lừa ai?”[3].
Lê Quát, trong văn bia chùa Thiên Phúc (Bắc Giang) cũng viết: “Từ trong kinh thành cho đến ngoài châu phủ, kể cả những nơi thôn cùng ngõ hẻm, không bảo mà người ta cũng cứ theo, không hẹn mà người ta cũng cứ tin; hễ nơi nào có nhà ở, là ắt có chùa chiền, bỏ rồi lại dựng, hỏng rồi lại sửa, số chuông trống lâu đài chiếm một nửa dân cư…”[4].
Xin lưu ý rằng: hầu hết những lời trên lại được khắc ngay trên những tấm bia ở các chùa, được các vị sư trụ trì các đời trân trọng, bảo quản! Điều đó chứng tỏ: những nhà tu hành chân chính cũng đồng tình với sự phê phán nghiêm khắc của các trí thức đối với những gì bất cập, hư hỏng của nội bộ tăng đoàn và sinh hoạt Phật giáo!
Những lời nhận xét – phê phán trên chứa đựng những sự thực hiển nhiên, lại dường như mang cả nhiệt huyết còn ấm nóng của các vị Tổ dòng Thiền Trúc Lâm Yên Tử – dòng đạo Phật nhập thế của nước Đại Việt được khơi nguồn và phát triển từ thời đại Lý-Trần oanh liệt. Tư tưởng thiền nhập thế đó phải chăng cũng là tư tưởng của Thiền sư Pháp Thuận từng khuyên Vua Lê Đại Hành: “Vô vi trên điện gác/ Chốn chốn tắt đao binh” (“Vô vi cư điện các – Xứ xứ tức đao binh”, Quốc tộ), của tư tưởng “Cư trần lạc đạo” được Phật hoàng Trần Nhân Tông nói rõ và đã thực hiện: “Ở đời vui đạo hãy tuỳ duyên; Đói cứ ăn no mệt ngủ liền; Của Báu trong nhà thôi tìm kiếm; Vô tâm trước cảnh hỏi chi Thiền”…
Thời nay, trước sự suy đồi của Phật giáo, trí thức Việt cũng đã có khá nhiều tiếng nói nghiêm khắc, chân tình – như các tác giả Chu Mộng Long, Dạ Ngân, Nguyễn Thế Khoa, Thái Hạo, v.v. Và đặc biệt có một “người trong cuộc” là Hòa thượng Thích Thông Lạc đã nhiều lần lên tiếng gay gắt, trực diện, cụ thể – tuy ông đã bị phản đối không ít từ chính trong nội bộ tăng đoàn Phật giáo, nhưng lại được sự đồng tình của nhiều nhà tu hành chân chính, của phần đông cư sĩ – Phật tử và công chúng rộng rãi. Chỉ cần đọc một đoạn trong bài Hỏi Đáp: NHỮNG TRÒ MÊ TÍN LỪA ĐẢO TRONG CÁC CHÙA, để thấy ông đã thẳng thắn vạch ra những vấn đề nóng bỏng tính thời sự và chân tình khuyên bảo các Tăng Ni – Phật tử:
“Hỏi: Trung tâm thành phố Hà Nội có một ngôi chùa, ở phố Bà Triệu, tại đây đã thực hiện di dân hai lần, tổng chi phí lên tới vài chục tỷ đồng, để cho nhà chùa được rộng rãi khang trang và riêng biệt… Quý sư ni ở đây hành đạo bằng pháp tụng kinh, gõ mõ, dâng sao, giải hạn… và đặc biệt vào khóa lễ đầu năm có làm một chiếc thuyền Bát Nhã bằng giấy để chở vong linh người chết về Tây phương, Niết Bàn… Vậy những việc làm trên của các sư ni có đem lại lợi ích gì cho Phật pháp, cho các sư ni và cho chúng sanh không ạ?
Đáp: Tụng kinh, gõ mõ, dâng sao, giải hạn, làm thuyền bát nhã bằng giấy để chở các vong linh về Tây phương, Niết Bàn, v.v., đó là những việc làm mê tín lừa đảo những tín đồ nhẹ dạ vì thương cha mẹ và những người thân nên bỏ tiền ra cúng để các sư cô ghi tên họ được đưa về Tây Phương Cực Lạc, đó là một việc làm mê tín lạc hậu nhất trong các kinh sách phát triển mà các sư cô thực hiện.
Những việc làm này là những việc phỉ báng Phật giáo, có mục đích tiêu diệt Phật giáo, thấy những việc làm này người có trí hiểu biết sẽ đánh giá Phật giáo là một loại tôn giáo mê tín, lừa đảo, tín đồ, do đó việc làm này không có lợi mà còn có hại cho Phật giáo rất lớn. Những việc làm này nó không có lợi ích cho con người khiến cho con người tiền mất tật mang chỉ có những người hành nghề bất chánh này là có lợi ích mà thôi.
Bằng chứng như trong thư đã nêu, các ni sư chỉ hành một cái nghề mê tín này mà nhà chùa có hằng tỷ bạc dám bỏ tiền ra di dân để nhà chùa được rộng rãi khang trang hơn. Cho nên không có cái nghề nào làm giàu dễ như làm nghề mê tín trong các chùa. Nghề mê tín là nghề bói khoa, chiêm tinh, cúng sao, giải hạn, xem ngày giờ tốt xấu dựng vợ gả chồng, làm nhà xây mồ mả, v.v.
Nghề mê tín là nghề cúng bái, tụng niệm, cầu siêu, cầu an, làm ma chay, làm tuần cúng vong, tiễn linh, mở cửa mả, đốt tiền vàng mã và nghề dán kho đụn, quần áo, mũ nón, v.v., đó là nghề lừa đảo lường gạt tín đồ Phật giaó. Kinh sách Nguyên Thủy không bao giờ đức Phật dạy, duy chỉ có kinh sách phát triển mới có dạy điều này mà thôi.
Người cư sĩ đệ tử của đức Phật phải có trí tuệ, phải xác nhận thấy biết những điều mê tín không lợi ích cho mình cho người, những điều phi lý mất công bằng, vô đạo đức thì nhất định không làm theo, hoàn toàn không để cho người khác lợi dụng mình, lừa đảo mình. Có như vậy mới làm sáng tỏ lại Phật giáo, mới đem lại nền đạo đức nhân bản không làm khổ mình khổ người…
Tóm lại, quý vị cư sĩ phải đề cao cảnh giác và thường nên tránh xa những giáo pháp trừu tượng, mê tín, cúng bái, cầu siêu, cầu an, bùa chú, thần thông, dù bất cứ những loại thần thông nào, chúng là những pháp môn lừa đảo chứ không có ích lợi gì cho ai cả, quý vị nên nhớ kỹ đừng để mắc lừa, tốn hao tiền bạc, công sức tu tập mà chẳng giải thoát gì, chỉ phí uổng công khó cho một đời tu mà thôi”[5].
Hoặc tâm sự của ông trong PHÁP MÔN NIỆM PHẬT: “Phải sống trong thực tế, đừng mơ mộng ảo huyền, toàn thứ bánh vẽ, thật sự không ích lợi gì cho kiếp sống hiện tại của con người các con ạ!”, hay là: “Những tu sĩ và cư sĩ Phật giáo đều là những bậc Thánh tăng, Thánh ni và Thánh cư sĩ. Vì thế trong đời sống hiện tại trên thế gian, hằng ngày quý vị phải biết cách thức sống đúng đạo đức nhân bản – nhân quả thì sự an vui hạnh phúc mới thực sự là chân thật. Do muốn biết cách thức sống đúng đạo đức nhân bản – nhân quả nên phải biết rõ ràng từng hành động thân, khẩu, ý của mình như thế nào đúng và như thế nào sai giới luật, sai giới luật là phạm giới. Sống đúng giới luật là sống đúng đức hạnh, sống đúng đức hạnh là sống thương yêu nhau, đem lại sự an vui cho nhau. Sống phi giới luật là sống vô đạo đức, sống vô đạo đức là sống đem khổ đau cho nhau, chẳng biết thương nhau”[6].
Những tiếng nói của trí thức Việt trung thực, nối tiếp truyền thống từ nhiều thế kỷ nhằm phê phán hoạt động Phật giáo – sự phê phán nghiêm khắc, chân tình để Phật giáo nói chung và ngôi chùa nói riêng cần trở lại linh thiêng và tiếp tục gần gũi với tâm hồn người dân Việt, kể từ thời Bắc thuộc, nói như cố GS. sử học Trần Quốc Vượng: “đạo Phật thấm vào lòng người dân Việt cổ như nước thấm vào lòng đất”, và “Phật giáo trở thành một tư tưởng dân tộc và tổ chức Phật giáo (tăng đoàn, cư sĩ, Phật tử) trở thành một lực lượng dân tộc”[7].
Hà Nội, 10/8/2022
https://vanviet.info/van-de-hom-nay/tieng-ni-cua-tr-thuc-viet-xua-nay-truoc-su-suy-doi-cua-phat-gio/
Ngày…
Con gái à, những ngày này, bố đã viết hai lá thư Kiến nghị:
- THƯ KIẾN NGHỊ (VỀ NHỮNG HOẠT ĐỘNG PHẢN GIÁO DỤC VÀ HỦY HOẠI PHẬT PHÁP)
Hà Nội, Ngày Nhà Báo Việt Nam, 21.6. 2024
Kính gửi:
– Ban Tuyên Giáo Trung ương
– Bộ Văn hóa, Thể thao & Du lịch
– Bộ Giáo dục & Đào tạo
– Ban Giáo dục Phật giáo Trung ương
Tôi là Mai An Nguyễn Anh Tuấn, một phụ huynh học sinh đang làm công tác văn hóa – giáo dục, xin khẩn cấp kính gửi tới các quý Cơ quan Kiến nghị sau đây:
Thời gian vừa qua, các buổi thuyết giảng về Phật pháp (hoặc mượn Phật pháp để giảng nhiều điều xa lạ với Phật pháp, phản Phật pháp), các thực hành mê tín dị đoan (đón xá lị tóc, gọi vong, trục vong, giải hạn), những trò diễn về tu hạnh Đầu đà, các thủ đoạn tinh vi và trắng trợn kêu gọi cúng dường, các khóa tu thường kỳ, Khóa tu mùa hè, v.v., tại các chùa Phật Quang, Ba Vàng… – đặc biệt nổi cộm là tại Khu Tâm linh Tôn giáo trá hình “đích danh thủ phạm” mang tên Ba Vàng – đã gây nên bao nỗi bức xúc, lo âu trên phạm vi toàn xã hội.
Triết lý và đạo hạnh “Từ, Bi, Hỷ, Xả” đã thấm vào hồn dân tộc ta tự cổ xưa cho tới hôm nay, như một thước đo của nhân phẩm. Xã hội ta, đang cố vượt lên bao hỗn độn để tồn tại và phát triển, cũng chỉ là để bảo lưu gìn giữ sức mạnh Tình thương – cái gốc của “Từ, Bi, Hỷ, Xả” đó. Thế nhưng, qua rất nhiều hình ảnh & lời phát ngôn của các vị tu hành có “máu mặt” ở các cơ sở nói trên, “Từ, Bi, Hỷ, Xả” cần có, vốn có của đạo Phật dường đã bay biến đâu hết, còn lại trần trụi là sự trục lợi trắng trợn, đã chà đạp lên không chỉ giới luật kinh điển mà cả Tình thương giữa con người với con người…
Nhiều bài viết, nhiều hình ảnh vừa qua được cộng đồng mạng sưu tầm đã phơi bày tận đáy bản chất của những kẻ giả tu hành, mượn áo Phật để ngang nhiên phỉ báng bản chất Từ Bi thiêng liêng của Đạo Phật! Vậy là, Đạo Phật Việt đã rơi vào cái thời mà “Từ, Bi, Hỷ, Xả” chỉ còn là câ u kinh đầu lưỡi của những kẻ đang sống trong nhung lụa và trơ tráo “vét máu mỡ của dân” – như danh sĩ xưa kia nói về hiện trạng Phật giáo suy đồi! (Lê Văn Hưu – Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Nxb Thời Đại, 2013, tr. 161).
Biết bao sự phản đối mạnh mẽ gay gắt từ các giới nhà giáo, nhà báo, văn nghệ sĩ, các bậc phụ huynh ở nhiều địa phương! Nhà văn Văn Giá thống thiết kêu gọi: “Hãy khẩn thiết cứu lấy trẻ thơ của chúng ta”, nhà giáo Thái Hạo cảnh báo: “Gieo rắc nỗi sợ hãi ma quỷ, cài cắm vào đầu thế hệ trẻ những ý nghĩ hoang đường, hình thành tâm lý nô lệ và quy phục thần quyền, chỉ biết lễ lạy, cúng dường và hối lộ âm binh, đó là các hành động công nhiên chống lại mục tiêu của nền giáo dục, hủy hoại nhân cách và làm méo mó các giá trị nền tảng”.
Tôi từng được nghe một vị Hòa thượng dạy rằng, Phật giáo có năm cấp: cấp thứ nhất là Phật giáo đại chúng, cấp thứ hai là Phật giáo học thuật, cấp thứ ba là Phật giáo tổ chức, cấp thứ tư là Phật giáo thực nghiệm, cấp thứ năm là Phật giáo chứng ngộ.
Như vậy là, việc giảng dạy về Phật pháp & Phật học cho tăng ni – Phật tử nằm trong cấp thứ hai, một Phật sự quan trọng trong mọi hoạt động của Giáo hội, đã được Giáo hội Phật giáo Việt Nam hết sức coi trọng suốt mấy chục năm qua. Giữa tháng 5.2012, Ban Giáo dục Tăng Ni Trung ương đã tổ chức Hội thảo khoa học lớn đầu tiên của Phật giáo Việt: “Giáo dục Phật giáo Việt Nam – Định hướng và phát triển”. Hàng chục bản tham luận đầy tâm huyết và công phu của các nhà nghiên cứu Phật học, Tiến sĩ khoa học… được tập hợp lại trong cuốn kỷ yếu dày hơn 600 trang in khổ lớn có thể nói đã đặt những nền tảng quan trọng nhất cho Giáo dục Phật giáo, đặc biệt là giáo dục Phật giáo cho thế hệ trẻ, để “Ở chốn Thiền môn, họ không còn ảnh hưởng bởi thói hư tật xấu, những trò lố làm đạo đức con người suy đồi. Họ sẽ được dạy những điều cơ bản nhất để hoàn thiện một con người có ích cho xã hội, gạt bỏ đi những Tham Sân Si đang ngự trị trong tâm trí họ” (“Tầm quan trọng của Phật giáo trong Giáo dục quốc dân”. Thích Quán Như. Sách: Giáo dục Phật giáo Việt Nam – Định hướng và phát triển, Nxb Tôn Giáo 2012, tr. 481).
Vậy mà, xin hãy xem lại những clip chân thực mô tả các lời giảng của ông Thích Trúc Thái Minh, bà Phạm Thị Yến (cần kể cả ông Thích Chân Quang và vài vị sư khác) tại các lớp học Phật pháp, các Khóa tu…, thấy rõ các vị này đã toàn dùng những xàm ngôn cùng những thứ rác văn hóa có khả năng đầu độc tâm hồn Phật tử và trẻ thơ – những điều chỉ có tác dụng khuyến khích, dụ dỗ, kích thích “thói hư tật xấu, những trò lố làm đạo đức con người suy đồi” mà thôi!
Trong cuốn sách The Quantum and the Lotus (Lượng tử và Hoa sen) ghi lại cuộc đối thoại thú vị giữa tiến sĩ Matthieu Ricard – một thiền sư Phật Giáo Tây Tạng và giáo sư Trịnh Xuân Thuận – giáo sư vật lý thiên văn xuất thân từ một gia đình Phật Giáo, hai tác giả này đã trân trọng nhắc đến một luận điểm cơ bản của Einstein về cái được gọi là Tình yêu bao trùm trong “hành trình giác ngộ Phật giáo”, sẽ giúp Phật tử thoát khỏi “ảo giác của ý thức” cá nhân hạn hẹp, giống một loại tù ngục nội tâm – như sau: “Nhiệm vụ của chúng ta là phải tự giải thoát khỏi tù ngục này bằng cách mở rộng phạm vi thương cảm của chúng ta để ôm lấy mọi tạo vật và toàn bộ vẻ đẹp của nó” (Lượng tử và Hoa sen, Lưu Văn Hy dịch, Nxb Tổng hợp TP. HCM, 2005, tr. 99). Ở cuối cuốn sách trên, hai tác giả còn nói đến cái “Từ tâm” này, khi kết hợp với các bản Kinh Phật thì sẽ có thể “làm tan chảy quặng trong tâm trí chúng ta, phóng thích vàng của bản chất cơ bản” – tức là làm cho đạo Phật trở thành một thứ Tôn giáo như nhà bác học Einstein nói: “có thể đương đầu với những nhu cầu của khoa học hiện đại đấy sẽ là Đạo Phật”.
Và “những nhu cầu của khoa học hiện đại” đó lại xuất phát từ một điều rất giản dị, song lại cốt tử với đạo Phật mà hiện nay rất nhiều bài thuyết giảng về đạo Phật tại các chùa lớn đã cố tình bỏ qua: “Với từ tâm, người ta có mọi giáo huấn/ Không từ tâm, người ta chẳng có giáo huấn nào” (Shabkar, ẩn sĩ Tây Tạng). Chỉ cần lấy một luận điểm Từ tâm này làm cơ sở, mọi người sẽ nhận ra hầu hết những bài thuyết giảng ở chùa Ba Vàng và một số nơi khác cho Phật tử và các Khóa sinh đều xuất phát từ “dục lạc” cá nhân ích kỷ, không những phản lại triết lý Phật giáo mà còn đi ngược lại tất cả những giá trị nhân văn cốt lõi…
Không hiểu sao, các hoạt động phản giáo dục và góp phần hủy hoại Phật pháp khủng khiếp như thế mà vẫn duy trì được suốt trong nhiều năm qua, làm mê hoặc hàng ngàn hàng vạn phụ huynh học sinh, có thể sai khiến được cả Đài Truyền hình Quốc gia quảng bá cho về một Khóa tu phản giáo dục sau khi nó đã bị phê phán nhiều trên công luận?! Dù ông Thích Chân Quang đã bị cấm thuyết giảng trong hai năm, dù chùa Ba Vàng bị dừng tuyển sinh Khóa tu 2024, song công chúng không bằng lòng với hình thức tạm bợ có tính chất “xì bớt” hơi như thế, mà cần có sự tranh tra toàn diện đi tới kết luận chính xác, công bằng về những gì phản giáo dục và phá hoại Đạo pháp của họ trong một thời gian dài!
Đạo Phật không có phép lạ. Vậy thì toàn thể những công dân lương thiện chúng tôi chỉ còn trông mong vào tính nghiêm minh của Pháp luật, vào đòi hỏi về Mục tiêu Giáo dục Công dân nói chung và Giáo dục Phật giáo nói riêng trong hoạt động Phật giáo, mà các quý vị đang thay mặt Nhà nước chịu trách nhiệm quản lý! Và nhà khoa học Nguyễn Văn Phước đã có kiến nghị cụ thể nhằm lấy lại sự trong sạch của Phật giáo Việt Nam: “Đã đến lúc Giáo hội Phật giáo Việt Nam phải làm cuộc thanh lọc thật nghiêm túc: rà soát, xem xét thật kỹ lưỡng từ trên xuống, mạnh dạn loại hẳn bất kỳ cá nhân nào đã gây tai tiếng rất xấu cho Phật Giáo nước nhà. Đó là yêu cầu và khát vọng của toàn dân Việt Nam!”.
https://vanviet.info/van-de-hom-nay/thu-kien-nghi-cua-mai-an-nguyen-anh-tuan-2/
- THƯ KIẾN NGHỊ
Hà Nội 1/6/2024
Kính gửi Hội đồng Chứng minh và Hội đồng Trị sự Giáo hội Phật giáo Việt Nam.
Kính thưa các vị Pháp chủ, Đại lão Hòa thượng tôn quý!
Tôi là người hoạt động trong ngành điện ảnh xin khẩn thiết gửi tới các quý ngài đôi kiến nghị chân thành sau đây:
Thời gian qua, rất nhiều biểu hiện tiêu cực trong sinh hoạt Phật giáo và ở một số vị tu hành có chức sắc khiến cho hình ảnh Phật giáo vốn thiêng liêng trong lòng người dân Việt từ hàng ngàn năm qua trở nên nhem nhuốc, đáng xấu hổ… Giọt nước làm tràn cốc nước là một nữ Phật tử tên là Angela Phương Trinh, lợi dụng tên tuổi cá nhân đã nhiều lần thông tin sai sự thật với ngôn từ nặng nề quy chụp, hạ thấp uy tín của một số cá nhân, tổ chức, xúc phạm tôn giáo khác. Điều đáng phẫn nộ là Angela Phương Trinh liên tục gọi những người có quan điểm trái ngược là “giặc”, làm “truyền thông bẩn”, cho rằng họ đang “phá hoại, lật đổ Phật giáo”, chỉ vì cô này bênh vực một người có tên Vương Tấn Việt, pháp danh Thích Chân Quang Trụ trì chùa Phật Quang. Đó là vị sư mới đây đã giảng pháp theo lối chánh tà lẫn lộn, đòi Phật tử chỉ được nghe pháp của sư phụ thôi, phải trung thành tuyệt đối với sư phụ, với chùa, khiến một cơ quan phát ngôn của Phật giáo đã phải thốt lên “Sợ hãi với “lời phát nguyện trung thành tuyệt đối!” (Giác Ngộ Online). Mấy năm nay, ông Thích Chân Quang, cùng với mấy vị tu hành có chức sắc khác đã là “đầu nậu” của những khu Du lịch Tâm linh trá hình nhằm lợi dụng Tôn giáo để kinh doanh ; đã công khai bộc lộ sự chà đạp Giới luật kinh điển, tự tiện sửa đổi Giới luật phục vụ lợi ích nhóm tăng lữ giàu có; ngang nhiên tuyên truyền mê tín dị đoan; kêu gọi (và đe dọa) cúng dường; cổ vũ và trực tiếp tham gia cuộc sống tôn sùng vật dục, tà dâm (mà xưa kia Đức vua Phật hoàng Trần Nhân Tông gọi là “dâm từ”, “dâm thần”, và cụ đã phải chống gậy vất vả đi khắp nơi để phá bỏ các “dâm từ” đồng thời khuyến hóa dân tu Thập Thiện)… Cái bối cảnh sinh hoạt Phật giáo hiện đại này khiến mọi người nhớ lại lời than thở của sử gia Lê Văn Hưu trước sự “tiêu phí của cải, nhân tài, vật lực của trăm họ” của giới “môn đồ đạo Phật” đông đảo: “khơi vét máu mỡ của dân mà có thể gọi là làm phước được ư?” (theo Toàn tập Trần Nhân Tông, Lê Mạnh Thát, Nxb Phương Đông, Hà Nội, 2010, tr. 298). Còn Danh nhân văn hóa lớn đời Trần Trương Hán Siêu cũng đã nói về “Bọn sư sãi rông dài” trên văn bia chùa Khai Nghiêm như sau: “một bọn giảo hoạt gian ngoan, mất hết cả bản ý khổ hạnh không hư, chỉ ham chiếm đoạt được vườn sinh cảnh đẹp, để nhà cửa lộng lẫy như vàng ngọc, tay chân đông đúc như rồng voi…” (Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1972, tr. 156). Ngày nay, trong những cuộc giảng đạo-cúng dường tại các khu “kinh doanh” Phật giáo to lớn, các vị đó đã xuất hiện như Phật tái thế, quần áo bóng bẩy, tươi tắn như hoa sen đầu mùa, làm mê say hàng ngàn Phật tử bằng các lời dụ dỗ sặc mùi kim tiền, không cần che giấu tô vẽ gì hết các sự tuyên truyền mê tín hoàn toàn xa lạ với những “Lời Phật dạy” từng được nhiều Hòa thượng, nhà Phật học nước ta đã đúc kết…
Những hành động và phát ngôn của các vị tu hành nói trên đã trái ngược hoàn toàn với tôn chỉ của Giáo hội Phật giáo Việt Nam là: “Đạo pháp, Dân tộc và Chủ nghĩa Xã hội”, đã khiến “công trình kể biết mấy mươi” của bao thế hệ Thiền sư – nhà tu hành đạo Phật chân chính Việt Nam đứng trước nguy cơ đổ vỡ đau đớn! Những người làm điện ảnh chúng tôi đã say mê ngưỡng vọng cuộc đời và đạo hạnh của các thiền sư Khương Tăng Hội, Thiền sư Không Lộ, Thiền sư Từ Đạo Hạnh, Thiền sư Vạn Hạnh, Thiền sư Thường Chiếu, Phật hoàng Trần Nhân Tông, Thiền sư Liễu Quán, Hoà thượng Thích Quảng Đức, Hòa thượng Tố Liên, Thiền sư Tuệ Sỹ, Hòa thượng Thích Thông Lạc, Thiền sư Thích Nhất Hạnh… Có thể nói đó cũng là các danh nhân văn hóa mà mọi phú quý danh lợi trên cõi tạm này chỉ là phù vân, đang là nguồn cảm hứng sáng tạo không bao giờ vơi cạn của những người hoạt động văn học nghệ thuật Việt Nam hiện đại!
Sự kiện Hành giả Minh Tuệ đang khiến dư luận xã hội xôn xao cũng là đối tượng tìm hiểu, nghiên cứu và khai thác cho sáng tác điện ảnh. Với cái nhìn thâm sâu đượm từ bi Phật giáo của các quý ngài – tiêu biểu là sư Thích Minh Đạo, vị trụ trì Tu viện Minh Đạo tại tỉnh Bà Rịa-Vũng Tàu, anh em điện ảnh chúng tôi có thêm góc nhìn chuẩn xác hơn về Phật pháp nguyên thủy – qua bước chân hành giả Minh Tuệ, người đã tu theo hạnh Đầu đà của chính “Trúc Lâm Đầu đà”, “Hương Vân Đại Đầu đà” – Đức Vua Phật hoàng Trần Nhân Tông… Điều đó cũng góp phần lý giải hiện tượng hàng trăm hàng ngàn nam nữ Phật tử già trẻ từ các đường phố, làng quê ùa ra đón đợi, quét dọn đường, có người từ ruộng còn vấy bùn đi lên, họ cầm theo những đồ ăn thức uống bình dân kính dâng cho vị Hành giả Khất sĩ chân đất và gần hai chục vị tòng tu đang chăm chú vượt qua bao chặng đường mưa nắng… Đó chính là một sự bừng tỉnh, một sự “giác ngộ” mới mẻ chưa từng có về Đạo Phật Việt như một dòng chảy ngầm tinh khiết suốt mấy ngàn năm qua…
Vì vậy, trước tiên, tôi xin được nhắc lại kiến nghị với Giáo hội của một Phật tử thuần thành trước những phát ngôn – giảng pháp trái Đạo của ông Thích Chân Quang: “Cần có biện pháp chế tài thật nghiêm khắc để đúng với tôn chỉ “Trang nghiêm giáo hội”! Thời gian qua, đối với các trường hợp thuyết giảng sai chánh pháp, Giáo hội chỉ mới nhắc nhở, như vậy chưa đủ nghiêm khắc, trái lại còn làm họ khinh nhờn!” (Giác Ngộ Online).
Tiếp theo lời kiến nghị trên, chúng tôi xin chân thành kiến nghị với Giáo hội Phật giáo Việt Nam:
- Rà soát lại và tiến tới có quyết định nghiêm khắc nhằm chấm dứt tất cả các hoạt động Tôn giáo mang bóng dáng kinh doanh trục lợi.
- Kiểm điểm một cách nghiêm túc các phát ngôn & hành động trái với Đạo pháp và trái với luật pháp của các ông Thích Trúc Thái Minh, Thích Chân Quang… Và đưa ra công khai – ít nhất là trong nội bộ Tăng đoàn và Phật tử.
- Kết hợp với các cơ quan nghiên cứu Tôn giáo, tổ chức phi chính phủ về Tôn giáo, với ngành Giáo dục… một cách chặt chẽ nhằm đưa những nhận thức chuẩn xác nhất, hệ thống nhất về Phật giáo Việt Nam từ cổ xưa cho tới hôm nay, nhằm giáo dục lòng tự hào Dân tộc… Cụ thể, như hiện tượng Hành giả Minh Tuệ đã/ đang tu tập theo pháp khổ hạnh của Phật giáo nguyên thủy, thì Giáo hội rất cần có tiếng nói chính thức, chính thống để minh định trước công chúng Tăng Ni – Phật tử cũng như công chúng xã hội…
Tôi tin rằng: Mấy điều kiến nghị khiêm nhường này cũng là mong mỏi của số đông người dân Việt lương thiện đương hàng ngày hy vọng, tha thiết tin tưởng ở sự “hoàn nguyên” của đạo Phật Việt sau bao sóng gió bất ổn vừa qua, để Đạo Phật Việt Nam tiếp tục hòa nhập rạng rỡ với Đạo Phật thế giới…
Trân trọng!
Thay mặt một số nghệ sĩ điện ảnh:
Đạo diễn điện ảnh, nhà báo Mai An Nguyễn Anh Tuấn
https://boxitvn.blogspot.com/2024/06/thu-kien-nghi.html
Ngày…
Năm con bước vào trường Đại học Xã hội & Nhân văn, có một câu chuyện về Phật giáo liên quan đến tuổi thơ của con, và bố đã viết thành truyện ngắn khá buồn, trong đó có sử dụng bức thư dài rất cảm động của con viết năm lớp 7. Nhưng chẳng báo nào dám in, dù bố đã thay tên nhân vật và dán là “Truyện ngắn” cho nó “lành”. Dường như có một sự cấm kỵ, một “vòng kim cô” nào đó trong lĩnh vực báo chí “chính thống” (báo hình báo viết) cũng như văn chương “chính thống”, đó là: Không được đả động tới đề tài về Phật giáo hôm nay qua bao hình ảnh nham nhở đáng xấu hổ về các “sàm tăng”, qua nhiều cơ sở Kinh doanh tôn giáo bất lương và nguy hiểm đội lốt chùa khủng đang hủy hoại Phật giáo Việt tận nền tảng và làm tha hóa bao thế hệ tăng – ni, Phật tử trẻ… mặc dù công luận đã lên án, mặc dù Trung ương Giáo hội đã có những quyết định kỷ luật công khai hợp lòng người… Bố có lần mạo phạm hỏi: Vậy là sao ạ, thưa các nhà văn nhà thơ đang ôm mộng đoạt giải Nobel, thưa các nhà báo đương chăm chăm với giải thưởng Pulitzer…? Bố là kẻ viết nghiệp dư khi chưa làm phim đành liều mình “phạm húy” điều cấm kỵ trên bằng đôi ba bài viết, trong đó có truyện NI CÔ VÀ NỮ SINH VIÊN, mới đây được một trang văn chương bên Pháp đăng tải. Bố xin được trích đoạn nguyên văn bức thư dài của con mà bố chỉ sửa chút về chính tả:
“… Làm dâu, làm vợ, sống với những con người vị kỷ chỉ biết đặt đồng tiền lên tất thảy, những kẻ mà lòng ham muốn vật chất làm mờ mịt lương tri, cuộc đời “mẹ” đã rơi vào bế tắc thê thảm, không lối thoát. Bản thân tôi lúc ấy, dù mới là một đứa trẻ lên 6, cũng đã cảm nhận được phần nào sự vô tâm của người chồng và sự nghiệt ngã của mẹ chồng đối với “mẹ”… Thế rồi chuỗi ngày xót xa ấy đã kết thúc với sự ra đi đau đớn của người mà “mẹ” gọi là chồng, nó giống như cái kim đâm sâu vào trái tim “mẹ“. Và “mẹ” quyết định tìm đến nơi cửa Phật, sống một cuộc sống khép kín và chuyên tâm cho việc tu hành, cầu nguyện… Ngày “mẹ” đi, bây giờ hồi tưởng lại, bao phủ lòng tôi lúc ấy là sự tiếc nuối, buồn bã. Tôi vẫn còn nhờ hình ảnh cuối về “mẹ”: loay hoay gửi cho mẹ của tôi giữ hộ số tiền nhỏ nhặn còn lại mà “mẹ” tiết kiệm trong mấy năm qua, những đồng tiền lẻ nhàu nát như nhiều lần “mẹ” đã gửi mẹ tôi, và gửi lời chào tới gia đình tôi trước khi bước vào con đường mà “mẹ” đã chọn…”
Và phần kết truyện:
“Sau khi xuống tóc, Thơm được mang pháp danh Tuệ Minh tại một ngôi chùa quê. Mấy năm sau, cô lọt vào “mắt xanh” của một vị cao tăng, và được ưu tiên “tuyển chọn” vào một ngôi chùa lớn mà dư âm của các đại tiệc ăn mừng chúc tụng Lễ khánh thành – khánh an ngôi đại tự kiêm khu du lịch văn hóa Tâm linh khủng sẽ còn làm mê mẩn các sư sãi, Phật tử toàn vùng nhiều năm tháng sau nữa… Chẳng hiểu là may hoặc không may, cái pháp danh mới kia đã vận vào số phận ni cô, Thơm nhanh chóng thấy lạc lõng giữa môi trường mà cô nghĩ là Thiền lặng, Thanh cao này. Bởi hàng ngày cô được chứng kiến không ít vị đại sư cô hằng ngưỡng vọng chỉ hăng hái, mê mải bàn cách kiếm thật nhiều tiền từ khách thập phương và các Phật tử nghèo trong vùng, bằng đủ các kiểu cách tên kêu như chuông mõ: “Dâng sao giải hạn”, “Cúng sao La Hầu”, “Cúng Âm hồn”, “Cúng oan gia trái chủ”, “Thỉnh vong giải oán”, “Cúng dường qua bát vàng”, v,v, thậm chí bằng các lễ Lên đồng vài chục giá mấy trăm triệu đồng ở ngay giữa chùa… Những từ ngữ của dân buôn bán, cờ bạc mà cô từng quen thời làm vợ, giờ được nghe lại, với mật độ dày đặc từ miệng những người cô trọng vọng tôn kính làm sư phụ – như: “Không khéo lỗ chổng vó”, “Lãi to rồi”, “Lãi nhảy cẫng lên được”, “Tao sẽ khiến cho nó phải mạt vận”, “Kiện cho nó chết sặc tiết đi”, “Lên tới chức ấy rồi mà còn tham như chó”… Những lời khuyên của Đạo Phật đối với người tu hành về tinh thần Lục hòa (6 điều hòa hợp) mà ni cô được thuyết pháp, như Thân hòa đồng trụ, Giới hòa đồng tu, Khẩu hòa vô tranh, Ý hòa đồng duyệt, Kiến hoà đồng giải, Lợi hòa đồng quân, thì cô tận mắt tận tai thấy nhiều đồng đạo và không ít bậc được gọi là “chân tu” đã ngang nhiên giẫm đạp lên mà không hề thấy ăn năn, xấu hổ. Hàng ngày – nhất là vào dịp Rằm, các ngày Lễ Phật, nhìn những đám đông chen chúc, giẫm đạp lên nhau len vào chùa với những lời niệm cầu thực dụng chướng tai và thô bỉ trên những khuôn mặt thành kính, đờ đẫn, ni cô đã nhiều lần thấy buồn nôn. Cô ngày một chán nản với Kinh Kệ, với các Phật sự; còn các nhà lãnh đạo Khu Tâm linh trong đó có trụ trì chùa đã lợi dụng sự xinh đẹp và thon thả của cô, thường xuyên dụ khéo cô vào làm vai Tiên nữ trong các hoạt cảnh mô phỏng truyện thần bí huyền ảo có khói tạo mây thiên cảnh hoặc địa ngục nhằm lôi kéo ngày một đông dân chúng lắm tiền, rỗi việc đến chùa để thưởng lãm và móc túi để cầu Phật. Cũng có đôi lần, ni cô bị dụ vào một phòng kín để người ta hòng giở trò đồi bại, song cô đều khéo léo viện cớ gặp ngày “mình bẩn” từ chối được. Nhưng cô lo lắng: không biết mình sẽ có thể tiếp tục từ chối được nữa hay không? Dù cô chưa hết “mùi trần”, song khi đã quyết lánh xa bụi đời, cô càng cảm thấy ghê sợ cái chuyện tục tĩu mà mẹ chồng cô đã làm, nhất là tại nơi vẫn được coi là linh thiêng…
Thế là cô gái hàng xóm năm nào của tôi, bà quả phụ mà con gái tôi âu yếm gọi là “Mẹ nuôi” quyết trở thành ni cô rồi ni sư để thoát khỏi một tầng địa ngục này để rơi vào một tầng địa ngục khác, sâu hơn, dữ dằn hơn, dĩ nhiên là nhiều quỷ sứ hơn!”
Con đọc cả truyện trên: https://vietvanmoi.fr/index3.9226.html
Ngày…
Từ chục năm trước, khi bố bắt đầu nghiền ngẫm kịch bản điện ảnh “Vua Phật Trần Nhân Tông” đã mơ thấy Ngài tâm sự & dạy bảo: Thời buổi này, bị thống trị bởi những Mafia đủ loại, để giữ được một tâm hồn trong veo như giọt sương sớm đọng trên đầu ngọn cỏ – như thơ thiền sư Vạn Hạnh, thì thực khó khăn… Nhưng chính đó là Giọt sương có tác dụng tựa nước Cam lồ, như cành dương Phật pháp nhiệm màu xóa đi bụi bẩn, nỗi buồn đau trần thế… Hình như trong Bản nguyên sâu xa của đạo Phật có mong mỏi dẫn dắt con người trở về bản tính trẻ thơ, trong lành tinh khôi mà hiện đang bị khuấy đục ngầu bởi tham vọng ích kỷ thậm chí thấm máu của không ít kẻ có vẻ đạo mạo bên ngoài… Ý nguyện sâu xa của Vua Phật là những gì ấp ủ của ngài về Vận Dân Vận Nước cùng vẻ đẹp thật sự của Nhân tính cần đến được nơi thôn cùng xóm vắng… Ngài đã làm điều đó bằng thơ, phú, văn kệ, nhạc, lời giảng đạo, và mong các thế hệ sau – cho tới hôm nay, tiếp tục công việc khuyến thiện, khuyến đạo của ngài bằng tiếng nói đi vào trái tim người khác – tiếng nói của nghệ thuật…
Xung quanh câu chuyện về Hành giả Minh Tuệ, bố đã viết nhiều bài ngắn – dài làm cơ sở để xây dựng một bộ phim điện ảnh, bắt đầu bằng pháp tu của Vua Phật Trần Nhân Tông:
TU HẠNH ĐẦU ĐÀ CỦA SƯ MINH TUỆ CHÍNH LÀ PHÁP TU CỦA PHẬT HOÀNG TRẦN NHÂN TÔNG
Hơn 10 năm trước tôi có viết một truyện lịch sử (cơ sở ban đầu của một truyện phim) về Đức Phật hoàng Trần Nhân Tông, với tham vọng lý giải nguyên nhân Đức Điều ngự Giác hoàng rời ngôi vua lên Yên Tử tu hành – và ông đã tu theo hạnh Đầu đà với tâm niệm thường trực “Muôn nghiệp lặng, an nhàn thể tính”, nên được gọi là “Trúc lâm Đầu đà”, “Hương Vân Đại Đầu đà”…
Lúc đó, thông tin ít ỏi, tôi đã tra cứu trong bộ Từ điển Phật học thì thấy viết: “Tu hạnh Đầu đà là tu theo các công thức: ở nơi hoang vắng, ăn ít, ăn một bữa, mặc áo rộng, luôn ngồi chẳng nằm…”
Kết hợp với trước tác của Trần Nhân Tông để lại, cùng những nghiên cứu về ông, tôi thấy tu hạnh Đầu đà – đặc biệt với Trần Nhân Tông là tu theo tư tưởng trọng đạo nghĩa, lánh thị phi, ghê thanh sắc, sống cuộc đời thanh đạm, nhàn tản vô vi… (Cư trần lạc đạo phú). Đó cũng là những điều mà hành giả – khất sĩ Thích Minh Tuệ đang thực thi trên những nẻo đường Đất nước, giữa khi đạo Phật Việt thời hiện đại có nhiều dấu hiệu khủng hoảng, hỗn độn!
Truyện này lúc đầu có tên Dưới bóng chùa quê, sau đổi là Bóng thiền, đã in báo Văn nghệ số 19 – 2013, tạp chí Văn hiến Việt Nam, và trang web vanchuongviet.org cũng năm đó.
Đoạn kết truyện Bóng thiền:
“…Là một hoàng đế – thi sĩ, ngài đã chứng kiến và ca ngợi bao vẻ đẹp của thiên nhiên, đặc biệt là nơi thôn trang vùng Thiên Trường. Ngài cũng quá quen thuộc với những cung nữ son phấn, trang điểm từ gót tới đầu, học đi đứng khuê các… Song tận mắt ngài chưa bao giờ được thấy một vẻ đẹp thôn nữ đượm phù sa chân chất, không trâm cài, không vòng ngọc, không điệu đàng mà lại khiến thi hứng dào dạt như bây giờ. Chỉ có điều, đó không phải là thi hứng của một thái tử đang thời kỳ yêu đương và nghiền ngẫm đạo lý, binh thư, hay của một ông vua trẻ khoác chiến bào sạm bụi khói.
Này con, người xưa đã không muốn dẫm lên vết chân đức Như Lai thì con hãy tránh dẫm lên vết chân của những kẻ giả tu hành, giả Phật, thậm chí họ còn không biết là giả nữa bởi món ăn của kẻ ngoại lai giàu tham vọng thường làm mê muội nhiều thế kỷ.
Họ mờ mịt như kẻ quay mặt vào tường, con đừng quan tâm đến họ.
Con hãy làm Phật trên mảnh đất cấy cày phủ sương đêm, trong ruộng dâu tằm ngút ngát, nơi bến sông trăng đập vải, và cùng lắm hẵng làm Phật dưới Tam Quan
Dù con có là ai thì non sông cẩm tú này cũng thuộc về con, con hãy giữ lấy bằng mọi giá, kể cả cái chết.
Đó không chỉ là sự răn bảo của đấng cao xanh, đó còn là đòi hỏi của bản thể chân thực và thiêng liêng của con trong kiếp này- điều ấy sẽ tạo ra chính mệnh(4).
Như thế cũng có nghĩa là con sẽ thoát khỏi ma-giới mà bước vào Phật-giới.
Và có điều ta cần nói, coi như thay lời trăng trối xót xa của cha con:
Hãy làm mọi điều để hai chữ “Sát Thát” thích sâu trên cánh tay cha khỏi trở thành hư không và biến thành trò đùa cợt của những kẻ chỉ quý miếng ăn và địa vị của bản thân mình…
Khi cơn sóng thi hứng chưa lắng lại, cặp mắt của vị hoàng đế – thiền sư đã chợt nhòa lệ. Rất có thể đó là lần đầu tiên và cũng là lần cuối cùng ngài khóc ra nước mắt.
Người ghi lại câu chuyện này không rõ Thái thượng hoàng Trần Nhân Tông có trừng trị vương hầu vô đạo kia và tìm cách đưa cô gái trở về với đời thường hay không, nhưng đoan chắc một điều: cuộc gặp gỡ gần như “vô ngôn” với ni cô Diệu Hạnh trong một ngôi chùa quê đã là giọt nước làm tràn cốc nước, khiến ngài có một quyết định chấn động triều đình và thiên hạ. Ở tuổi ngoại tứ thập, sau khi đã “thận trọng trước sự răn bảo của trời, làm hết phận sự của người” như sử gia Ngô Sĩ Liên đời sau bình luận, ngài rời bỏ tất cả, thượng sơn tới một vùng cao ngất, hoang sơ và nguy hiểm phía Đông Bắc là núi Yên Tử để tiếp tục tu hành. Ngài thực hiện cái di nguyện của ông nội Thiền sư Trần Thái Tông. Cũng là ước nguyện của ngài tự thuở hoa niên… Ngài đã mở ra một dòng mới của đạo Phật, thâm sâu, thuần Việt – dòng Thiền nhập thế Trúc Lâm Yên Tử, và trở thành vị Vua-Bụt duy nhất của nước ta. Lý do sâu xa của hành trạng đó, dù đã có nhiều bậc trí giả xưa nay dày công nghiên cứu giải thích, nhưng cho đến bây giờ vẫn còn là một bí ẩn lớn”.
Con đọc toàn truyện BÓNG THIỀN ở đây:
https://www.vanchuongviet.org/index.php?comp=tacpham…
Ngày…
Những ngày nóng bỏng chuyện Hành giả Minh Tuệ này, có liên quan đến nơi xuất xứ của đạo Phật Việt, bố cần kể con nghe câu chuyện về người Phật tử Việt đầu tiên tại núi Quỳnh Viên (Thạch Hà – Hà Tĩnh, bố từng về đây làm phim Nước núi Sót mát lòng ưu ái) – đã được thư tịch cổ nói đến nhiều kể từ đời Trần; và cho đến thời hiện đại, nhiều nhà nghiên cứu sử học, Phật học Việt nam đã cố gắng gỡ bỏ các lớp vỏ huyền thoại để nhất trí khẳng định trên cơ sở khoa học rằng: Núi Quỳnh Viên là có thật, trên đó còn có một ngôi chùa Quỳnh Viên, mà tại đây, Chử Đồng Tử có duyên may gặp một nhà sư tên Phật Quang, được ông ta dạy những bài học đầu tiên về Phật pháp nguyên thủy. Gần đây nhất, TS. Lê Mạnh Thát tại một Hội thảo khoa học quốc gia đã chính thức đề nghị: “Tỉnh Hà Tĩnh cần tổ chức một cuộc khảo cổ về những di tích tại núi Long Ngâm, trong đó có nền nhà Chử Đồng Tử bên chùa Quỳnh Viên để góp phần minh chứng cho việc khẳng định vấn đề nêu ra – tức là: chùa Quỳnh Viên ngày nay là nơi phát tích của đạo Phật Việt Nam, và đương nhiên, Chử Đồng Tử là vị Phật tử đầu tiên của nước ta vào cuối thế kỷ II TCN, giai đoạn cuối cùng của thời đại Hùng Vương…”. Bố đang có dự tính trở lại vùng Quỳnh Viên – Nam Giới để làm một phim về ngôi danh lam cổ tự đầu tiên này, và có dịp tìm hiểu sâu thêm về vị sư Ấn Độ pháp danh Phật Quang – vị chân tu đã rời bỏ quê hương đạo Phật để truyền pháp tận phương nam xa xôi, khi ông đã phiền lòng thất vọng giống như Phật tổ thời tại thế về không ít đệ tử của Phật mà không chuyên tâm tu tập chính pháp mà chỉ thích ăn ngon, thích được cúng tặng các vật dụng quý hiếm và những tấm y đắt tiền ở nhà các thí chủ giàu có. Cũng tại mảnh đất hoang vu nhưng đẹp tựa thần tiên này, nhà sư Phật Quang đã gặp được một trong những Phật tử đầu tiên đáng tin cậy của nước Việt để ông dốc lòng truyền pháp của Phật tổ đang bị lấn át tại chính quê hương ông… Nhà sư Phật Quang chắc không thể ngờ nổi rằng, hơn 2.200 năm sau, lại có một nhà tu hành sinh ra trên mảnh đất được coi là phát tích đạo Phật do ông truyền bá này, đã tiếp nối con đường của tu sĩ Chử Đồng Tử khoác tấm y phấn tảo giống như tấm y phước điền tại quê hương ông (tấm cà sa như thửa ruộng gieo trồng phúc đức, được chắp vá từ những mảnh giẻ nhặt về từ bãi tha ma hoặc vải thừa nhà thợ may), thực hành các hạnh tu buổi đầu của Phật tổ nhằm tìm đường Giác ngộ – đó là tu sĩ Thích Minh Tuệ…
Thế nhưng, lớp huyền sử mang đậm màu thần tiên vẫn chưa được gỡ bỏ hoàn toàn quanh câu chuyện có thực, và thiên truyện lịch sử nhỏ NGƯỜI PHẬT TỬ ĐẦU TIÊN này có tham vọng làm nốt công việc khó khăn đó…
Trích đoạn:
“…Sư Phật Quang đưa cho Chử chiếc gậy, cái nón và chiếc bình bát, với lời dặn: “Trò cần giữ gìn ba vật này. Các việc Linh Thông đều nằm trong đó cả”. Sư mang “Ánh sáng Phật” không cần giải thích rõ và cụ thể, việc “Linh Thông” ra sao, bởi gần năm tuần trăng làm bạn với người Phật tử đầu tiên này của nước Văn Lang, ông hiểu: những đoạn Kinh Phật gốc ông đọc cùng vài kỹ thuật hành pháp truyền dạy thực ra chỉ là sự chứng nghiệm sáng sủa trong trái tim chàng trai nước Việt thuần hậu, lương thiện, và đã sẵn Phật tính như ông nhận ra ngay từ buổi ban đầu…
Sau này, câu chuyện về ba bảo vật sư Phật Quang trao cho Chử sẽ thành truyền thuyết hấp dẫn đến say lòng: Chử Đồng Tử và Tiên Dung đã hóa phép chúng ra Cung điện Thành quách Phố xá nhằm đánh lừa quan quân triều đình kéo đến hỏi tội đôi vợ chồng… Sự thật thì các việc “Linh Thông” của Phật giáo quyền năng mà sư dặn chỉ là chuyện “năm giới Cấm” và “mười điều Lành”, khả dĩ giúp người theo Phật pháp chân chính sẽ đạt được trạng thái “không lạnh, không nóng, không đói không khát, công nghiệp và phước đức hội tụ, đạp lửa không bỏng, đi dao không đứt, muốn đi thì bay, ngồi thì phóng quang, biến hóa không chừng, ẩn hiện vô chừng, mọi thứ độc không thể làm hại” – như Kinh sách từng nói rải rác mà ông đúc kết lại. Ông tin rằng chàng trai này sẽ có một sức mạnh tinh thần phi phàm để giúp gia đình chàng và đồng bào của chàng vượt qua mọi thử thách khốc liệt đang chờ đợi trên mọi nẻo đường. Nhưng ông không thể ngờ: bắt đầu từ những Phật tử đầu tiên như Chử Đồng Tử – Tiên Dung, đạo Phật Việt đã bắt đầu thấm vào lòng người dân đất nước này như một nguồn suối trong lành không bao giờ vơi cạn trước mọi thủ đoạn tàn độc, có khả năng giúp hồi phục mọi vết thương lòng đau đớn, hóa giải mọi hận thù, và nhân lên vô hạn tình yêu thương ngay cả khi nó có nguy cơ bị cạn kiệt, bị truy đuổi…”
(Con đọc toàn truyện trên: https://vietvanmoi.fr/index3.10697.html)
Ngày…
Quanh ngôi chùa Việt hôm nay, bố đã trân trọng cung cấp THÀNH NGỮ – TỤC NGỮ MỚI thời hiện đại cho các nhà làm Từ điển bách khoa, các nhà xã hội học hoặc những ai đang lăm le viết tiểu thuyết thế sự-phong tục (Bố đã cầu xin mọi người đừng vội “ném đá” trước khi biết rằng tác giả được chịu ảnh hưởng của dân gian Việt lành mạnh và của nhà văn người Ý thời Phục Hưng G. Boccaccio đã châm biếm giới tu sĩ, giáo sĩ, quý tộc… hư hỏng trong tác phẩm Le Décaméron – Mười ngày):
Chín phương trời mười phương Phật-Một thời mạt, vạn người đau;
Máu chảy sân chùa, cơm lùa nước mắt;
Lễ Phật quanh năm, không bằng ngày rằm chùa lớn;
Khôn đi Tu ngu đi Chùa;
Quần sư tranh thực;
Tu trường như Thương trường;
Tu trường như Phim trường;
Tu trường nhập Chính trường;
Sư nói sư phải, vãi nói vãi hay, loay hoay thành kiện cáo;
Lành với Bụt, không ai lành với ác tăng;
Phật Đường hỗn chiến;
Sư sãi tranh nhau, đứng chầu mà hưởng lợi;
Còn Phật còn mình;
Vênh váo tựa láo nháo sư kiêu;
Buôn thần bán thánh để đánh lộn lẫn nhau;
Cúng dường thanh thủy úng tủy mà chết;
Sầu dài ngày ngắn-Tiền ít lộc nghèo;
Xót thương mồm, tay lồm cồm quơ bát;
Xót thương dân, tay lần bát cúng dường;
Mỡ để miệng mèo-Lộc dâng Tam bảo;
Đi với Bụt mặc áo cà sa-đi với Ma mặc áo giấy-đi với “cái ấy” bỏ áo sư;
Hỗn hào như cào tiền cúng dường;
Sư chửi nhau nên cau mày mà khóc;
Ho ra bạc-khạc ra tiền-Thiền ra của;
Phú quý sinh lễ nghĩa-Cúng Phật phải lắm tiền;
Hùm mất beo, tiếc hơn mèo mất mỡ-Sư mất lộc, hộc mồm chửi rủa nhau;
Ma ăn nhờ Bụt, Bụt chẳng ăn nhờ Ma-Sư ăn nhờ Phật tử, Phật tử chẳng ăn nhờ Sư;
Người năm bảy đấng-Sư đôi ba bề;
Sư A ghê gớm, Sư B cũng gớm ghê;
Bà vãi chẳng khỏi lần đi tu-Ông sư không đủ tiền đánh bạc;
Ở chùa lại toan đốt chùa, canh Tam bảo lại toan làm kẻ cướp;
Ông sư có ngãi, bà vãi có nhân (nhân tình), người dân gánh tội;
Hòn đất cất nên ông Bụt- Lòng dân tạo thành cõi Phật;
Đất của Vua chùa của Bụt-Lộc của sư danh của sãi;
Ăn của rừng, rưng rưng nước mắt-Ăn của chùa đắng ngắt tâm can;
Ba cô đội gạo lên chùa-Một cô yếm thắm bỏ bùa cho sư-Sư về sư ốm tương tư-Mẹ tra, sư cãi: Con hư đâu nào?!
v.v.
Con hãy cùng bố tiếp tục bổ sung góp phần làm phong phú cho kho tàng tiếng Việt!
Ngày…
Những ngày này, bố nảy ý tưởng phim truyện điện ảnh HÀNH HƯƠNG TÌM PHẬT.
Được trò chuyện với mấy Phật tử thuần thành thuộc Ban Giới – Định – Tuệ (Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Tôn giáo), là các “đệ tử ruột” của Trưởng lão Thích Thông Lạc, lại được mời tới thăm chùa Hương Hải Thiền ở xã Lệ Chi, Gia Lâm, Hà Nội, nơi vị Trưởng lão quá cố đã cho xây dựng các Thất theo hình mẫu Chùa Am (nay là Tu viện Chân Như ở Tây Ninh), bố có được thêm những thông tin quý về vị Hành giả Đầu-đà Minh Tuệ đang làm dậy sóng dư luận…
Khi đang vui chuyện kể lại về “Những bước chân rớm máu tìm quê hương” của Thiền sư Tuệ Sỹ, về hành trình đi tìm vị Tiểu Phật ở Tây Tạng của đạo diễn người Ý Bertolutsi (phim Tiểu Phật), thì bỗng quý vị Phật tử là H. C. chợt thốt lên: “Này ông đạo diễn, tại sao lại không thể có một bộ phim hay về con đường hành hương tìm Phật của vị hành giả kia nhỉ? Ông ấy còn trẻ, vậy mà xuất xử lại mang bao tư tưởng và ấp ủ thầm kín của Hòa thượng Thông Lạc – người đã cố gắng tạo ra dòng tu về nguồn gần Phật nhất, dòng tu kinh điển cổ xưa mấy ngàn năm có từ thời Đức Thích Ca Mâu Ni ôm bình bát khất thực khắp thế gian, dòng tu phản đối mọi thụ hưởng vật chất của cõi tạm nhằm thực thi điều tâm niệm của Trưởng lão lúc sinh thời: “Sống đúng giới luật là sống đúng đức hạnh, sống đúng đức hạnh là sống thương yêu nhau, đem lại sự an vui cho nhau”…
Được sự gợi ý động viên trên, bố đã đọc lại nhiều bài viết về vị Hành giả kia, và lấy ông làm nguyên mẫu (prototype) nhân vật chính (mang tên Tu sĩ Tuệ Thành) để bắt đầu hình thành nên đường dây truyện phim cho một phim điện ảnh tạm mang tên Hành hương tìm Phật… Trong phim, sẽ có nhân vật là chức sắc của Giáo hội Phật Giáo Việt Nam đã kịp “ngộ” trước hành xử của Tuệ Thành và hết lòng ủng hộ ông…
Ngày…
Ông Trần Khánh Dư, nhà nghiên cứu Phật học, Giám đốc Trung tâm Bảo tồn Di sản Tôn giáo mới bảo với bố – một học trò của ông – rằng: “Chú em đạo diễn nhà báo thử xem Trung tâm ta có thể tổ chức được một Tọa đàm nho nhỏ về Hiện tượng Sư Minh Tuệ không?”
Bố đáp lời huynh trưởng: “Sao lại không, bác? Tuyệt quá! Đây là cơ hội tốt để Trung tâm Bảo tồn Di sản Văn hóa Tôn giáo và xã hội có dịp nhìn nhận lại về Phật giáo Việt Nam hiện đại. Có thể đặt tên Tọa đàm Khoa học mà chắc nhiều người mong đợi này là: HIỆN TƯỢNG HÀNH GIẢ MINH TUỆ DƯỚI GÓC NHÌN PHẬT GIÁO NGUYÊN THỦY… Còn em xin cung cấp trước cho cuộc Tọa đàm tương lai này đôi ba bài viết mới thu lượm được trên mạng xã hội, và một bài viết của em về xuất xứ của ông Minh Tuệ: https://vanviet.info/van/hnh-gia-minh-tue-tung-tu-tap-o-cha-am-v-chiu-anh-huong-su-cua-ha-thuong-thch-thng-lac/
Ngày…
Bố biết con và các bạn yêu văn chương của con dạo này thường dõi theo từng bước chân của Hành giả Minh Tuệ, bố rất vui, và viết đoạn cảm ngôn này dành cho các con đây: VỊ HÀNH GIẢ BÁO TRƯỚC ĐỜI LÀ GIẤC MỘNG
Một tháng qua, sự xuất hiện của hành giả Minh Tuệ cùng sự “biến mất” khá bí hiểm của ông cùng các vị đồng tu đã tựa một tiếng sét giữa trời quang, hay như một vệt sao chổi vụt qua bầu trời, và báo trước cho không ít người cái điều đã nằm sâu trong triết lý Phật giáo mà sư Vạn Hạnh đã đúc kết: “Thân như bóng chớp có rồi không” (“Thân như điện ảnh hữu hoàn vô”), hoặc như tên một tác phẩm lớn của nhà viết kịch người Tây Ban Nha P. Calderón: Đời là giấc mộng…
Trong kiệt tác sân khấu này, thái tử Ba Lan là Sidismông bị cha là quốc vương Badaliô tước bỏ quyền thế tập, trói trong ngục kín chỉ vì lo sợ trời sẽ thực hiện lời tiên tri là: vua cha sẽ bị con trai đánh bại và phải quỳ lạy trước chân con trai mình… Quốc vương đã tạo ra một màn kịch cho thái tử được tôn vinh như chàng đáng được hưởng, sau đó tước bỏ để chàng thấy đó chỉ là giấc mộng… Nhưng một số quần thần trung thực và dân chúng cả kinh thành đã ủng hộ, chống lại quốc vương, giúp chàng lấy lại cương vị thái tử; và khi giấc mộng trở thành hiện thực, thì thái tử đã quỳ xuống dưới chân vua cha… Lúc đó, quốc vương mới vỡ lẽ rằng, chính ông ta bao lâu nay đã sống trong một giấc mộng kinh hoàng của lời tiên tri ác độc, do những kẻ xấu bày ra, khiến ông đày đọa và suýt nữa giết hại người con trai trung hậu dũng cảm… Sidismông, trong giấc mộng đẹp ảo tưởng hay đối diện với hiện thực nghiệt ngã tạo ra bởi lũ người hiểm độc, bao giờ chàng cũng giữ gìn phẩm chất tốt đẹp vốn có mà thần dân tương lai của chàng đang mong đợi, vì thế chàng có đủ sức mạnh chiến thắng mọi thế lực đen tối, mọi âm mưu bẩn thỉu, và cứu vớt được người cha ra khỏi vũng lầy của ảo tưởng, lầm lẫn…
Nhớ lại vở kịch kinh điển Đời là giấc mộng trên, tôi bỗng hình dung vị hành giả Minh Tuệ suốt 6 năm qua đã đội mưa nắng bước đi trong một “Giấc mộng”, với niềm tin trong trẻo nguyên thủy rằng: tu tập của ông sẽ giúp ông đạt tới Giác ngộ tối cao, gạt bỏ hết Tham – Sân – Si, và vươn tới Bản nguyên của cuộc đời tựa giọt sương mai đọng trên ngọn cỏ; từ đó, ông sẽ có năng lượng của tự nhiên đem tới sự an lạc cho muôn nhà… Điều ông không thể ngờ, không lường trước được, là đã giúp biết bao Phật tử, và cả không ít vị tăng lữ cao cấp chợt tỉnh ngộ, được thoát ra sự mộng mị ma quái của một số người mượn cửa Phật và áo tu hành với mục đích kinh doanh trục lợi cá nhân…
“Giấc mộng” của ông đã thức tỉnh được biết bao niềm khao khát với điều Thiện, điều Hạnh tưởng bị ngủ quên, bị vùi lấp trong đáy hồn hàng triệu người lao động trong cuộc đời đầy cam go tủi nhục, lắm khi phải nuốt nước mắt nhẫn nhịn trước những bất công, đè nén, cướp bóc của lũ cẩu quan ngày một mọc ra nhiều như nấm độc…
Nếu như cuộc sống không có những người coi “Đời là giấc mộng”, “Thân như bóng chớp có rồi không”, hoặc mỗi người không có đôi lúc được sống trong cái tâm thế ấy – như một phép di dưỡng tinh thần mà ông cha ta đã ứng dụng từ xa xưa – thì cõi đời này sẽ chìm đắm trong vật dục trần trụi tối tăm không một kẽ hở nào cho vẻ đẹp tinh thần, cho rung động thầm kín của con tim… Và có thể nói đó cũng thái độ “vô vi” (cứ thuận theo tự nhiên mà làm) của Lão Tử – một nhân vật kỳ lạ đã giúp cho cả một dân tộc tồn tại được trong mấy ngàn năm vật lộn với đời sống mà không có nhiều người bị bệnh điên, bệnh thần kinh suy nhược, bệnh đứt gân máu như người phương Tây – theo cách nói của Lâm Ngữ Đường (Lão Tử – Đạo đức kinh, Nguyễn Hiến Lê chú dịch và giới thiệu, Nxb Văn hóa, 1994).
Tôi tin, những ngày qua, dõi theo bước chân của vị hành giả đã coi “Đời là giấc mộng” ấy, rất nhiều người trong chúng ta phải chợt tỉnh cơn ác mộng…
https://vanviet.info/van/vi-hnh-gia-bo-truoc-doi-l-giac-mong/
Ngày…
Con cần biết cuộc trò chuyện của bố với một đạo diễn trẻ chuẩn bị làm phim về hành giả Minh Tuệ: Giữa lúc bố vất vả leo núi cùng cán bộ xã Mùn Chung, huyện Tuần Giáo tìm một hang của quần thể hang động (đã được công nhận là Di tích cấp tỉnh-thành phố về Danh lam thắng cảnh hang động Mùn Chung) để xác định bối cảnh quay, đồng thời giúp bà con vùng Thái này xây dựng địa chỉ du lịch mới; sau khi vấp ngã suýt văng máy quay và người xuống chân núi, đang phải xé tất để tạm “băng bó” giày dã chiến đã bật tung đế, thì cậu sinh viên cũ hiện là Phó giám đốc một Đài Phát thanh & Truyền hình tỉnh gọi bố như kêu cứu.
– Thầy ơi, em rất mong thầy giúp cho… Thế này ạ: Đài em có quyết định xây dựng một phim tài liệu phóng sự về ông sư khất sĩ đang làm dậy sóng dư luận… Tất cả đạo diễn phóng viên đều tìm cách từ chối, tập thể Lãnh đạo Đài chỉ định em, với lý do là cựu sinh viên xuất sắc của trường Đại học Sân khấu Điện ảnh, lại là Đảng viên ở trong Ban giám đốc…
– Thế là chuẩn rồi đó! Bởi đây là đề tài nhạy cảm, cần phải có bản lĩnh chính trị thì mới tiêu hóa được hàng núi thông tin trái ngược, để cho ra tác phẩm có thể lên sóng đàng hoàng…
– Thầy hình như mỉa mai em à?
– Sao em lại nghĩ đó là mỉa mai? Nhầm đấy! Vậy em cần gì ở thầy?
– Vâng, em xin lỗi thầy, vì đã hiểu lầm ý thầy…
– Khỏi cần xin lỗi vì điều vớ vẩn đó! Chắc cậu đang lúng túng về hướng khai thác đề tài, xử lý chất liệu sắp thu thập?
– Trời ạ, thầy nói như thần phán ấy…
– Khổ, cậu lại làm cái chuyện “khen phò mã tốt áo” rồi! Thú thực với em, nếu có thời gian, và dư dả kinh phí nữa, thầy cũng đã vác máy đi theo ông hành giả đó để mong làm một phim tài liệu ra hồn đấy! Nhưng, dân điện ảnh chuyên nghiệp chẳng lẽ lại đi “cướp cơm” của mấy anh chàng cầm máy nghiệp dư săn tin săn hình… – Hắn cười để giảm bớt mệt mỏi và đau – Đùa đấy. Mà có em với tư cách là dân chuyên nghiệp thực hiện thay cả cho thầy thì cũng “bõ” cho cái đề tài thú vị này…
– Vâng, em rất mong thầy chỉ dẫn cho ạ…
– Về kỹ thuật, hay là các “bảo bối” trong nghề, thầy đã trút cho các cô cậu hết cả còn gì! Nhưng có điều quan trọng các thầy chưa kịp nói thì các em đã ra nghề làm công chức ăn lương mất rồi: người làm phim – phim tài liệu hay phim truyện đều thế – là kẻ suốt đời “đi tìm” một cái gì đó, là một cuộc hành hương tinh thần đầy chông gai, nguy hiểm, thậm chí trả giá bằng mạng sống. Em hãy nhớ lại cuộc đời nhà đạo diễn phim Xô viết Roman Karmen – người đi khắp thế giới ngập khói lửa để ghi hình Nội chiến Tây Ban Nha, các trận đánh tại Moskva và Leningrad trong Thế chiến II, chiến tranh Đông Dương lần I… vì vậy đã có được những thước phim vô giá về lịch sử chiến tranh. Hay gần đây nhất, là câu chuyện về anh sinh viên Pháp ngành điểu học Luc Jacquet đã trở thành nhà điện ảnh chuyên nghiệp khi một năm ròng sống ở Nam Cực dõi theo chu kỳ sinh sản của chim cánh cụt hoàng đế, suýt nữa mất cả mạng để có được 120 giờ tư liệu quay làm thành bộ phim tài liệu khoa học 80 phút “Bước đi của hoàng đế” (La marche de l’empereur); bộ phim được hoan nghênh khắp thế giới, bởi những bước chân chim xứ xở băng giá đã gợi lên toàn bộ lịch sử loài người mà nổi bật là lòng quả cảm và sự kiên tâm, những giá trị của sự chia sẻ và hợp tác, vai trò trụ cột của gia đình… trong những cuộc đấu tranh khắc nghiệt để sinh tồn…
Thầy nhắc tới phim “Bước đi của hoàng đế” mà có lần đã yêu cầu các em phải xem, là vì sắp tới em sẽ đi theo bước chân của hành giả Minh Tuệ, với những thước phim tự em ghi lại được và những hình ảnh chọn lọc từ hàng trăm clip đã có và sẽ có, em sẽ tìm ra được điều gì đó thật ý nghĩa – trong cuộc hành hương của một Du sĩ đang tu tập theo hạnh Đầu-đà, cũng là Pháp tu của Phật hoàng Trần Nhân Tông khi xưa…
Chắc chắn rằng, Lãnh đạo Đài sẽ căn dặn em cần phải khai thác tư liệu và bình luận bộ phim tương lai theo hướng Tuyên giáo: “Lợi dụng hình ảnh một người bộ hành “tập học Phật” để gieo rắc những thông tin phỉ báng, công kích Giáo hội Phật giáo và các nhà tu hành Phật giáo, gây mất niềm tin của nhân dân, Phật tử, phá hoại Phật pháp, gây chia rẽ giữa các tôn giáo, chống phá chính sách tôn giáo của Đảng, Nhà nước ta. Đó là những biến tướng nguy hiểm từ những ồn ào liên quan đến hiện tượng ông Thích Minh Tuệ, cần phải được nhận diện và ngăn chặn” – trong một bài báo mới nhất thầy vừa đọc: “Nhận diện âm mưu lợi dụng ‘hiện tượng Thích Minh Tuệ” (Báo Tin tức).
Dĩ nhiên, là công chức cầm bút cầm máy quay, em và thầy cũng sẽ phải làm theo những định hướng tư tưởng đó, có vậy tác phẩm mới được duyệt và được phổ biến. Nhưng là một nghệ sĩ thực sự, một nhà báo đúng nghĩa thì không thể chỉ giới hạn trong vòng “kim cô” tất yếu đó. Chắc rằng tác giả bài báo nói trên đã bị buộc không được nói đến mặt tích cực, tiến bộ của một người tu hành mà “gương mặt và nụ cười đưa ta tới ánh sáng” như nhà văn Tạ Duy Anh đã cảm nhận. Một bà giáo Tây Bắc cũ, người chị kết nghĩa thân thiết của thầy có nhắn dưới một stt. của thầy: “Không ai có thể khẳng định cách tu của thầy Minh Tuệ là duy nhất đúng. Nhưng phải khẳng định rằng đó là một cách tu ít ai làm được, nếu không gạt bỏ hết mọi tham – sân – si, và không có một ý chí nghị lực phi thường. Khẳng định và tôn vinh một điều tốt đẹp như vậy là điều nên làm, và nhân sự kiện thầy Minh Tuệ mà chấn chỉnh những mặt còn thiếu sót giúp cho hoạt động tôn giáo được lành mạnh trong sáng hơn, thì dù kẻ thù có xảo quyệt đến đâu cũng không làm gì được ta cả. Không nên vì sợ kẻ thù lợi dụng và sợ đụng chạm đến lợi ích của ai đó mà bỏ qua cơ hội nghìn năm có một này để chấn chỉnh lại các hoạt động tôn giáo cho lành mạnh hơn thì thật đáng tiếc!”.
Thầy nghĩ rằng, đó cũng là tâm niệm chung của tất cả người dân Việt lương thiện ta lúc này – từ người dân thường tới lãnh đạo Nhà nước, từ Phật tử – cư sĩ tới bậc Hòa thượng… Máy quay và cây bút của em trong cuộc hành trình sắp tới đã có một trụ đỡ tâm hồn và tư tưởng vững chãi đó!
Thầy chỉ gợi ý thêm điều nhỏ này cho em tham khảo. Lâu nay, những người làm điện ảnh nước ta thường trăn trở về chuyện phim ảnh của ta bị các Giám khảo Liên hoan phim quốc tế than phiền rằng: phim của các bạn ít có Thiên nhiên quá mà chỉ nhiều máu đổ, khói lửa; Tình yêu thương vốn có của dân tộc các bạn sao thiếu vắng mà chỉ tràn lan chuyện lừa đảo, giết chóc, thù hận… Câu chuyện hành giả Minh Tuệ hôm nay khiến nhiều người làm điện ảnh Việt chợt ngỡ ngàng, bởi những chặng đường của thầy đã vượt bao cảnh vật thiên nhiên hùng vĩ và thơ mộng Tổ quốc, lại được bao phủ bởi tình yêu mến, kính trọng của hàng ngàn người dân lao động, Phật tử nghèo… Trong kịch bản điện ảnh của thầy đang viết về nhân vật Khất sĩ này, thầy cố gắng tái hiện lại cảnh người dân Thừa Thiên – Huế cầm hoa sen, đội mưa chờ đón vị hành giả như đón một vị Thiên sứ của Tình yêu thương và khát vọng tìm đến những điều tốt lành, bình an, bằng trái tim giàu lòng tha thứ, nhẫn nhịn. Ở nhân vật Hành giả, bên cạnh những động cơ Tôn giáo và đời thường đưa ngài lên đường phiêu du bất định, là có khát vọng được chiêm ngưỡng bao kỳ quan thắng cảnh thiên nhiên từ Nam ra Bắc, để có thể tìm được Hồn Non Nước của Tản Đà mà ông đã thấm từ ngày tu tập ở Chùa Am, qua giọng ngâm của vị Hòa thượng trụ trì là Trưởng lão Thích Thông Lạc…
Và một trải nghiệm của riêng thầy: sau những bước nhọc nhằn leo núi dốc vừa đi vừa gỡ gai góc, vừa cố tránh giẫm vào những cây ngô mới trồng của đồng bào, và sau lúc bị ngã một cú suýt tan máy mất mạng vừa rồi, thầy chợt cười thầm: Ồ, so với những gian truân của ông Minh Tuệ thì có thấm tháp gì đâu! Và hành giả Minh Tuệ có một niềm tin sắt đá giúp ông ấy mỉm cười vượt qua tất cả thử thách gian nan, kể cả sự lăng nhục, bị đánh đập đến tóe máu mồm, phải chăng cũng là một sự nhắc nhở đáng quý đối với những ai đang đau đáu tìm kiếm một cái đích nào đó, rằng: Thử thách vượt qua các kiếp nạn trời ban hay nhân tạo là điều không thể tránh khỏi! Vậy thì than vãn có ích chi, hãy cắn răng mỉm cười và tiếp tục cuộc hành trình đi tới đích. Có thể ngã gục trước khi tới đích, hay sẽ chẳng bao giờ tìm thấy đích; song cái nghị lực và khát vọng tinh thần mãnh liệt của người thực hiện cuộc hành trình sẽ là cái đích vươn tới của biết bao người trong cuộc mưu sinh khốn khổ…
Đó, đạo diễn trẻ hãy vững tin lên đường, theo bước hành hương của ông Minh Tuệ, với một cái gậy dò đường bé tẹo của thầy có thể giúp đỡ phần nào lúc cần thiết…
– Em cám ơn thầy ạ.
– Em hãy cám ơn vị Hành giả Minh Tuệ ấy!
https://vanviet.info/van/tr-chuyen-voi-mot-dao-dien-tre-chuan-bi-lm-phim-ve-hnh-gia-minh-tue/
Ngày…
Trưởng lão Thích Thông Lạc đã nói về Cúng dường thế này, thảo nào nhiều vị sư “chính thống” có chức sắc đã phải toát mồ hôi hột, từng chống phá ngài kịch liệt:
THẾ NÀO MỚI LÀ CÚNG DƯỜNG CHÁNH PHÁP ĐỂ ĐƯỢC PHƯỚC BÁU?
…Còn đối với các sư, các thầy mà cúng dường, thì phải cúng dường những người giới luật thanh tịnh. Cho nên, nếu tôi cúng dường cho những người không giới luật thanh tịnh, tức là tôi nối giáo ma để diệt Phật giáo, tôi có tội.
Con thấy cái sự cúng dường đức Phật đã dạy rõ mà… Thầy tôi tu sai mà tôi cứ đem cúng dường hoài như vậy rõ ràng là tôi xúi giục ông thầy tôi sai thêm…
Còn bây giờ tôi không cúng dường, ông phải ra làm, ông phải vác cuốc ra làm sống như người ta. Như vậy là tôi biến ông thầy tôi trở thành tốt. Ông thầy đó mới xứng đáng là thầy của tôi.
Còn bây giờ tôi cúng dường cho ông chỉ vì ông là thầy tôi, tôi cúng dường cho ông ngồi không ăn, rồi ông lợi dụng người này người khác để ăn sung mặc sướng. Lại là ông phì ra, ông ăn đủ thứ hết, trong khi ông vét từng mồ hôi nước mắt mọi người. Rồi chùa ông lớn, ông mặc lại sang, rồi nhà cửa ông to đẹp, vật dụng thế gian & vật chất dục lạc thế gian đầy đủ hết…
Nhìn mấy ông thầy ngoài chùa giàu sang rõ ràng không phải là người tu rồi. Nhưng mà tôi lỡ, trước kia tôi chưa biết, tôi quy y ông cho nên ông là thầy tôi… Bây giờ tôi không cúng dường để cho ông phải đi làm, để ông biết rằng phải giữ giới luật thì tôi sẽ cúng dường lại.
Tôi muốn thầy tôi là cái gương hạnh tốt, vì vậy mình mới giúp Phật giáo tốt chứ. Còn mình cứ nhắm mắt cúng dường cái kiểu này là coi như là Phật giáo suy đồi mất rồi.
Đem cái ngu si của mình phục vụ cho một ông chạy theo dục lạc, hưởng dục lạc để bây giờ ông mập ông béo mà gia đình mình vợ con mình gầy còm mà cứ cung cấp cho ông. Phước báu chỗ nào đâu? Có nhiều người Phật tử cứ lo cúng dường cúng Phật, cúng dường cho chư Tăng rốt cuộc rồi gia đình mình ốm nhom, ốm nhách, ông thầy càng ngày càng mập ra, thì rõ ràng là mình quá ngu si…
(Sách PHẬT TỬ THAM VẤN 01- BỐ THÍ CÚNG DƯỜNG ĐÚNG CHÁNH PHÁP https://thuvienchonnhu.net)
Ngày…
Hôm nay, nhớ lại một bộ phim Nga hiện đại, bố đã viết: SỰ PHÂN LIỆT TRONG GIỚI TĂNG LỮ PHẬT GIÁO.
Sự kiện vị Hành giả Minh Tuệ tu theo phép khổ hạnh Đầu-đà có từ thời cổ đại gây “bão thông tin” thực ra là một hiện tượng của quy luật “giọt nước làm đầy tràn cốc nước”, bộc lộ hết thực trạng của Đạo Phật Việt thời hiện đại – mà nổi bật nhất chính là sự phân liệt “đẳng cấp” trong giới Tăng lữ Phật giáo, khi hệ thống “Phật – Pháp – Tăng” đã bị “chính trị hóa” toàn phần, bị lợi ích nhóm chi phối, và bị xâm thực nặng nề bởi một xã hội thời thị trường hóa ngổn ngang bao điều quái dị…
Có thể liên hệ sự phân liệt “đẳng cấp” trong giớí Tăng lữ này ở nước ta hiện tại với tình hình Tôn giáo & Chính trị của xã hội Nga hiện đại từng được các nhà điện ảnh trung thực và dũng cảm vạch ra, lại được chính Bộ Văn hóa Liên Bang Nga tài trợ qua một số bộ phim dòng “ám ảnh” – nổi bật là phim Leviathan đoạt rất nhiều giải quốc tế quan trọng .
Trong phim này, Thiên chúa giáo cổ truyền ở Nga (tức Chính thống giáo) và Thiên Chúa giả mạo hiện tại (mà họ cũng tự xưng là Chính thống giáo) được bọn cầm quyền thành phố dùng làm bình phong cho mọi hành động ám muội của chúng. Đại diện cho Chúa là viên cố đạo của thành phố, thực ra một thứ tay sai của chính quyền thối nát với những lời của “ông thầy” lũ kẻ cướp, như: “Mọi quyền lực đều do Chúa ban cho ta, và ở đâu có quyền lực, ở đó có sức mạnh. Con chính là quyền lực trong địa phận con cai quản thì tự con phải giải quyết vấn đề địa phương của con, bằng chính quyền lực và sức mạnh của con”.
Trong phim này cũng có sự phân liệt đẳng cấp tăng lữ rõ ràng: đó là nhân vật một ông linh mục nghèo, tuy chỉ xuất hiện trong một trường đoạn duy nhất nhưng các nhà làm phim cũng cho thấy cảm tình của đông đảo người dân bình thường, lương thiện đối với Thiên chúa giáo cổ truyền Nga, và đủ sức đối lập với bọn mặc áo thầy tu hiện đại có vẻ mặt đạo mạo, trang trọng, nhưng tâm hồn đã bán đứt cho quỷ sứ! Như vậy, về Tôn giáo, rõ ràng là các nhà làm phim bênh vực Thiên Chúa giáo cổ truyền, đối lập với thứ Tôn giáo tự xưng “Chính thống giáo” của những người là “sân sau” của chính quyền hủ bại – chính cái tôn giáo giả mạo đó đã nuôi dưỡng “Quái vật Leviathan” hiện đại!
Nội dung bộ phim vừa phác qua chắc chắn sẽ làm giật mình những ai trăn trở với tình hình Tôn Giáo & Chính trị vừa qua trên dải đất chữ S này, khi trên truyền thông tràn ngập những hình ảnh và phát ngôn của những vị tu hành chính thống béo tốt y phục đồ dùng sang trọng nói năng bất chấp các Giới luật ngiêm trang của Phật Pháp kinh điển, và lớn tiếng miệt thị những ai là “đồng đạo” song không cùng “đẳng cấp” với họ về tiền tài, địa vị, danh vọng, quan hệ xã hội…
Một trong những quan hệ gần gũi là quan hệ “Sãi – Vãi”, họ cũng tạo ra một đàn đệ tử & Phật tử cùng “đẳng cấp” với mình: nếu chú ý sẽ thấy trong những cuộc giảng đạo-cúng dường tại các khu “kinh doanh” Phật giáo to vật vã, các vị thuộc “đẳng cấp quý tộc tăng lữ” Giáo hội đó xuất hiện như Phật tái thế, quần áo bóng bẩy, tươi tắn như hoa sen đầu mùa, và vây quanh họ là đám đông Phật tử & đệ tử cũng y phục sang trọng không kém, với niềm hoan hỉ cuồng nhiệt không phải được “ngộ” chân lý Phật mà bởi cảm nhận rõ rệt sự “đồng thanh tương ứng đồng ý tương cầu” của những người cùng đẳng cấp, và mê say trong bao lời dụ dỗ sặc mùi Kim tiền, không cần che dấu tô vẽ gì hết các sự tuyên truyền mê tín bậy bạ – hoàn toàn xa lạ với những “Lời Phật dạy”…
Trong khi đó, xã hội cũng được nhìn thấy hàng trăm hàng ngàn nam nữ Phật tử già trẻ từ các đường phố, làng quê ùa ra đón đợi, quét dọn đường, có người từ ruộng còn vấy bùn đi lên, họ cầm theo những đồ ăn thức uống bình dân kính dâng cho vị Hành giả Khất sĩ chân đất và gần hai chục vị tòng tu – đồng đẳng cấp đang chăm chú vượt qua bao chặng đường mưa nắng…
Thế là, sự phân liệt trong giới tăng lữ Phật giáo ngày một tiệm tiến gia tăng cùng cảm xúc xã hội đã tới lúc bùng nổ – không chỉ còn là “hội chứng đám đông” thông thường nữa mà đã trở thành sự bừng tỉnh, một sự “giác ngộ” mới mẻ chưa từng có về Đạo Phật Việt như một dòng chảy ngầm tinh khiết suốt mấy ngàn năm qua…
(Con đọc bài viết về phim Leviathan của bố trên: https://vanviet.info/nghe-thuat/tu-anh-hng-ilia-muromet-toi-qui-vat-khong-lo-leviathan-xem-bo-phim-nga-leviathan-2014/).
[1] Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1972, tr. 289.
[2] Hợp tuyển thơ văn Việt Nam, Tập II, Nxb Văn học, Hà Nội, 1976, tr.196.
[3] Đại Việt sử ký toàn thư, tập II, Nxb Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1972, tr.156.
[4] Thơ văn Lý Trần, tập III, NXB Văn học, Hà Nội, 1978, tr.145.
[5] http://phatphapchanthat.blogspot.com/2013/03/su-ong-thich-thong-lac-neu-ra-nhung-gia.html
[6] Văn hóa Phật giáo truyền thống, Lời nói đầu, tập II, Nxb Tôn giáo, Hà Nội, 2011.
[7] Mấy vấn đề về Phật giáo và lịch sử tư tưởng Việt Nam, Nhiều tác giả, Viện Triết học, Hà Nội, 1986, tr. 141.