Chân dung Ý Nhi (ký họa của Bùi Xuân Phái)
Văn Việt: Chiều 30/11/2016, lễ trao Giải thưởng Thơ Cikada cho nhà thơ Ý Nhi đã diễn ra trọng thể và thân mật tại Sứ quán Thụy Điển. Sau các nhà thơ Đông Á nổi tiếng…, Ý Nhi là nhà thơ Việt Nam đầu tiên vinh dự nhận giải thưởng cao quý này. Văn Việt xin chúc mừng chị, và nhân đây gửi tới bạn đọc một chùm thơ Ý Nhi cùng hai bài viết ngắn của Hoàng Hưng về thơ Ý Nhi, tất cả đều do nhà thơ Ý Nhi tự tuyển chọn và gửi Văn Việt.
Nguyễn Du, 1813
Năm 1813, Nguyễn Du trở lại Thăng Long, chuẩn bị cho chuyến đi sứ sang Trung Quốc, dưới triều Nguyễn. Bấy giờ, Nguyễn Du đã ngoài 40 tuổi, đã chứng kiến sự thay đổi của ba triều đại phong kiến, sự đổ vỡ, tàn lụi của chính gia đình ông, một gia đình quan lại lớn, gắn bó với các triều đại ấy. Sự hưng phế, mất còn của các triều đại, cảnh bể dâu của đời người, là nỗi buồn lo, day dứt khôn nguôi trong thơ Nguyễn Du lúc này. Chúng tôi thử sắp xếp lại các ý tứ, các câu chữ trong thơ ông, gắng hình dung ra khuôn mặt tinh thần của nhà thơ-chứng nhân của thời đại mình.
1. Không giã biệt
không gặp gỡ
ta bước trên lối cũ như khách lạ
Khí lạnh ban đêm dồn hết vào một người
chiếc khăn thâm nhỏ hẹp sổ tung
tóc bạc bơ phờ trước gió
suốt đời
chỉ một mối u hoài
Tháng năm trôi qua như giấc mộng
mà nào như giấc mộng chàng Lư
ta lênh đênh góc bể, chân trời
ta là người bệnh không có thuốc
kẻ đói không có cơm
dùng sách làm gối tựa khi đau yếu
uống rượu cho bớt vẻ xanh xao
một mình
khêu ngọn đèn trong đêm đã bắt đầu dài
2. Không ai trói buộc
không ai gông cùm
không ai đánh đập
không ai chửi mắng
sao ta sống như trong lồng cũi
Sao ta không thể rượu say như người ta vẫn uống
không đi săn như người ta vẫn đi săn
không thể yên lòng ngồi nghe các ca nữ đàn hát
trước đèn nến
không thể vui ngắm cúc đầu thu
không thể hái bông sen bên hồ mà lòng không vướng bận
Ta sinh ra nào có tướng công hầu
mà lận đận mãi chốn bụi trần không sao gỡ được
ta chờ đợi điều chi
mong mỏi điều chi.
3. Nào còn đâu những lâu đài đồ sộ nghìn xưa
những thành quách tưởng muôn đời bền vững
ta bước giữa những con đường mới
những đền đài mới
lòng kinh sợ
như đứa trẻ đi trong mưa lạc lối.
Những bạn bè cũ đã cáo quan
ăn măng trúc măng mai ngồi câu bên sông vắng
làm thơ thưởng hoa
làm thơ vịnh nguyệt
coi cuộc đời như phù vân
Các bạn gái ngày xưa nay tay dắt tay bồng
vẻ đẹp chóng tàn phai
không ai còn mặc áo màu thiên thanh
không ai còn cài hoa trên tóc
không ai còn hát bài hát cũ.
Đường dài
trời đã về chiều
tìm đâu ra bạn mới
ta chờ đợi điều chi
mong mỏi điều chi.
4. Chợt nhớ người hát khúc Ly Tao bên sông
bờ cỏ đầy hoa lan, hoa chi
nhưng nghìn thưở ai thương người tỉnh một mình
bao nhiêu năm sau ta còn gặp
bọn thượng quan Ngận Thượng
nước mỗi dòng thăm thẳm sóng Mịch La
bao nhiêu năm sau
tưởng còn thấy ngọn cờ
buổi Hàn Tín cầm binh lên phương Bắc
nhưng mấy ai lúc hiển vinh còn nhớ ơn kẻ cứu giúp mình
nỗi oan cừu dễ chi tan được
Mấy ai hát như nàng Ngu Cơ lúc kề bên cái chết
ai gảy đàn lúc lâm hình như Thúc Dạ
ai biết vui như Vinh Khải Kỳ đi mót lúa
ai uống rượu tựa Lưu Linh
Hàng nghìn năm còn lại mấy tuổi tên
trên mặt đất đầy việc dữ
ta chờ đợi điều chi
mong mỏi điều chi.
5. Cả kinh thành đêm nay chỉ một mình ta
không bạn hữu
không trăng
không rượu đắng
ta còn chờ đợi chi
còn mong mỏi điều chi
mắt mở trừng trừng luống tưởng bao chuyện trước
Ta như người gảy đàn sau tháng ngày tan hợp*
mặt đã võ vàng
áo quần rách nát
không lìa khúc đàn xưa.
* Chỉ cô Cầm, người ca nữ trong bài Long thành cầm giả ca.
Người đàn bà ngồi đan
Giữa chiều lạnh
một người đàn bà
ngồi đan bên cửa sổ
vẻ vừa nhẫn nại vừa vội vã
nhẫn nại
như thể đó là việc phải làm suốt đời
vội vã
như thể đó là lần sau chót
Không thở dài
không mỉm cười
chị đang giữ kín đau thương
hay là hạnh phúc
lòng chị đang tràn đầy niềm tin
hay là ngờ vực
Không một lần chị ngẩng nhìn lên
chị đang qua những phút giây trước lần gặp mặt
hay sau buổi chia ly
trong mũi đan kia
ẩn dấu niềm hân hoan hay nỗi âu lo
trong đôi mắt kia
là chán chường hay hy vọng
Giữa chiều lạnh
một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ
dưới chân chị
cuộn len như quả cầu xanh
đang lăn
những vòng chậm rãi.
Nhà văn Nguyên Hồng
Năm 1976
trên chuyến tàu Hà Nội – Hải Phòng
tôi đã gặp nhà văn
giữa đám đông hành khách
ông thét gọi người quen
tiếng vang
suốt cả toa tàu
Trán đẫm mồ hôi
tay khư khư ôm chiếc túi cũ sờn
ông giống như
một viên chức bậc trung giữa đường công vụ
một lão nông về quê sau chuyến đi xa
một kẻ lang thang tìm đất mới
Không chống can và ngậm tẩu
khủng khỉnh bàn đến các món ăn, rượu ngon và từ ngữ
không chạy nhông trên các diễn đàn
rao giảng văn chương
không làm bộ trầm tư cao ngạo
nhà văn Nguyên Hồng đi trên toa tàu chợ
trán đẫm mồ hôi
tay khư khư ôm chiếc túi cũ sờn
như một viên chức bậc trung giữa đường công vụ
một lão nông về quê sau chuyến đi xa
một kẻ lang thang
tìm đất mới
Với giọt lệ lớn
nằm dưới đáy đôi mắt đang nheo cười.
Tự do
Chị đã lường trước sự đói khát
đã lường trước những đòn tra tấn hiểm nghèo
đã lường trước cái chết
nhưng chỉ đến khi
đứng sau song sắt nhà tù
chị mới hiểu tự do
Đó không phải là cái cách
một người đói hiểu giá trị của bữa cơm
một người ốm quý trọng thuốc
cũng không giống như kẻ bất hạnh luyến tiếc tình yêu
Lúc no
người ta không nhớ tới cái ăn
lúc khỏe người ta quên thuốc
trong hạnh phúc
người ta sẽ thôi nghĩ về sự may mắn
Nhưng với chị
ngay cả khi không còn tù ngục
tự do vẫn như một ám ảnh
một giày vò
một khát vọng.
Đắc đạo
Dương Bích Liên uống rượu
lặng im
và vẽ
Đã vượt qua mối vướng bận đời thường
đã vượt qua
mối vướng bận vinh quang
đã vượt qua nỗi lo sợ âm thầm
khi phải đứng
riêng về một phía
Dương Bích Liên uống rượu
lặng im
và vẽ
Những đối cực
đã tuyệt vời hài hòa trên mặt vải
những tiếng kêu bi thương
cuồng nộ
đã tan
trong lặng thinh kỳ bí
và rượu
đã thay cho mọi loài ngũ cốc
Rồi ra đi
như một vì sao
chợt tắt
giữa bao la
Quê hương
Rồi ta về
ngày thơ ngây
trái mận, trái mơ
con giống đêm rằm
đèn trung thu sáng nến
phượng nở âm thầm trên mái rêu
Rồi ta về
nghe gió
thiếp lặng giữa vòm cây
như tiếng gọi trong chiều
Rồi ta về
trông sóng
trên mặt nước hồ trong
còn chuyến đi bền bỉ tới bờ
Rồi ta về
mưa phùn
lộc biếc
Rồi ta về
phố xưa cô vắng
sông lớn âm thầm thắm đỏ
Rồi ta về
tìm qua ô cửa
một chút gì bóng dáng đời ta
một chút gì
như đốm nắng trên tường vôi cũ
một chút gì như tiếng chim khuyên
nơi vườn hoang
Rồi ta về
cuộn trốn giữa yêu thương
như đứa trẻ
cuộn mình
trong chăn ấm chiều đông
Ôi quê hương
quê hương
mắt trũng sâu chờ đợi
ta khóc
ngập lòng trên lối về
Vườn
Không có giọng nói của anh
ánh nhìn của anh
tiếng cười của anh
để những đốm nắng cuối cùng của mùa hạ
những chiếc lá đầu tiên của ngày thu
có thể cháy lên thành ngọn
để khuôn mặt người đàn bà vừa ngang qua
có thể
huy hoàng dưới vành khăn nâu
để chiếc nhẫn ai đánh rơi
được nhặt lại
và dịu dàng chói sáng
Để con tàu trẻ thơ chạy quanh các luống hoa
thành chuyến tốc hành
đưa người đến miền cây lá khác
Để cỏ
có thể xanh tựa hồ nước mắt
để dấu chân người
im giữ niềm bí mật
Để em
có thể nghe nơi vòm dẻ đang nhuốm vàng kia
lời nguyện cho nỗi yên hàn.
VIẾT VỀ THƠ Ý NHI
HOÀNG HƯNG
“VƯỜN” CỦA Ý NHI
Cuối một ngày tất bật, cuối con đường tấp nập, ta gặp một khu vườn. Khu vườn lặng lẽ như không thể có trong sự ồn ã của thành phố phương Nam này. Lặng lẽ của con sóng “còn chuyến đi bền bỉ tới bờ”, của đoá hoa quì “tựa ngọn đèn ai thắp trong vườn / mong bước chân về”, của động tác “thắp ngọn đèn qua đêm chiến tranh / như thắp một nén hương”, của chiếc nhẫn hẹn ước “tuột khỏi vòng tay [ngón tay thì đúng hơn?]/ lẩn mình cùng sỏi đá”… Đây là khu vườn của ký ức. Người đàn bà ở bên kia đỉnh dốc mong tìm nơi “vòm dẻ nhuốm vàng kia / lời nguyện cho nỗi yên hàn” mà ký ức không thể yên hàn, ước nguyện “ra đi / như người đàn bà đi khỏi mối tình của mình” mà kỷ niệm không sao cất bước. Vì đã có một mối tình đi qua không bùng nổ không dông bão mà in dấu rất sâu trong “ánh chớp số phận”, có lẽ cho đến hết cuộc đời vẫn còn làm chị “lặng lẽ nói cười lặng lẽ nát tan”. May chăng thoát khỏi nỗi buồn u ẩn kia là những “đôi khi” bắt gặp lẽ vô cầu của chiếc gàu cứ thả mình trong sự va đập, của đứa trẻ bán xực tắc mải mê trong tiếng gõ…, là lúc “được bao phủ bởi thứ ánh sáng mơ hồ” của cái quán phi-thời-gian nào đó. Và khi ấy ta gặp lại mộng ước của tuổi 15 “được ra đi / ra đi mãi / về phía dãy núi màu lam sẫm”.
Những bài hay (bài số 3 trong “Năm lời cho bài hát”, “Đôi khi”, “Vườn 2”, “Ra đi”), những câu hay trong tập thơ 29 bài mới ra của Ý Nhi (NXB Văn học) làm ta cảm động một cách dịu dàng, thầm kín, giọng tâm tình nhẹ mà đằm của “người đàn bà ngồi đan” làm nên nhạc điệu bên trong của những câu thơ tự do không vần. Chị đâu cần “tập làm thơ lục bát” để bị bẫy vào những khuôn sáo không xứng với chị! Và những khi chạy theo tứ thơ, ham triết lý hơn là để cảm xúc (cảm xúc không nhất thiết là nước mắt) dẫn dắt thì “người đàn bà ngồi đan” có nguy cơ biến thành… nữ sĩ thanh lịch giữa một xa-lông thơ.
THƠ Ý NHI*
Ba mươi năm, 8 tập thơ đã in, chọn lại trên 130 bài, cuối cùng Ý Nhi trình diện công chúng một chân dung của mình dường như đã định hình vững vàng đến mức chỉ có một biến cố ghê gờm lắm mới có thể làm biến đổi trong tương lai.
Chân dung ấy, hơn chục năm đầu còn lẫn lộn trong một kiểu trang điểm và y phục chung của lớp thiếu nữ đem trái tim được nuôi bằng văn Pa-u và thơ Becgôn đi vào cái thực tế lạ lùng – gian lao mà đầy lãng mạn – của đất Bắc thời chiến, đã đột ngột tách ra khác hẳn trong bối cảnh phức tạp của đời sống hậu chiến. Cô thiếu nữ mơ mộng trở thành “người đàn bà ngồi đan”. Đọïc lại bài thơ mang tên ấy sau gần hai mươi năm, tôi vẫn ngạc nhiên vì sự trầm tĩnh lạ thường của người đàn bà như cô lập trong thế giới riêng của mình giữa những biến động và hiểm họa của thời cuộc khi ấy. “Người đàn bà ngồi đan bên của sổ/vẻ vừa nhẫn nại vừa vội vã/nhẫn nại như thể đó là viêc phải làm suốt đời/vội vã như thể đó là lần sau chót”. Lặng lẽ ngồi, bí ẩn như bản thân đời sống, bình thản như cuộn len dưới chân – quả địa cầu của chúng ta đang chậm rãi lăn trong vũ trụ, chứa đựng trong nó một thực tại mang tính nước đôi muôn thuở: cái gì cũng có thể là điều ngược lạïi với chính nó.
Thi pháp thơ Ý Nhi phơi bày trong bài thơ chủ chốt ấy của đời thơ chị. Kìm nén hoặc để nguội hết những cảm giác tức thời, những cảm xúc bột khởi, thờ ơ với đời sống bản năng, thơ Ý Nhi là một kiểu trữ tình gián cách, những ký ức đã tinh lọc; không ít bài thơ của chị vững chãi trên một cấu tứ khúc chiết, để bật ra ở cuối kết một chiêm nghiệm dễ được đồng cảm. Đây là một lối thơ hiếm trong trào lưu quen thuộc lâu nay của thơ Việt Nam ồn ào, kể lể, dàn trải tâm tình. Cũng hiếm như lựa chọn thể thơ tự do không vần, lắm lúc văn xuôi một cách triệt để của chị. Vì đó là thứ trữ tình của cái ngày thường, rũ bỏ ảo tưởng lãng mạn, “vừa đun nấu trên ngọn lửa bếp dầu chút thức ăn ít ỏi vừa nghĩ đến vẻ đẹp thực chất của bữa ăn”. Chị có xu hướng cảm nhận cuộc đời trong tính hai mặt nghịch lý của nó: Mùa thu có thể là “vòm trời xanh dịu” hay “cơn bão lớn”, tiểu sử của một con người có đầy đủ “lừa dối, phản trắc” và “tin cậy, yêu thương”, tới “ngõ cụt” và “cũng đã tới biển “. Chị nhạy cảm với “cái vạch nhỏ xíu/của thủy chung và phản trắc, của tan vỡ và hy vọng, của hằn thù và tha thứ”.
Không phải lúc nào Ý Nhi cũng làm chủ được chỗ đứng mong manh trên “cái vạch nhỏ xíu” giữa cảm và nghĩ, giữa câu thơ giản dị và lời nói thiếu âm vang. Ngược lại, tôi tiếc cho một năng lực linh cảm và làm xao động lòng người – mà người ta thường coi là thế mạnh của phụ nữ – chưa được chị khai thác đầy đủ. Những giây phút “linh cảm điều lớn lao sẽ xảy ra trong thời khắc ấy” của mùa thu, những bất chợt “ước ao một tiếng gõ bất thường sau cánh cửa”, những đau đớn cuối cùng phải buột ra của người đàn bà khi “đi khỏi mối tình của mình” vụt nhớ lại giây phút định mệnh “trong ánh chớp của phận số/em đã kịp nhìn thấy anh” để rồi phải “lặng lẽ nói cười/lặng lẽ nát tan”, những “đôi khi” tâm trạng buông thả đến vô cầu “như chiếc gàu thả sâu trong lòng giếng/cứ va đập/ va đập mãi vào bờ đất/ cho đến hồi/chỉ còn lại một vốc nước nhỏ… như đứa trẻ bán hủ tiếu rong/tay cứ gõ hoài hai thanh gỗ mỏng/rồi lắng nghe cái âm thanh khô giòn quen thuộc ấy/ta đã quên chuyến đi/đã thôi chờ đợi/ tiếng gọi của khách hàng”.
* NXB HỘI NHÀ VĂN 2000