Hồ sơ Biên bản so sánh – bài 12: Thơ yêu nước & câu chuyện hài hước đen

 

(về bộ ba Nguyễn Việt Chiến – Nguyễn Phan Quế Mai – Lê Vĩnh Tài)

Inrasara

 

Giữa bạt ngàn thơ ra đời từ sự kiện Biển Đông, ba bài thơ: “Tổ quốc nhìn từ biển” của Nguyễn Việt Chiến, “Tổ quốc gọi tên” của Nguyễn Phan Quế Mai, và “Biển kể về nhiều chuyện khác” của Lê Vĩnh Tài là nổi tiếng nhất. Nổi tiếng từ ba vị thế và bằng ba cách thế khác nhau.

“Tổ quốc nhìn từ biển” của Nguyễn Việt Chiến được viết ngay khi anh mãn hạn tù, và chắc chắn đó là một trong những bài thơ “yêu nước” sớm nhất được trình làng từ phía văn học chính thống. Bài thơ “Tổ quốc gọi tên” của Nguyễn Phan Quế Mai nổi tiếng qua ca khúc phổ nhạc “Tổ quốc gọi tên mình” được trình diễn ở rất nhiều sân khấu lớn nhỏ sau đó, nó càng nổi tiếng hơn nữa qua nghi án “đạo thơ”. Riêng Lê Vĩnh Tài, đây là hiện tượng thơ mạng trong thời gian dài, từ “Khi nào bà muốn – xin hãy đến!” xuất hiện ở thời đoạn sự kiện Hoàng Sa – Trường Sa đầu năm 2008 cho đến tận “Trường ca Tây Tạng” đăng trên Tienve.org giữa năm 2015.

Thế nhưng do ở vị thế khác, viết bằng tâm thế khác nên cách thể hiện mỗi nhà thơ mỗi khác. Khác từ thái độ của người thơ, khác qua ngôn từ, thi ảnh, nhịp điệu, khác sang tận tận thi liệu được sử dụng.

 

Nguyễn Việt Chiến (tạp chí Văn nghệ Quân đội, số 5-2009)

TỔ QUỐC NHÌN TỪ BIỂN

 

Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển

Có một phần máu thịt ở Hoàng Sa

Ngàn năm trước con theo cha xuống biển

Mẹ lên rừng thương nhớ mãi Trường Sa

 

Đất Tổ quốc khi chập chờn bóng giặc

Các con nằm thao thức phía Trường Sơn

Biển Tổ quốc chưa một ngày yên ả

Biển cần lao như áo mẹ bạc sờn

 

Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển

Mẹ Âu Cơ hẳn không thể yên lòng

Sóng lớp lớp đè lên thềm lục địa

Trong hồn người có ngọn sóng nào không

 

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao quần đảo

Lạc Long cha nay chưa thấy trở về

Lời cha dặn phải giữ từng thước đất

Máu xương này con cháu vẫn nhớ ghi

 

Đêm trằn trọc nỗi mưa nguồn chớp bể

Thương Lý Sơn đảo khuất giữa mây mù

Thương Cồn Cỏ gối đầu lên sóng dữ

Thương Hòn Mê bão tố phía âm u

 

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao thương tích

Những đau thương trận mạc đã qua rồi

Bao dáng núi còn mang hình goá phụ

Vọng phu buồn vẫn dỗ trẻ, ru nôi

 

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao hiểm họa

Đã mười lần giặc đến tự biển Đông

Những ngọn sóng hoá Bạch Đằng cảm tử

Lũ Thoát Hoan bạc tóc khiếp trống đồng

 

Thương đất nước trên ba ngàn hòn đảo

Suốt ngàn năm bóng giặc vẫn chập chờn

Máu đã đổ ở Trường Sa ngày ấy

Bạn tôi nằm dưới sóng mặn vùi thân

 

Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả

Những chàng trai ra đảo đã quên mình

Một sắc chỉ về Hoàng Sa thửa trước

Còn truyền đời con cháu mãi đinh ninh

 

Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát

Máu xương kia dằng dặc suốt ngàn đời

Hồn dân tộc ngàn năm không chịu khuất

Dáng con tàu vẫn hướng mãi ra khơi

 

Chọn điểm nhìn “từ biển” [chú ý, Nguyễn Duy có bài thơ “Nhìn từ xa… Tổ quốc”], dù Nguyễn Việt Chiến có tăng cường độ của hiểm họa, của tình yêu và của hành động: “Nếu Tổ quốc đang bão giông từ biển”, “Nếu Tổ quốc hôm nay nhìn từ biển”, “Nếu Tổ quốc nhìn từ bao quần đảo”, “Nếu Tổ quốc nhìn từ bao thương tích”, “Nếu Tổ quốc nhìn từ bao hiểm họa”, “Nếu Tổ quốc neo mình đầu sóng cả”, “Nếu Tổ quốc nhìn từ bao mất mát”, thơ vẫn không bật lên cái gì mới, cứ dàn trải với chung chung. Thơ khiến độc giả có cảm tưởng nó viết vào thời đoạn biến động nào của đất nước cũng được, chớ gì phải là ở sự kiện Hoàng Sa – Trường Sa.

Cái chung chung kéo dài đến tận Nguyễn Phan Quế Mai, không khác.

 

Nguyễn Phan Quế Mai (Lethieunhon.com, 23-6-2011)

TỔ QUỐC GỌI TÊN

 

Đêm qua tôi nghe Tổ quốc gọi tên mình

Bằng tiếng sóng Trường Sa, Hoàng Sa dội vào ghềnh đá

Tiếng Tổ quốc vọng về từ biển cả

Nơi bão tố dập dồn, chăng lưới, bủa vây

 

Tổ quốc của tôi, Tổ quốc của tôi!

Bốn nghìn năm chưa bao giờ ngơi nghỉ

Thắp lên ngọn đuốc Hòa bình, bao người đã ngã

Máu của người nhuộm mặn sóng biển Đông

 

Ngày hôm nay kẻ lạ mặt rập rình

Chúng ngang nhiên chia cắt tôi và Tổ quốc

Chúng dẫm đạp lên dáng hình đất nước

Một tấc biển cắt rời, vạn tấc đất đớn đau

 

Sóng chẳng còn bình yên dẫn lối những con tàu

Sóng quặn đỏ máu những người đã mất

Sóng cuồn cuộn từ Nam chí Bắc

Chín mươi triệu môi người thao thức tiếng “Việt Nam”

 

Chín mươi triệu người lấy thân mình chở che Tổ quốc linh thiêng

Để giấc ngủ trẻ thơ bình yên trong bão tố

 

Ngọn đuốc Hòa bình trên tay rực lửa

Tôi lắng nghe

    Tổ quốc

         gọi tên mình!

 

Chung chung với kẻ lạ mặt rập rình, bão tố dập dồn được nâng lên cấp độ sến với bao cụm từ làm sẵn được dùng đến sáo mòn: Bốn nghìn năm chưa bao giờ ngơi nghỉ, thắp lên ngọn đuốc Hòa bình, bao người đã ngã, dẫm đạp lên dáng hình đất nước, lấy thân mình chở che Tổ quốc linh thiêng, giấc ngủ trẻ thơ bình yên trong bão tố, Ngọn đuốc Hòa bình trên tay rực lửa… bất cứ ai cũng dễ dàng nhặt ra từ trang báo ngày, tờ quảng cáo để “sáng tạo” nên một bài thơ.

Thơ với những khẩu hiệu hô hào, cổ vũ như thế, để làm gì, hôm nay? Gương sáng từ Chế Lan Viên ở một thời chưa xa vẫn chưa đủ cho người làm thơ thức tỉnh sao?(*).

 

Lê Vĩnh Tài trước đó và sau này, đã khác hẳn.

 

Lê Vĩnh Tài (Tienve,org, 2008)

BIỂN KỂ VỀ NHIỀU CHUYỆN KHÁC

 Ông Lê Dũng năm 2007: “Việt Nam có đầy đủ bằng chứng về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”

Ông Lê … năm 2027: “Việt Nam có đầy đủ bằng chứng về chủ quyền đảo Phú Quốc”

Ông Lê … năm 2047: “Việt Nam có đầy đủ bằng chứng về chủ quyền thành phố Sài Gòn”

 

lấn ở ải Nam Quan

cướp đất ở Hà Giang

giờ đến biển

vết dao cắt không lành

xanh màu xanh máu của người sốt rét

 

những người lính “nguỵ” đã chết ở đây

những người lính “cách mạng” đã chết ở đây

trời cao đất dày

với 16 chữ vàng

hảo hảo

cô bé quàng khăn đỏ đang tâm giao

cùng chó sói.

 

đêm chia nhau mồi ngon

dưới gầm bàn

 

những chiếc ghế đang diễn vai vua

vua đang diễn vai chim câu khờ khạo

thi sĩ

nếu câu thơ lặng im

là lặng im để chết

đôi mắt trừng trừng vào trời xanh

sau đó người vuốt tay lên mắt

như vuốt lên sự thật

sự thật đang khép lại

ngơ ngác những cuộc biểu tình

ngơ ngác bông hoa đang khóc

ngơ ngác đôi môi bám chặt

vào răng chó sói giữa khơi…

 

thi sĩ

giữa hai bàn tay người

những con chữ vẫn hay đùa cợt

về những điều không sao tin nổi

nhưng đêm nay con chữ đang rơi

nặng nề như đá. Làm chìm lỉm ngoài khơi

một con tàu với một vết thương thật lớn

 

thi sĩ

sau khi người thiếp ngủ

những chiếc ghế vẫn diễn vai vua

vua vẫn diễn vai chim câu khờ khạo

chỉ có một khoảng không ngoài biển khơi

là không sao tin nổi

 

duy có điều nó không lay người dậy

vì vở diễn này

nó tin rằng người đã biết

 

Thơ đề cập đến một thời điểm lịch sử cụ thể:  Ông Lê Dũng năm 2007: “Việt Nam có đầy đủ bằng chứng về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa” với những sự kiện cụ thể: “lấn ở ải Nam Quan/ cướp đất ở Hà Giang/ giờ đến biển”, “với 16 chữ vàng/ hảo hảo”, “ngơ ngác những cuộc biểu tình/ ngơ ngác bông hoa đang khóc”… thì không thể lẫn vào đâu được. Chúng thuộc hôm nay, lù lù trước mắt chúng ta.

Bài thơ Lê Vĩnh Tài còn khác ở điểm nhìn, dù viết về biển, nhưng biển còn “kể về nhiều chuyện khác”. Không chỉ “lần, cướp”, mà còn có cả “ngơ ngác biểu tình”, “đêm chia nhau mồi ngon/ dưới gầm bàn”, có cả “những chiếc ghế đang diễn vai vua/ vua đang diễn vai chim câu khờ khạo”. Nghĩa là qua biển, nhà thơ còn nhìn Tổ quốc từ đất liền, trong đất liền.

Cả hai hiện thực ấy tuột khỏi thơ Nguyễn Việt Chiến lẫn Nguyễn Phan Quế Mai.

Vậy để làm gì, thi sĩ? Chữ “thi sĩ” ba lần lặp lại:

thi sĩ

nếu câu thơ lặng im

là lặng im để chết

… thi sĩ

giữa hai bàn tay người

những con chữ vẫn hay đùa cợt

… thi sĩ

sau khi người thiếp ngủ

những chiếc ghế vẫn diễn vai vua

Lê Vĩnh Tài với tư cách là thi sĩ [cùng trăm thi sĩ ngoại vi khác] đã tỏ thái độ. Bằng lên tiếng và cả hành động. Trong khi ấy, ở phía chính thống, thi sĩ vẫn “lặng im”. Nguyễn Việt Chiến đã muộn, Nguyễn Phan Quế Mai [và ngàn thi sĩ khác] càng muộn màng hơn.

Muộn, và tụt lại phía sau. Cả về ngôn từ, thi ảnh lẫn nhịp điệu thơ. Không thể khác, khi nhà thơ còn mang tâm thức cũ cùng thái độ hướng tâm.

Và điều nữa không thể không nói tới, đó là thái độ của Lê Vĩnh Tài khi xử lý đề tài vốn được cho là nghiêm trọng như sự kiện Hoàng Sa – Trường Sa và vấn đề Biển Đông bằng sự đùa nghịch, hơn thế – một thứ hài hước đen (black humor) hậu hiện đại, là điều cả “Tổ quốc nhìn từ biển” lẫn “Tổ quốc gọi tên” không thể với tới được.

 Ông Lê Dũng năm 2007: “Việt Nam có đầy đủ bằng chứng về chủ quyền hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa”

Ông Lê … năm 2027: “Việt Nam có đầy đủ bằng chứng về chủ quyền đảo Phú Quốc”

Ông Lê … năm 2047: “Việt Nam có đầy đủ bằng chứng về chủ quyền thành phố Sài Gòn”

 

 

 

______

 

(*) Chế Lan Viên: AI? TÔI!

Mậu Thân 2.000 người xuống đồng bằng

Chỉ một đêm, còn sống có 30

Ai chịu trách nhiệm về cái chết 2.000 người đó?

Tôi!

 

Tôi – người viết những câu thơ cổ võ

Ca tụng người không tiếc mạng mình

trong mọi cuộc xung phong.

Một trong ba mươi người kia ở mặt trận về sau mười năm

Ngồi bán quán bên đường nuôi đàn con nhỏ

 

Quán treo huân chương đầy, mọi cỡ,

Chả huân chương nào nuôi được người lính cũ!

Ai chịu trách nhiệm vậy?

Lại chính là tôi!

 

Người lính cần một câu thơ giải đáp về đời,

Tôi ú ớ.

Người ấy nhắc những câu thơ tôi làm người ấy xung phong

Mà tôi xấu hổ.

Tôi chưa có câu thơ nào hôm nay

Giúp người ấy nuôi đàn con nhỏ

Giữa buồn tủi chua cay vẫn có thể cười

(Chế Lan Viên, “Ai? Tôi!”, Di cảo thơ)

 

Comments are closed.