Quỷ vương (tiểu thuyết, kỳ 7 – hết)

Vũ Ngọc Tiến

VU NGOC TIEN.QUY VUONG (1)

Nhà văn Vũ Ngọc Tiến

Sau khi vua Chiêu Tông chết, các thế lực chống đối họ Mạc ở triều đình và quanh kinh thành cũng hầu như tan rã hết. Đất nước Đại Việt thoát khỏi cảnh nội chiến liên miên, dân tình ly loạn và đói khổ cùng cực. Thế nhưng bài học về sự phản trắc của vua Chiêu Tông khiến Mạc Đăng Dung không khỏi suy nghĩ, lao tâm khổ tử. Ông giao mọi việc ở trong triều cho con trai Mạc Đăng Doanh giải quyết, còn mình ngoài giờ tập võ ra, suốt ngày đóng cửa thư phòng, trầm ngâm suy tính mọi việc xa gần.

Triều đại nhà Lê sau khi Thánh Tông chết, liên tục chìm đắm trong suy thoái suốt 29 năm qua. Nó đang như cơ thể người mắc bệnh nan y, không có thuốc nào chữa trị được nữa. Lê Xuân chỉ là con bài do ta dựng lên để làm bước đệm trong quá trình dẹp loạn Trịnh Tuy. Dẫu sao vua Cung Hoàng cũng vẫn là em ruột của Chiêu Tông.

Bề ngoài Xuân tỏ ra nhu mì, bảo sao nghe vậy, tin tưởng giao toàn bộ binh quyền và công việc triều chính cho cha con ta tùy nghi định đoạt, nhưng bụng dạ bên trong chưa biết thế nào. Nay thấy anh mình chết, Cung Hoàng rất có thể đang ngấm ngầm chuẩn bị kế hoạch ám hại ta lần nữa như anh hắn đã từng làm. Và như thế, Đại Việt lại thêm một phen loạn lạc, chỉ khổ dân hại nước mà thôi, chi bằng ta đào mồ chôn cái triều đại thối nát này cho nó chết hẳn. Có thế cha con ta mới rảnh tay làm cuộc biến pháp canh tân, chấn hưng nước Việt.

Tình hình ở các lộ phía Bắc từ đất Trường Yên trở ra hiện không còn điểm gì lớn đáng để ta lo ngại. Duy có hai xứ Thanh- Nghệ vốn là đất khởi nghiệp của vua Lê Thái Tổ, dân chúng có tinh thần thượng võ, lại có nhiều bậc sĩ phu tài giỏi vẫn còn u mê ngu trung với nhà Lê.

Vừa rồi Đăng Doanh theo lệnh ta, viết thư nhờ Bùi Trụ vào tận vùng quê làng Hội Triều ở phủ Hà Trung để thuyết phục cha con ông Lương Đắc Bằng quay về kinh phụng sự cho họ Mạc đã thất bại là một minh chứng rõ nhất. Đắc Bằng lấy cớ già yếu, chỉ muốn an phận ở quê mở trường dạy học và nghiên cứu dịch lý trong Thái ất thần kinh ta còn hiểu được. Nhưng con trai ông ấy là Hữu Khánh văn võ song toàn, vốn rất thân thiết với Bùi Trụ và Đăng Doanh khi ba đứa cùng học với nhau ở trường Quốc Tử Giám mà vẫn một mực từ chối, không chịu hợp tác với họ Mạc, thật đáng quan ngại.

Xứ Thanh còn có những kẻ như Nguyễn Kim, con của Nguyễn Hoằng Dụ, dòng dõi thế gia vọng tộc, có tài kinh bang tế thế, uy tín lớn trong vùng không thể xem thường. Một khi ta truất ngôi vua của Lê Cung Hoàng, hai xứ Thanh- Nghệ theo Nguyễn Kim nổi loạn thì cả một dải đất dài và hiểm trở từ sông Mã vào đến Thuận Hóa khó bề kiểm soát, nội chiến lại sẽ nổ ra không biết bao giờ mới dứt…

Những điều ấy ta đã tính hết, có kế hoạch chuẩn bí đối phó kỹ càng, nhưng vẫn còn phải trông cậy vào điềm trời vận nước mà thôi. Điều làm ta hao tổn trí lực nhất chính là giành được ngôi vua rồi, triều đình mới của họ Mạc do ta sáng lập phải có kế sách mới và táo bạo, vượt lên trên so với các triều đại trước để Đại Việt ngày càng thêm phồn thịnh, dân giầu nước mạnh.

Từ lâu ta hằng nghĩ, nước ta có bờ biển dài, nhiều hải đảo xinh đẹp và đông dân lại lắm nơi có địa thế thuận cho việc xây dựng cảng biển, nhưng sao nghề muối của diêm dân, nghề cá của ngư dân không khấm khá lên được, còn việc giao thương vẫn chỉ quẩn quanh trong đất liền?

Đó là vì dưới các triều đại Lý- Trần- Lê, ta chưa thấy có một đô trấn đủ lớn và sầm uất nào mọc lên ở ven biển. Tận thẳm sâu ta mơ ước Đại Việt từ nay sẽ vươn mình ra biển Đông. Muốn đạt tới mong ước ấy phải có thương cảng và quân cảng đủ mạnh, đồng thời phải có xưởng đóng thuyền gỗ thật to để ngư dân và các thương nhân trong nước vươn khơi bám biển lâu ngày. Hải binh cũng phải mạnh, thường xuyên tuần phòng ở các ngư trường và hải đảo để ngăn chặn bọn hải tặc, bảo vệ ngư dân dân, thương nhân nước Đại Việt trên các hải trình ở giữa biển Đông mênh mông sóng nước.

Ta vốn là dân chài lưới nên hiểu rõ hơn ai hết, huyện Nghi Dương và toàn phủ Kinh Môn có nhiều cửa sông lớn, lạch nước sâu, ngư dân đông đúc nên hội tụ đầy đủ các điều kiện để xây dựng nên một đô trấn sầm uất ven biển. Mặt khác đã thành thông lệ, triều vua nào mới lên cũng đều xây dựng hành cung ở quê hương làm nơi nghỉ dưỡng và thờ tự.

Nhà Lý xây hành cung ở đất Từ Sơn để thờ cúng tổ tiên. Nhà Trần xây hành cung ở phủ Long Hưng để thờ cúng và còn xây thêm hành cung rất lớn ở Tức Mạc thuộc phủ Thiên Trường để làm nơi nghỉ dưỡng cho các Thượng hoàng và vương công, quý tộc. Nhà Lê cũng đã từng xây Lam Kinh rất nguy nga, tráng lệ nhưng cũng chỉ để thờ cúng và nghỉ dưỡng…

Nay ta sẽ lấy làng Cổ Trai và cửa sông Văn Úc làm trung tâm, biến huyện Nghi Dương thành Dương Kinh, nhưng không chỉ là nơi thờ tự và nghỉ dưỡng như các triều vua trước. Trong vài năm tới, Dương Kinh của ta sẽ phải trở thành một đô trấn ven biển xứ Đông ngày càng sầm uất và mở rộng, không thua kém gì kinh thành Đông Đô hiện nay. Nơi đó ngoài nhà tổ đình họ Mạc, khu lăng mộ gia phụ, gia mẫu của ta và các cung điện ở quanh làng Cổ Trai, ta sẽ còn cho xây dựng một trường quốc học sánh ngang với Quốc Tử Giám, các khu phố thị và cảng biển, xưởng đóng thuyền gỗ lớn ở các cửa sông Tam Bạc, sông Cấm, sông Văn Úc…

Ta được biết gần đây Bùi Trụ đã giúp Đăng Doanh quy tụ được khá đông các nhân tài trẻ tuổi, giàu nhiệt huyết trong giới sĩ phu ở kinh thành và các vùng miền có truyền thống khoa bảng. Công cuộc kiến thiết Dương kinh sắp tới rất cần sự đóng góp của lớp trẻ ấy. Có lẽ ta sẽ chọn ra dăm người trong số họ cùng với Bùi Trụ gấp rút về ăn ngủ tại quê nhà Cổ Trai để trực tiếp thị sát mạng lưới cửa sông, đường sá, bãi biển và các làng chài trong đất liền cũng như ngoài hải đảo. Sau một tuần trăng, họ sẽ giúp ta vẽ lại địa đồ thật chi tiết huyện Nghi Dương và toàn phủ Kinh Môn, từ đó đề xuất ra từng địa điểm đắc dụng cần xây dựng trong hai hoặc ba năm tới. Ta tin ở tài năng và tâm huyết của Bùi Trụ sẽ chỉ huy nhóm sĩ phu trẻ hoàn thành tốt việc này…

Mạc Đăng Dung bấm đốt ngón tay dự tính, giờ đang là tháng chạp năm Bính Tuất – 1526, vua Chiêu Tông vừa mới chết nên triều đình còn một số việc quan trọng cần sự có mặt của ta. Nhóm sĩ phu trẻ do Bùi Trụ dẫn đầu sẽ đi trước, còn ta đợi sang tháng Giêng năm Đinh Hợi sẽ cáo mệt về quê an dưỡng một thời gian để tổng duyệt lại kế hoạch xây dựng Dương Kinh do Bùi Trụ thuyết trình. Lúc ta trở lại kinh thành cũng sẽ là lúc khởi đầu một vương triều mới của họ Mạc ở đất đế đô rực rỡ văn hiến của nước Đại Việt.

Lòng ông tràn ngập niềm vui, lâng lâng sung sướng…

Ngày rằm tháng giêng năm Đinh Hợi, vua Lê Chiêu Tông thiết triều buổi đầu năm ở điện Kính Thiên. Văn võ bá quan tung hô “vạn tuế”, thay nhau chúc mừng năm mới lên vua và hoàng tộc trong cung. Mạc Đăng Dung bước ra tâu với vua xin về Cổ Trai thăm phần mộ song thân và lưu lại nghỉ dưỡng một thời gian. Vua và triều thần ngơ ngác nhìn nhau, không ai hiểu rõ ý tứ của quan Thái phó, Nhân quốc công họ Mạc.

Ông ôn tồn giải thích, mình tuổi đã cao, trải qua những năm gian khó ngoài trận mạc, nay tự thấy trong người sức khỏe giảm sút, chỉ muốn nghỉ ngơi cho lại sức. Mọi việc ở phủ Thái phó ông sẽ tạm giao lại cho con trai thay mình giải quyết. Vua Chiêu Tông nghe vậy cảm thấy yên tâm, vui vẻ chấp thuận.

Mạc Đăng Doanh tiễn cha ra tận bến Bắc Thần vì lần này về quê, ông không muốn đi ngựa mà ngồi thuyền đi theo đường sông ngắm cảnh. Đi theo hầu cận, bảo vệ ông có tướng tâm phúc Vũ Hộ và 300 dũng sĩ quê ở huyện Nghi Dương.

Nắng xuân ấm áp trải vàng trên bãi sông. Gió xuân hây thổi nhẹ dọc triền đê, chấp chới những cánh chim én chao liệng giữa không gian bát ngát. Chàng dặn mọi người cảnh giác đề phòng thích khách, còn mình tần ngần nhìn theo bóng con thuyền đưa cha đi xa mới chịu quay về.

Hồi tháng chạp năm ngoái, chàng cũng đã từng đưa tiễn vợ chồng Bùi Trụ và nhóm sĩ phu trẻ ở bến sông này. Nhìn nét mặt rạng ngời của nàng Lệ Thanh nắm chặt tay Bùi Trụ, háo hức bước xuống thuyền, chàng cảm thấy xao xuyến, bồi hồi trước hạnh phúc của bạn. Chính cha con chàng đã ra sức thuyết phục tiên sinh Bùi Xương Trạch chấp thuận cho nàng Lệ Thành về làm dâu họ Bùi. Giờ nàng lại có dịp cùng chồng về làng Cổ Trai ngắm cảnh đồng quê bên dòng sông Văn Úc hay ra biển ngắm cảnh bình minh, thăm thú các làng chài, chợ cá hoặc ngồi thuyền du ngoạn tận đảo Cát Bà, thật hạnh phúc biết bao, bõ những năm đau khổ, dằn vặt bởi sự trớ trêu của số phận nghiệt ngã.

Đăng Doanh nhớ lại mọi lời dặn dò mẹo mực của cha trước lúc ra đi. Chàng sẽ thản nhiên ứng xử khiêm nhường, lễ phép với vua và các quan đại thần trong triều. Mặt khác, chàng sẽ nhân danh thay mặt quan Thái phó, bí mật điều chuyển các tướng trung thành, có tài thao lược về nắm quân binh ở 13 lộ trong cả nước; thay thế các quan bất tài hay lười nhác đang trị nhậm ở các phủ, huyện gần kinh thành bằng những người trẻ trong giới sĩ phu lâu nay quy tụ quanh mình. Ty đô quân cấm vệ của Mạc Đăng Quyết cũng ráo riết chuẩn bị ứng phó mọi tình huống khi Đăng Dung bất ngờ quay về triều…

Mạc Đăng Dung về đến Cổ Trai đã thấy các bô lão trong làng, vợ chồng Bùi Trụ và các sĩ phu trẻ trong nhóm khảo sát thực địa đứng chật ở cổng làng chờ đợi đón tiếp trong tiếng kèn trống tưng bừng, cờ bay phấp phới. Ông ân cần úy lạo mọi người rồi theo nhóm Bùi Trụ cầm lọng che nắng, cung kính dẫn đường về tư dinh ở chính giữa làng.

Vào trong thư phòng, ông rất vui khi nhìn thấy bức địa đồ chi tiết của huyện Nghi Dương và toàn phủ Kinh Môn đã được nhóm khảo sát của Bùi Trụ hoàn tất trên nền vải mộc. Nó treo kín cả một mặt tường, có đánh dấu các địa điểm dự kiến xây dựng, chú thích và minh họa rõ ràng ở mép dưới bức địa đồ.

Sau đó, Bùi Trụ mời ông ra sau vườn xem kỹ hai sa bàn đắp bằng đất sét. Một sa bàn mô tả khu vực sẽ xây dựng dọc theo sông Văn Úc, lấy làng Cổ Trai làm trung tâm. Trên sa bàn ấy hiện lên các công trình kiểu dáng tôn nghiêm và đẹp mắt gồm: nhà tổ đình Mạc tộc, khu lăng mộ của song thân Mạc Đăng Dung, Các Dương Tự, điện Tường Quang, cung Phúc Huy, phủ Hưng Quốc, đồn binh, kho lương và cả một trường quốc học rộng lớn, nằm ngay sát bờ sông Văn Úc. Bên kia sông, ở gần bến đò An Tháp, đối diện với khu trường quốc học là ngôi chùa Vọng Phúc có từ đời vua Lý Thần Tông, nhưng đã bị hư nát nên sẽ được xây dựng lại to đẹp gấp nhiều lần.

Một sa bàn khác lớn hơn mô tả khu vực dự kiến sẽ xây dựng thành một đô trấn ven biển gồm: xưởng đóng thuyền gỗ lớn ở cửa sông Đá Bạc; thương cảng ở cửa sông Cấm, đi theo nó là phố thị An Quý; quân cảng ở cửa sông Lach Tray, đi theo nó là phố thị Do Nha; nối hai phố thị An Quý và Do Nha là trục đường cái quan rất rộng, bám theo nó là nhiều phố buôn theo hình xương cá để hình thành nên cả một khu phố thị Lỗ Minh rộng lớn và sầm uất sau này.

Mạc Đăng Dung chăm chú lắng nghe Bùi Trụ sôi nổi thuyết trình hai sa bàn xong, lấy làm tâm đắc, gật đầu tán thưởng, khen ngợi hết lời. Hồi lâu ông hỏi Bùi Trụ:

– Vì sao ở sa bàn thứ nhất, các ngươi lại dự định xây dựng lại chùa Vọng Phúc bên kia sông to đẹp nhường ấy?

– Bẩm minh công, ngay từ buổi đại quân ở lộ Hải Dương kéo về kinh thành, Đăng Doanh đã tìm gặp thần bàn bạc ý tưởng cách tân nền học nước nhà theo hướng phá bỏ sự độc tôn thống soái của đạo Nho dưới triều vua Lê Thánh Tông, trở lại với tư tưởng tam giáo đồng nguyên của các vua triều Trần. Vì vậy thần muốn đề xuất xây dựng lại chùa Vọng Phúc hoàn toàn bằng gỗ thật to đẹp, sau đó mời một vị cao tăng ở chùa Vĩnh Nghiêm trên mạn Bắc Giang về đây trụ trì, truyền bá giáo lý đạo Phật của Thiền tông Trúc Lâm trong dân chúng và để các học trò ở trường quốc họp có dịp tiếp xúc và học hỏi những điều căn cốt trong tư tưởng huyền diệu của Phật hoàng Trần Nhân Tông mà mở mang tầm mắt. Ngoài chùa này ra, các chùa khác trong huyện Nghi Dương và khắp phủ Kinh Môn cũng nên khuyến khích tăng ni, phật tử trùng tu để đạo Phật nước nhà phục hưng trở lại, sau 100 năm bị nhà Lê hắt hủi, ngược đãi.

– Tốt lắm, cứ theo thế mà làm! Tối nay ta sẽ mở tiệc mời các bô lão trong làng cùng uống rượu chúc mừng một Dương Kinh sắp được khởi công.

Đêm ấy, sau khi dự tiệc xong, Bùi Trụ về phòng ôm chặt Lệ Thanh trong lòng, bồi hồi xúc động. Chàng không ngờ đời mình lại có cơ hội cùng nàng chứng kiến thời khắc huy hoàng của lịch sử, chào đón triều đại mới ra đời, dẫn dắt dân nước Đại Việt tiến ra biển lớn từ đất Dương Kinh do chàng góp công xây dựng. Rồi đây những vật phẩm thủ công đặc sắc của Đại Việt như tơ lụa Vạn Phúc, gấm lĩnh Trích Sài, giấy bản Yên Thái, đồ đồng mỹ nghệ Đại Bái, gốm sứ Bát Tràng hay Chu Đậu… sẽ dồn về cảng biển ở Dương Kinh, xuống thuyền cho người Việt đi giao thương với các nước Chiêm Thành, Chân Lạp, Chà Và và các đảo quốc xa xôi trên biển.

Những điều ta và Đăng Doanh tâm đắc về cách tân nền học nước nhà trong cái đêm đáng nhớ ở sân chùa Tiên Thiên năm nào đang dần trở thành hiện thực. Đêm xuân ở Cổ Trai bên sông Văn Úc đất trời thơm thảo, yên tĩnh lạ thường. Bùi Trụ trút ào cơn mưa tình ái lên nàng Lệ Thanh, ngất ngây hạnh phúc, chan chứa niềm vui và hy vọng…

Tháng tư năm Đinh Hợi – 1527, Lê Cung Hoàng sai sứ thần về tận Cổ Trai tấn phong Mạc Đăng Dung làm An Hưng vương và so sánh ông với Chu Công phò nhà Chu bên Tàu thời cổ đại. Tuy nhiên ông chỉ cười nhạt, đãi đằng rất hậu cho sứ giả của triều đình.

Ngày rằm tháng 6 năm đó, Mạc Đăng Dung đột ngột từ Cổ Trai về kinh ép Lê Cung Hoàng viết chiếu nhường ngôi do Bùi Trụ thảo sẵn, vua chỉ việc chép lại và tuyên đọc giữa quần thần ở điện Kính Thiên. Chiếu nhường ngôi có đoạn viết: “Từ cuối đời Hồng Thuận gặp lúc quốc gia nhiều nạn, Trịnh Duy Sản lập kẻ nghịch lên ngôi, lòng người lìa tan, trời cũng không giúp, lúc ấy thiên hạ đã không phải của nhà Lê vậy. Trẫm bạc đức nối ngôi không thể gánh nổi, mệnh trời và lòng dân hướng về người có đức. Vậy nay Thái sư An Hưng vương Mạc Đăng Dung là người trí đức, tư chất thông minh, đủ tài văn võ, bên ngoài đánh dẹp, bốn phương đều phục, bên trong trị nước thiên hạ yên vui, công đức rất lớn lao, trời người đều qui phục, nên trẫm theo lẽ phải nhường ngôi cho…"

Mạc Đăng Dung khoác tấm hoàng bào, hiên ngang đi giữa hai hàng dũng sĩ gốc quê huyện Nghi Dương, bước lên điện nhận lại vương miện, quyền trượng và ngọc tỷ từ tay Cung Hoàng. Ông khoan thai ngồi lên ngai vàng dõng dạc bố cáo cùng triều thần và thần dân trăm họ, thiên hạ từ nay thuộc về họ Mạc nắm quyền cai quản, chấn hưng Đại Việt.

Vua lấy đế hiệu là Mạc Thái Tổ, phong Đăng Doanh làm Thái tử, cải niên hiệu thành Minh Đức năm thứ nhất. Ông cũng truyền chỉ cho đúc tiền Thông Bảo, san định binh chế, điền chế, lộc chế và đặt các vệ phủ, vệ sở trong ngoài, các ty sở thuộc, hiệu ty và số lại viên, số người, số lính của các nha môn, nhưng về căn bản vẫn phỏng theo quan chế triều trước đã định từ thời Lê Thánh Tông để không có quá nhiều xáo trộn, ảnh hưởng đến dân tình…

Tan buổi chầu, Đăng Doanh ghé tai Bùi Trụ thì thầm rồi dắt tay chàng vào cung. Vua Mạc Thái Tổ đang lững thững đi dạo trong vườn thượng uyển, nhác thấy Bùi Trụ, ông vờ như không hay biết, quay mặt sang hướng khác và hỏi Đăng Doanh:

– Thái tử đấy à, Bùi Trụ đến chưa?

Bùi Trụ toát mồ hôi vì hoảng sợ, vội chạy lại gần quỳ xuống thưa:

– Tâu hoàng thượng, thần đã có mặt.

Vua quay lại nhìn chàng hồi lâu, trìu mến nói:

– Không cần đa lễ, khanh hãy bình thân. Trẫm chỉ thắc mắc sao buổi chầu hôm nay không thấy ông Bùi Xương Trạch và nhiều người khác?

– Tâu hoàng thượng, gia phụ của thần và các bạn đồng liêu đã hứa phò giúp nhà Mạc, quyết không dám sai lời, chỉ có ý tránh miệng lưỡi người đời chê bai họ vì ham chức quyền mà bỏ Lê theo Mạc. Cúi xin hoàng thượng minh xét. Gia phụ cũng bảo thần xin với hoàng thượng cho làm người ở hậu trường, chỉ đi vận động các quan và giới sĩ phu ra làm việc, còn mình đã bảy bảy tuổi không thể tại vị trong triều nhà Mạc được.

– Trẫm muốn ban thưởng, phong cho khanh làm Thượng thư Bộ Công để có đủ quyền đôn đốc việc xây dựng Dương Kinh. Vậy ý khanh thế nào?

– Tâu hoàng thượng, thần chỉ là kẻ nho sinh kiến thức nông cạn, uy tín chưa cao, lại chưa có vinh dự đứng vào hàng khoa bảng nên không dám nhận. Thần chỉ cầu xin hoàng thượng ban một chức quan nhỏ, giúp việc trong phủ Thái tử là mãn nguyện lắm rồi.

Đăng Doanh thấy vậy đỡ lời:

– Thưa phụ hoàng, cha con họ Bùi đều đang giữ ý với đám quần thần và giới sĩ phu cả nước. Nhi thần trộm nghĩ chức tước cao thấp không quan trọng bằng tâm huyết dành cho Dương Kinh. Điều này thần nhi biết Bùi Trụ có thừa. Cho huynh ấy làm việc ở phủ Thái tử, chúng thần có nhiều cơ hội đàm luận cùng nhau, còn về trọng trách với Dương Kinh, phủ Thái tử vẫn giao cho Bùi Trụ thay mặt thần nhi đảm nhận là đủ, không ai dám to gan chống lệnh.

Mạc Thái Tổ gật đầu tỏ ý hài lòng. Ông lựa lời úy lạo, động viên Bùi Trụ và nói:

– Trẫm ở Cổ Trai đã biết khanh với Đăng Doanh thân thiết tình như thủ túc và cùng dành nhiều tâm huyết cho việc đổi mới nền học nước nhà. Giờ khanh hãy giãi bầy hết tâm can cho trẫm nghe thử.

– Muôn tâu hoàng thượng! Triều đại Lê Thánh Tông được các sử gia coi là cực thịnh, nhưng theo thần vẫn còn có những điểm cần chê trách. Sự lớn mạnh của Đại Việt về các mặt triều chính, binh lực, hay kế sách khuyến nông, khuyến công, khuyến thương, lập Tao Đàn với 28 thi bá… trong 37 năm ông cầm quyền là không thể xóa mờ. Cái sai lầm lớn của Thánh Tông là vẫn theo nếp nghĩ cũ kỹ của Lê Thái Tổ, bị ám ảnh bởi tư tưởng tự ty với các vua Trần, lo sợ ảnh hưởng của Phật giáo Trần Nhân Tông trong bách tính nên tận thẳm sâu ông không thể “thoát Tàu”. Ông đã thẳng tay bác bỏ thi tam giáo trong thi cử khoa bảng thời Trần, bê nguyên xi cái hình mẫu khoa cử của nhà Minh vào nước ta. Các nhà sư ở kinh thành bị chèn ép, xua đuổi về những vùng quê hẻo lánh, đa phần bỏ Thiền tông minh triết của vua Trần, hùa theo Mật tông tu bằng bùa chú hỗn dung với đạo Mẫu huyền bí, mất đi sự tinh túy, thâm viễn của đạo Phật Thiền tông Trúc Lâm Yên Tử.

Kết cục dưới triều Lê Thánh Tông, Nho giáo thịnh hành ngỡ là rực rỡ mà thực chất đạo học ngày một suy đồi, nảy nòi ra một lũ sĩ phu đa phần là hư học, hủ lậu, tham lam, độc ác. Vòng kim cô tư tưởng ấy càng trầm trọng với các hoàng tử triều Lê. Năm Đinh Tỵ – 1497, vua Lê Thánh Tông chết, để lại một khoảng trống quyền lực không thể lấp đầy, các phe nhóm quyền lực tranh giành nhau, cái ác lộng hành trong xã hội nên mới lắm quỷ vương, quỷ quan đến thế, chỉ làm khổ dân nát nước.

Sự mục nát của vương triều lên đến đỉnh điểm khi vua Lê Hiến Tông chết – 1505, sứ thần nhà Minh sang cài đặt một mạng lưới nội gián luồn sâu vào tận cung đình để kích động và chia rẽ, mặt khác tìm mọi cách khai thác sâu tính hiếu sát, đa dâm để tha hóa ông vua trẻ Lê Uy Mục vốn đã có sẵn máu quỷ trong người, càng thêm hung hãn, dâm loạn. Giết được Uy Mục, khi Tương Dực lên thay lúc đầu còn là ông vua không đến nỗi tệ, nhưng sau đó cũng bị bọn tay sai nhà Minh biến thành ông vua quỷ thứ hai, đưa đất nước loạn càng thêm loạn.

Những ngày ở Cổ Trai, thần càng phấn khởi và tin tưởng vào tầm nhìn chiến lược hướng ra biển Đông của hoàng thượng. Vậy nên hoàng thượng lên ngôi là thuận với ý trời lòng dân, nhưng muốn làm cuộc chấn hưng Đại Việt tất phải biến pháp canh tân, đổi mới tận gốc nhiều thứ, nhất là việc học hành, khoa cử nước nhà. Mọi đường đi nước bước để đổi mới nền học, cải tiến chế độ khoa cử, thần đã bẩm trình lên Thái tử từ nhiều năm trước, mong được hoàng thượng để tâm minh xét. Được như vậy thần xin hứa sẽ thuyết phục gia phụ và hai bào đệ theo hầu, đem thân khuyển mã mà tận lực giúp hoàng thượng và Thái tử làm nên đại nghiệp…

Mạc Thái Tổ lên ngôi chưa lâu, đất nước yên bình trở lại, nhưng triều đình liên tiếp nhận được tin xấu. Mùa hè năm Mậu Tý – 1528, thám tử cấp báo về kinh có tin đồn trong dân chúng hai xứ Thanh- Nghệ rằng, Nguyễn Kim cùng con rể Trịnh Kiểm và Lương Hữu Khánh dẫn theo hơn ba nghìn quân sĩ chạy sang xứ Bồn Man của nước Lão Qua xây dựng căn cứ, chiêu mộ người tài, thanh thế rất lớn. Một mặt Nguyễn Kim sai người bí mật về nước tìm kiếm con cháu vua Lê tôn làm minh chủ để giương cờ phò Lê diệt Mạc. Một mặt khác, ông ta cử sứ giả sang nước Minh cầu viện, hứa sẽ đời đời thần phục, cống nạp cho nhà Minh nếu chúng đem quân sang giúp.

Đến tháng tám năm Mậu Tý vua Minh Thế Tông là Chu Hậu Thông cử sứ thần sang Đông Đô, mang theo chiếu thư hạch tội nhà Mạc cướp ngôi nhà Lê và đưa ra rất nhiều yêu sách đối với vua Mạc Thái Tổ. Ông xem qua chiếu thư, rất điềm tĩnh mềm mỏng tiếp đãi sứ thần, ban thưởng nhiều vàng bạc và vật phẩm quý giá, sau đó sai người đưa ra quán dịch nghỉ ngơi, hẹn ba ngày sau có chiếu thư phúc đáp.

Suốt ba ngày liền Mạc Đăng Dung giam mình trong phòng căng thẳng suy nghĩ, biếng ăn quên ngủ. Ông đọc đã nhàu nát, tự nhủ thầm sau mỗi điều khoản trong chiếu thư của Chu Hậu Thông đưa ra: Chuyện cống nạp thì trước nay vẫn vậy, nước nhỏ cống nạp nước lớn cha ông ta vẫn làm đấy thôi. Còn việc họ bắt ta dùng lịch Tàu, các triều đại trước có thời cũng từng theo ngày Sóc, ngày Vọng do họ tính toán, nay cứ tạm coi như ta tạm mượn họ dùng lại có sao đâu. Ngay cả việc vua Minh Thế Tông trách cứ nhà Mạc tự ý tiếm ngôi nhà Lê, không cho ta xưng đế, phải nhận sắc phong của hắn cho làm An Nam quốc vương cũng chẳng có gì đáng ngại, miễn sao nhà Mạc vẫn làm chủ cai quản đất nước để dân chúng Đại Việt được yên ổn làm ăn.

Cái điều đau đầu nhức óc nhất là chúng đòi ta công nhận hai châu Quy Hóa, Thuận An vĩnh viễn là lãnh thổ nhà Minh. Thực ra, sách sử hai nước còn ghi rõ các châu Quy Hoá và Thuận An vốn đã mất vào tay nhà Tống từ thời nhà Lý. Năm Nhâm Tý – 1072 Lý Thánh Tông chết đã xảy ra vụ Thái hậu Thượng Dương và 72 cung nữ bị chôn sống theo vua. Đến năm Quý Sửu – 1073 lợi dụng lúc kinh thành Thăng Long rối ren, bọn thủ lĩnh người Tày bán nước là Nùng Trí Hội và Nùng Trí Cao đã hèn hạ dâng nộp hai châu Quy Hóa, Thuận An cho nhà Tống. Kể từ đó, trải mấy trăm năm và qua bao nhiêu triều vua, nước ta vẫn chưa đòi lại được. Nay Minh Thế Tông bới lại lịch sử, ép ta thừa nhận trên chiếu thư phúc đáp một sự việc đã rồi, bề ngoài ngỡ đơn giản, nhưng bên trong lại là mưu kế vô cùng thâm độc. Nếu ta khước từ, giặc Minh sẽ có cớ đem quân sang xâm lược. Còn nếu ta ưng thuận sẽ là điều điếm nhục cho họ Mạc và bọn Nguyễn Kim tất sẽ lợi dụng vu khống ta bán nước cầu vinh để khuấy động cuộc chiến phò Lê diệt Mạc…

Thái tử Đăng Doanh chưa được đọc chiếu thư của Minh Thế Tông, không rõ trong đó viết gì khiến vua cha lo lắng đến vậy. Ngày nào chàng cũng túc trực bên thềm cung Diên Thọ, nhưng lính canh không cho vào vì vua có lệnh không tiếp bất cứ ai, kẻ nào trái lệnh cho phép chém trước tâu sau. Lòng chàng như lửa đốt khi nghe đám thái giám và cung nữ bẩm rằng, vua vì lo nghĩ quá nhiều nên dáng người phờ phạc, đôi mắt thâm quầng, luôn miệng khúng khắng ho khan.

Mờ sáng ngày thứ ba là thời hạn cuối cùng đã hứa, vua Mạc Thái Tổ sẽ phải thiết triều ở điện Kính Thiên, trao chiếu thư phúc đáp cho sứ thần nhà Minh đem về phương Bắc. Đăng Doanh không thể ghìm lòng được nữa. Chàng xông thẳng vào trong cung Diên Thọ, đập đầu xuống sàn khóc to, đòi gặp bằng được vua cha. Đăng Dung không nỡ khép tội con trai, ra lệnh mở cửa cho chàng vào trong thư phòng cùng ông trò chuyện. Đăng Doanh vừa khóc vừa nói:

– Muôn tâu phụ hoàng! Thần nhi không thể hiểu nổi, bao năm qua dù gặp việc gì khó xử, phụ hoàng đều gọi thần nhi bàn bạc; sao lần này phụ hoàng lại tự giam mình sau cánh cửa suy nghĩ lao lung, hủy hoại tấm thân khiến thần nhi vô cùng đau xót, hoang mang?

– Con hãy đọc chiếu thư của Chu Hậu Thông thì khắc hiểu cha lo nghĩ điều gì nhất.

Đăng Doanh cầm chiếu thư đọc đi đọc lại nhiều lần. Chàng cũng giống như vua cha, bỏ qua các điều khoản nước lớn bắt nạt nước nhỏ không thèm chấp, nhưng với điều khoản về hai châu Quy Hóa, Thuận An thì không thể thỏa hiệp.

Mạc Đăng Dung mệt mỏi thở dài nói:

– Hai châu này trên thực tế, chúng đã cướp của Đại Việt từ thời Lý nên ta vô cùng bối rối.

– Dù rằng thế vẫn ngàn lần không, vạn lần không, thưa phụ hoàng!

– Nhưng nếu ta cự tuyệt, chúng sẽ có cớ đem quân sang đánh, lúc đó triều đình nhà Mạc vừa mới lập nên đã rơi ngay vào thế lưỡng đầu thọ địch, làm sao chống đỡ? Dương Kinh cũng vừa mới bắt tay vào xây dựng sẽ phải ngừng trệ, chiến lược đưa đất nước vươn ra biển Đông của cha con ta thành xôi hỏng bỏng không, con có hiểu không?

– Tâm trạng ấy của phụ hoàng sao thần nhi lại không hiểu. Chỉ e khi phụ hoàng chấp thuận yêu sách của vua tôi nhà Minh, dù thực chất chỉ là gánh tội dâng đất cho giặc thay bọn Nùng Trí Hậu, Nùng Trí Cao từ thời Lý, nhưng hậu thế vẫn phán xét nhà Mạc vì ngai vàng quyền lực mà bán rẻ đất đai của tổ tiên để lại. Mối nhục này muôn đời không rửa sạch được đâu.

– Cha muốn con hãy thử hình dung, khi giặc Minh đem quân sang từ mặt Bắc đánh xuống, dư đảng nhà Lê do Nguyễn Kim chỉ huy thừa cơ kéo quân từ Bồn Man về chiếm hai xứ Thanh- Nghệ rồi từ mặt Nam đánh lên, kẹp nhà Mạc ta ở giữa, sớm muộn cũng sẽ bị tiêu diệt, con ơi!

– Điều này thần nhi dám chắc rằng không xảy ra, thưa phụ hoàng!

– Vì sao? Con mau nói cho cha nghe thử đi nào.

– Trước tiên thần nhi khẳng định các đời vua Minh chưa bao giờ từ bỏ dã tâm xâm chiếm nước ta. Chúng chưa dám chỉ vì từ thời vua Tuyên Đức đến thời vua Thế Tông hiện nay, nước Minh luôn có nội loạn mà thôi. Thần nhi từ lâu đã tìm hiểu được biết, Vua Minh Tuyên Tông ôm mối nhục chịu thua Lê Lợi, phải cắn răng đến bật máu tươi, lệnh cho Vương Thông ký hòa ước, thực chất là đầu hàng nghĩa quân Lam Sơn, rút hết người ngựa, vũ khí, thuyền bè về nước. Trước khi hắn chết đã viết chiếu dặn lại các Hoàng đế đời sau thường xuyên rình rập cơ hội đem quân xâm chiếm nước ta lần nữa, nô dịch và đồng hóa người Việt. Lẽ ra năm Đinh Tỵ – 1497 Lê Thánh Tông băng hà là cơ hội vàng để chúng thực hiện dã tâm xâm lược theo di ngôn của Minh Tuyên Tông, nhưng trong nước nội loạn triền miên chúng đành phải gác lại.

Gần như trùng với thời gian vua Lê Thánh Tông trị vì (1460- 1497) nước ta hùng mạnh, còn ở bên kia biên giới Vua Minh Hiến Tông là Chu Kiến Thâm suốt thời gian 23 năm ở ngôi (1464- 1487) chỉ đam mê sắc dục, say đắm nàng Trinh Nhi xuất thân nô tỳ trong cung của Thái hậu họ Tôn. Nàng hơn vua mười bảy tuổi nhưng giỏi quyến rũ đàn ông làm cho Chu Kiến Thâm u mê bỏ lơi triều chính cho gã hoạn quan Uông Trực tha hồ tác quái, khiến lòng dân phẫn nộ, khởi nghĩa khắp nơi. Đến đời vua Minh Hiếu Tông là Chu Hựu Đường ở ngôi mười bảy năm (1488- 1505) chứng kiến hai cái chết của vua Lê Hiến Tông và Lê Túc Tông bên ta cũng đành tiếc đứt ruột làm ngơ vì trong nước dân tộc Thát Đát ở đất Nội Mông nổi loạn từ năm 1501 vẫn chưa thể dẹp yên nói gì đến việc xâm lược Đại Việt.

Các đời vua Uy Mục, Tương Dực nước ta rơi vào suy thoái đến cực điểm nhưng triều vua Minh Vũ Tông là Chu Hậu Chiếu trị vì phương Bắc 16 năm (1505- 1521) cũng chẳng hơn gì. Trong triều có tám kẻ gian thần lũng loạn, đứng đầu là quyền thần Lưu Cẩn, bên ngoài kinh thành lại có loạn thân vương Chu Chí Phiên (1510) và hai cuộc khỏi nghĩa nông dân ở Tứ Xuyên (1508) và ở Hà Bắc (1510- 1511)… Đến nay cũng vậy, vua Minh Thế Tông thực ra vẫn không từ bỏ dã tâm lấy việc Nguyễn Kim cầu viện làm cớ, đem quân xâm chiếm nước ta. Sở dĩ hắn còn chưa động thủ vì có rất nhiều quan lại dâng sớ can ngăn. Đặc biệt có quan thị lang Bộ Hộ là PhanTrần nêu ra bảy điều không nên đánh, trong đó điều đầu tiên là nước Minh đang bị thiên tai mất mùa, dân chúng nổi loạn khắp nơi. Thú vị còn ở chỗ điều khuyên cuối cùng Phan Trần lại nói: "Mạc Đăng Dung cướp ngôi của Lê Cung Hoàng cũng như Lê Lợi cướp ngôi của Trần Cảo do hắn dựng nên để ký hòa ước với Đại Minh năm xưa vậy. Nếu Đăng Dung chịu dâng biểu nộp cống thì coi như được"…

– Con lý giải rất hay, nhưng đôi khi người tính không bằng trời tính, con ạ! Nước Minh rộng lớn, chỉ cần một quan Tổng đốc Vân Nam hay Quảng Tây nhận hối lộ của Nguyễn Kim xua quân sang đánh nhà Mạc lúc này cũng đủ nguy cấp. Bài học cay đắng khi xưa Trương Phụ mang quân sang đánh nước ta cũng lấy cớ giúp Trần diệt Hồ, nhưng khi diệt Hồ xong, cướp được đất rồi là chúng trở mặt tiêu diệt hết con cháu nhà Trần. Tội ác diệt chủng, đồng hóa người Việt của chúng thời ấy rất có thể tái diễn lần thứ hai. Cha vì lợi ích quốc gia, dân tộc đành một mình nuốt nhục, chứ không hề vì cố giữ ngai vàng bằng mọi giá. Nếu con thấu hiểu lòng cha hãy đem hết tài trí tự cường cho dân tộc để khi lực đã mạnh đòi lại hai châu Quy Hóa, Thuận An rửa nhục cho cha. Con hãy khắc sâu vào tâm khảm, nhớ lấy điều này…

Quỷ kế của vua tôi nhà Minh khiến cha con Mạc Đăng Dung tranh luận gay gắt. Ông muốn thuận theo thời thế chấp nhận yêu sách của giặc, còn con trai kiên quyết cự tuyệt đến cùng. Việc đã gấp, không thể nấn ná được nữa, ông đành cắn răng phê vào chiếu thư, phúc đáp vua Minh Thế Tông. Mạc Đăng Doanh biết mình không thể can ngăn, đành nuốt hận theo vua cha lên điện Kính Thiên tiếp sứ thần nhà Minh. Chàng thề với lòng mình nếu mai đây dẹp xong dư đảng nhà Lê của Nguyễn Kim sẽ cùng Bùi Trụ và quần thần trẻ tuổi gắng sức chung lòng chấn hưng đất nước theo chiến lược hướng ra biển Đông của vua cha. Khi ấy, nước nhà giầu mạnh, chàng sẽ đem quân đòi lại hai châu Quy Hóa, Thuận An rửa mối nhục lớn cho cha và cho dân nước Đại Việt…

Mạc Đăng Dung sau buổi tiếp sứ thần nhà Minh cảm thấy trong lòng nặng trĩu buồn đau, tủi hận. Mấy hôm trước, ông đóng cửa không tiếp bất cứ ai là để tĩnh tâm suy nghĩ đối phó với quỷ kế của vua tôi nhà Minh, nhưng mặt khác ông cũng hiểu rõ hơn ai hết tâm tính của con trai mình, sợ bàn với Đăng Doanh sẽ càng làm ông rối trí. Giờ ngẫm lại những điều lý giải của Đăng Doanh về nội tình nhà Minh suốt 100 năm qua từ thời Minh Tuyên Tông đến Minh Thế Tông, ông chợt giật mình ngộ ra có lẽ con trai mình đã đúng, còn ta đã già sinh lẫn rồi chăng? Bản tính cầu toàn lo xa của người già liệu có thành vật cản đối với lớp trẻ tài năng và dũng cảm, táo bạo như Đăng Doanh con trai yêu quý của ta. Nó đã đủ trưởng thành để dẫn dắt triều đại nhà Mạc làm cuộc biến pháp canh tân, chấn hưng nước Đại Việt theo chiến lược hướng ra biển Đông thì ta cũng chẳng cần ngồi giữ ngai vàng quyền lực nữa. Mùa thu sắp tàn, đông qua rồi xuân tới, ta có nên theo gương các vua Trần nhường ngôi cho Đăng Doanh thi thố tài năng, thực hiện hoài bão mà nó đã cùng Bùi Trụ đàm đạo mấy năm trước ở chùa Tiên Thiên?

Biết bao suy tính và những dày vò về lầm lỡ trong chiếu thư phúc đáp vua Chu Hậu Thông của nhà Minh đã làm Mạc Đăng Dung sinh bệnh trầm uất, tâm trạng thất thường, ăn ngủ không đều, thân thể hao gầy nhanh chóng. Ngày mồng một tết năm Kỷ Tỵ – 1529 vua Mạc Thái Tổ thiết triều cùng bá quan văn võ đón mừng năm mới, cầu chúc cho non nước thái bình, thần dân trăm họ no ấm yên vui. Sau đó, ông truyền ngôi cho Thái tử Mạc Đăng Doanh, còn mình mang theo Bùi Trụ về quê Cổ Trai chuyên tâm lo việc xây dựng Dương Kinh, phục vụ cho chiến lược hướng ra biển Đông mà lâu nay ông hằng ấp ủ…

Hiếu Dân say sưa ngồi viết, lòng tràn đầy hứng khởi. Màn đêm bao phủ khắp thành phố. Khu nhà chung cư cũ nát của Dân đen thẫm và yên tĩnh. Anh gõ bàn phím đến dòng cuối cùng chương sách của đề tài viết về cha con Mạc Đăng Dung vừa lúc trời rạng sáng. Ngực anh đau nhói, trán vã mồ hôi, trong người ớn lạnh. Căn bệnh ung thư quái ác lại có dịp hành hạ hai lá phổi rách tã của Dân. Anh mệt mỏi rã rời, gục đầu xuống bàn làm việc mê man bất tỉnh cho tới khi Hương mở khóa vào phòng, hớt hải gọi taxi đưa đi cấp cứu ở Viện ung bướu.

12. Một cơn lũ quét

Khang nhận được điện thoại của Đại Uy gọi về Hà Nội gấp để bàn công việc liền hiểu rằng mọi việc sắp kết thúc.

Theo lời Uy cho biết vắn tắt qua điện thoại thì kết quả xét nghiệm sinh thiết tủy ở nước ngoài đã được gửi về Hà Nội sáng nay. Hội đồng Y khoa của bệnh viện đã tiến hành hội chẩn lần cuối cùng, các giáo sư danh tiếng đều kết luận Quyền mắc bệnh ung thư cột sống, cần đưa ra nước ngoài chữa trị gấp. Vậy là cái án tử ông Huy Hùng dành cho Quyền bắt đầu có hiệu lực.

Trên hành tinh quái quỷ này, ngoài Hùng và Du ra chỉ có ta là người thứ ba biết rõ vì sao Quyền chết. Họ là quan tòa, còn ta là đao phủ. Một phiên tòa xét xử không cần công tố viên buộc tội, không có luật sư bào chữa và bị can cũng đâu cần phải có mặt. Thế nhưng án tử vẫn được thi hành sạch sẽ, kín đáo bởi không hề có máu chảy, nếu có chỉ là thứ máu trắng từ từ chảy ngầm trong huyết quản kẻ tử tội.

Quyền ơi! Ông cao tay, nhưng lão Hùng còn cao tay hơn, hắn thừa biết trong cái thế giới ngầm tội ác, tôi với ông dựa vào nhau để sống nên đã lừa tôi vào bẫy. Tôi bị buộc phải lựa chọn giữa việc giết ông với việc dựa cột, đương nhiên tôi phải giữ lấy cái mạng chó của mình vậy thôi. Thời buổi này, lương tâm hay tình nghĩa đều là thứ xa xỉ, huống chi tôi với ông chẳng nợ gì nhau.

Hồi ông còn ở Mát không có tôi là con ma xó giữa Hà Nội, thằng bạn sinh viên tỉnh lẻ lớ ngớ như Uy làm sao tiêu thụ hàng lậu từ Đôm 5 gửi về. Ngần ấy năm ở tỉnh K, thiếu tôi làm quân sư quạt mo chắc gì ông được giàu sang vinh hiển như hôm nay. Ở đời tham thì thâm, ông làm vua tỉnh K chưa thỏa, còn muốn bay xa nên sải cánh càng rộng càng dễ trúng đạn, ông Quyền ạ!

Nếu có nợ nần có lẽ tôi mắc nợ chút tình nghĩa với thằng Uy, em trai ông thôi. Nó và tôi thân nhau từ thời sinh viên nghèo kiết lỗ đít. Qua nó tôi mới biết ông, trở thành chân chạy nhận hàng từ Mát gửi về đem đi tiêu thụ, mua hàng ở Hà Nội gửi đi nên cũng kiếm được ít lộc rơi lộc vãi, phởn phơ rủng rỉnh tiền tiêu. Ngày mới lên K cũng nhờ nó cấp cho ít vốn để tôi làm thành viên sáng lập công ty Loan- Uy trước đây và tập đoàn Bil- Kel bây giờ. Chút nợ nghĩa tình ấy, lần này về Hà Nội tôi sẽ trả bằng cách bày mưu cho Uy thoát vòng lao lý. Ông chết rồi, chẳng những tập đoàn Bil- Kel về tay thằng khác mà sinh mệnh chính trị của Uy cũng ngàn cân treo sợi tóc, nhưng thằng Khang quân sư này đâu đã hết mưu…

Dọc đường ngồi xe xuôi về Hà Nội, Khang miên man suy nghĩ, trù liệu mọi tình huống xảy ra và phương án chống đỡ. Xe dừng bánh ở sân bệnh viện, Khang chạy như bay tìm bệnh phòng, quỳ xuống chân giường ôm lấy Quyền nghẹn ngào nức nở. Lúc này Quyền rất tỉnh. Anh cố mỉm cười, thều thào nói:

– Anh đã chết đâu mà các cậu khóc lóc ghê thế. Chú nói đi, tình hình cô Xuân bên Mỹ thế nào, có ổn không?

– Rất ổn anh ạ! Có lời giới thiệu của A Hứa, chị Xuân được lão chủ tịch tổng hội người Hoa bên California đón tiếp chu đáo, lo hết mọi việc từ A đến Z nên việc đổi thẻ xanh sang quốc tịch Mỹ ngon ơ. Chị Xuân bảo, thế lực của tổng hội này lớn lắm, ta cần bám chặt lấy họ. Với tài ngoại giao và sắc đẹp của chị ấy, em tin công ty Vê- ra của ta sẽ có cơ hội phát triển.

– Thế còn việc chuyển vốn ra nước ngoài?

– Chị Xuân cũng đã hoàn tất mọi thủ tục tại các ngân hàng ở Thụy Sĩ, Canada và Mỹ, anh khỏi cần lo, mọi việc diễn ra đúng như kế hoạch ta đã bàn trước ngày chị ấy đi Mỹ.

– Tình hình ở K chú có nghe ngóng được gì không?

– Tin anh bệnh nặng phải nằm viện giữa lúc cận kề đại hội làm cả tỉnh K nháo nhác như gặp cơn lũ quét. Ngay sau đó là cuộc tháo chạy của phe ta sang phe ông Huy Hùng. Đời là vậy, anh để tâm làm gì cho mệt. Việc cần làm ngay của tụi em lúc này là thu xếp mọi thủ tục cần thiết đưa anh đi Mỹ chữa bệnh. Còn nước còn tát, anh Quyền ạ!

– Chuyện bệnh tình của anh hãy khoan nói vội cho cô Dung biết. Cô ấy tinh thần và sức khỏe đều kém lại vướng con nhỏ, chắc phải ở lại thôi, khi nào sắp đi hãy nói. Chú Uy và cô Loan đưa anh đi rồi ở lại bên đó là hợp lý nhất. Chú Khang thạo việc, lắm mưu mẹo nhớ lo giúp anh việc này. Rồi đây vắng anh, việc chăm sóc mẹ con cô Dung, anh chỉ còn biết gửi gắm, trông cậy vào tình máu mủ của chú Uy thôi.

– Anh đừng nói thế, đau lòng em lắm. Cu Bil và bé Kel cũng là con của vợ chồng em; còn chị dâu, chúng em quyết không để chị ấy phải khổ sở vất vả đâu- Uy vừa khóc vừa nói.

– Mọi việc giải quyết hậu quả ở tập đoàn Bil- Kel cũng như việc làm ăn bên Mỹ sau này, anh mong hai chú nhớ lại tình bạn thủơ hàn vi mà gắn bó với nhau vượt qua giây phút hiểm nghèo, chung tay hợp sức làm ăn vì tương lai của con cháu lâu dài…

Tiếng Quyền rời rạc, nhỏ dần. Uy bưng mặt khóc nấc lên, cảm thấy như anh trai mình đang nói những lời trăn trối cuối cùng. Khang ôm bạn an ủi, im lặng chẳng biết nói gì. Chợt hai người thấy Quyền rùng mình, nhăn nhó kêu đau, lăn lộn trên giường. Uy hoảng hốt chạy đi tìm bác sĩ tiêm thuốc cho Quyền thiếp đi, nhè nhẹ thở đều. Chờ một lúc lâu không thấy Quyền có biểu hiện gì đáng ngại, Khang kéo Uy xuống lầu, tìm một chiếc ghế đá trong vườn hoa ở nơi khuất nẻo bàn bạc:

– Tình thế gấp lắm rồi, ông không thể ngồi đây túc trực bên anh Quyền được nữa, phải gọi bà Loan xuống thay để chúng mình còn lo việc lớn.

– Theo ông, ta phải làm gì bây giờ?

– Vét nốt tiền ở tập đoàn rồi biến cho nhanh chứ còn chần chừ gì nữa.

– Tài chính của tập đoàn hiện nay thế nào?

– Ở các mỏ và mấy công ty con ta không cần biết, để chúng nó tự bơi. Tiền mặt trong két ở trụ sở nhà 9 tầng và tiền vốn lưu động ở ngân hàng ta vét hết, chỉ để lại mỗi nơi vài trăm triệu cho bộ máy hoạt động cầm chừng che mắt thiên hạ. Tiền hàng còn đọng ở chỗ A Trương, A Hứa tôi đã nhờ bà Xuân hối thúc, đòi được phân nửa vào ngân hàng của ta bên Mỹ êm re rồi. Vấn đề cốt tử còn lại bây giờ là vợ chồng ông phải nhanh chóng thoát ra khỏi mớ bùng nhùng các vụ việc đang nằm trong hồ sơ điều tra của công an thì mới đủ điều kiện đưa anh Quyền đi Mỹ chữa bệnh, ông hiểu chưa?

Nghe đến đây, Uy chợt giật mình ngồi ngây như tượng gỗ, trán vã mồ hôi, miệng lắp bắp không nói thành lời. Khang nhìn bộ dạng thất thần của bạn, cười và vỗ vào lưng Uy nói:

– Thấy chưa, tôi đã nhắc nhở ông qua điện thoại rồi mà vẫn chưa tỉnh ra. Mình là thằng đàn ông, càng lúc cam go càng phải tỉnh táo lo những việc lớn, trù tính mọi khả năng, đợi nước đến chân mới nhảy thì làm sao họ cho ông đi Mỹ theo anh Quyền được, rõ chán!

– Tôi ngu quá, lại đang rối trí, ông tính thế nào nói mau đi, lấp lửng mãi.

– Giờ tôi sẽ tách từng vụ việc, phân tích cho ông nghe để ông định liệu. Mấy vụ trốn thuế hay chiếm dụng thuế giá trị gia tăng, giải phóng mặt bằng đều mới chỉ là phát hiện của nhà báo đã chết, hơn nữa ta có xơi một mình đâu, ối thằng ở K ăn ngập răng nên sớm muộn chúng nó cũng cho chìm xuồng, khỏi lo. Vụ ba tờ quyết định ở mỏ sắt bản Chiềng giờ anh Quyền đổ bệnh nằm đấy coi như bị loại khỏi cuộc chơi quyền lực, ông Hùng cũng sẽ cho khoanh lại, chẳng bới ra cho mang tiếng ác nữa đâu. Căng nhất là vụ bà Thơ và vụ nhà báo Quang Huy đã thành hai án trọng điểm của tỉnh, ầm ĩ trên công luận.

Từ đầu tôi đã tính toán giúp ông có đủ bằng chứng ngoại phạm. Lúc xảy ra vụ án mạng với bà Thơ, tôi bảo Tùng xoăn chọn thời điểm ông đi Sài Gòn dự lễ vinh danh tốp 10 doanh nghiệp tiêu biểu cả nước, có phát hình lên ti vi ông đang nhận bằng khen, đố thằng nào bắt bẻ. Khi nhà báo Quang Huy bị tai nạn, tôi và Tùng xoăn cũng chọn lúc ông và bà Xuân đi Nam Ninh- Quảng Tây ký kết hợp đồng với A Trương, có quay phim chụp ảnh, lưu ở phòng truyền thống nhà 9 tầng. Tuy nhiên chuyên án còn chưa kết thúc, ông sẽ vẫn còn trong diện nghi vấn, không thể xuất ngoại. Nút gỡ bây giờ là phải nhanh chóng cho hai vụ án này kết thúc. Muốn vậy ta chỉ còn cách cho Lê Lai liều mình cứu chúa, ông có hiểu ý tôi không? Tôi vì tình bạn giữa chúng mình, vì đền ơn trả nghĩa anh Quyền nên đã nghĩ nát nước mới tìm ra độc chiêu này.

– Ý ông muốn tôi thuyết phục Tùng xoăn ra đầu thú, nhưng liệu nó có chịu không?

– Năm xưa nó chịu ơn ông cưu mang, đưa về từ bãi đào vàng Lương Thượng lúc nó đang bị truy nã. Dân giang hồ như tụi nó đa phần có máu anh hùng kiểu Lương Sơn Bạc, chỉ cần ông khéo kích động và cho nó tiền, rất nhiều tiền là xong béng, không khỏi lăn tăn làm gì cho mệt.

– Đành rằng thế, nhưng hai vụ án mạng, tội ấy dựa cột như bỡn, đời nào nó chịu.

– Tôi đã nghĩ sẵn cho nó lời khai rồi. Vụ bà Thơ nó khai chỉ nhờ thằng Thu lấy hộ tập tài liệu, ai ngờ thằng cháu nội ngáo đá mới xảy ra án mạng. Vụ nhà báo Quang Huy nó sẽ không dại gì khai ra Giàng A Phú lái xe ô tô mà tự nhận chính nó cầm lái đuổi theo xe máy của nhà báo chỉ với mục đích điều đình xin lại tài liệu vì sợ có chỗ liên lụy với mình. Có lẽ vì đêm tối nên nhà báo sợ cướp, loạng choạng mất tay lái nên không may rơi xuống vực. Tùng xoăn là thằng rất lỳ. Tôi đảm bảo dù có tra tấn, đóng đinh vào mười đầu ngón tay cả chục lần nó cũng một mực khai đúng như ban đầu. Tội danh ngộ sát nặng lắm cũng chỉ mười đến mười hai năm tù. Cỡ đại ca giang hồ như Tùng xoăn vào trại sẽ làm bố tù, sướng như vua và giảm án nhanh, nó thừa hiểu vậy nên không ngán đâu. Ta chơi đẹp, vừa cho tiền vừa hứa khi nó ra tù sẽ đón cả nó và vợ con sang Mỹ ngon lành.

– Theo ông ta nên chi cho Tùng xoăn bao nhiêu?

– Việc đưa anh Quyền đi Mỹ chữa trị gấp lắm rồi, ta phải chi đậm và rất đàng hoàng, minh bạch để Tùng xoăn yên tâm làm Lê Lai liều mình cứu chúa. Tôi đã nhẩm tính ta nên đưa nó 50 cây vàng, 10 ngàn đô và 20 vạn Nhân Dân tệ. Ta phải để cho chính tay Tùng xoăn cầm tiền cùng vợ và thằng con trai theo tôi sang Côn Minh nương nhờ A Hứa, vừa an toàn vừa làm con tin của ta. Con nó còn nhỏ chưa cần đi học, với số tiền ấy đủ cho hai mẹ con sống sung sướng chờ nó ra tù và có tiền nhờ người thăm nuôi, lo lót cho chồng được giảm án. Xong xuôi mọi việc ở Côn Minh, tôi đảm bảo Tùng xoăn sẽ như Lý Quỳ hăm hở tìm đường lên Lương Sơn Bạc, sẵn sàng về nước đầu thú ngay tắp lự.

– Phương án của ông hoàn hảo miễn chê, nhưng nó mới chỉ lo được một phía với Tùng xoăn, còn với phía Huy Hùng thì sao?

– Chẳng cần lo gì hết, ông bạn vàng ạ!

– Ông nói khó tin, hay ông đùa tôi lúc này thì ác quá.

– Tôi nói thật đấy. Có hai lý do để tôi tin Huy Hùng sẽ xoá án và nhiệt tình tạo điều kiện cho vợ chồng ông đưa anh Quyền đi Mỹ chữa trị. Một là hắn mới về, rất cần tạo dựng uy tín cho các thuộc hạ của mình như cậu San bên công an, cô Phụng bên kiểm sát. Nếu Tùng xoăn ra đầu thú họ sẽ khẩn trương tống đạt kết quả điều tra, sớm ra quyết định truy tố bị can để ghi điểm trong mắt lãnh đạo và như thế ông sẽ vô can. Hai là Huy Hùng thuộc hàng chính khách võ công thượng thặng nên khi so găng trên chính trường, anh Quyền đã bị hắn hạ đo ván, loại khỏi cơ cấu nhân sự đại hội thì ngay lập tức hắn sẽ tỏ ra cao thượng, hết lòng quan tâm giúp đỡ anh Quyền và gia đình.

– Tôi phục ông sát đất, ông Khang ạ. Cái ơn này tôi biết làm gì đền đáp bạn mình đây.

– Ơn huệ gì, bạn bè thì phải vì nhau lúc hoan nạn. Giờ tôi bàn với ông thế này, tôi sẽ về K trước, bảo bà Loan xuống thay ông chăm sóc anh Quyền và sau đó sẽ ướm lời với Tùng xoăn thử xem ý tứ nó thế nào. Ông ở dưới này suy nghĩ cho kỹ để khi về K gặp Tùng xoăn thuyết phục bằng được nó làm theo kịch bản đúng như ta đã bàn. Vấn đề tài chính ở tập đoàn cũng vậy, ta vét một chuyến cuối cùng, nhưng vẫn phải để lại tiền đủ cho tập đoàn hoạt động bình thường, còn ông để lại cho mẹ con cô Dung bao nhiêu, thế nào là tùy lòng, ông bàn với bà Loan.

– Nếu vợ chồng tôi đi Mỹ thoát, ông sẽ đi bằng cách nào?

– Tôi sẽ đi sau và không thể đi công khai như ông được đâu, nhưng tôi đã tính toán, chuẩn bị đâu vào đấy rồi, đừng lo.

– Thế thì vất vả, nguy hiểm cho ông quá.

Uy xúc động nắm tay Khang rưng rưng nước mắt. Khang chỉ cười xòa, thản nhiên như không, kéo bạn đi tìm một quán vắng vẻ ăn trưa. Trong bữa ăn hai người thì thầm trao đổi thêm những việc cần kíp sắp tới.

Chia tay bạn, Khang thở phào nhẹ nhõm. Dẫu sao mình cũng đã cố hết sức giúp nó thoát khỏi vòng lao lý, vợ chồng chắc sẽ đi Mỹ trót lọt, an toàn. Uy ơi. Cái chuyện giết vua phản chúa đối với ông Quyền tao đành chôn chặt trong lòng, sống để bụng chết mang đi, nhưng với vợ chồng mày và bà Xuân tao vẫn cứ phải đối mặt cho đến lúc chết, nghĩ cũng cay đời lắm.

Huy Hùng thừa thông minh và cũng thâm hiểm vô cùng. Hắn biết để tao ở trong nước như cái gai trong mắt, cho tao sống cũng dở, giết hay bỏ tù cũng không dễ vì “trạng chết chúa cũng băng hà”, phương ngôn nói rồi. Hắn đày tao đi biệt xứ bởi hắn quá hiểu ở nơi đất khách quê người tao tứ cố vô thân nên vẫn phải câm lặng bám vào mày và bà Xuân để sống.

Kể từ hôm nay, mỗi lần giáp mặt mày, tao sẽ bị nỗi ám ảnh là kẻ sát nhân giết hại ông Quyền dày vò, còn hắn ung dung thăng tiến. Thời thế thế thời phải thế, nhưng đểu quá, mày ơi!…

Khang nhắm mắt ngả người ra sau ghế, cố ngủ một giấc cho quên đi tất cả. Chiếc xe của Giàng A Phú lướt nhanh, băng băng trên đường cao tốc. Hai bên đường nhà cửa, phố xá và những cánh đồng đang vào vụ gặt cứ lùi dần khuất lại phía sau, đưa Khang về gần với tỉnh K một thời gắn bó, giờ sắp phải chia xa.

Giờ này vợ con ta chắc đang ở Hồng Kông chờ thủ tục làm visa xuất cảnh đi Mỹ với tư cách cô ấy là nhân viên của chi nhánh công ty Vê-ra đi công tác, mang theo hai con kết hợp đi du lịch. Thủ tục xuất cảnh từ Hồng Kông đã có người của A Hứa giúp đỡ, chẳng khó khăn gì.

Thoáng đã ba hôm kể từ khi Quyền đổ bệnh. Nhớ cái đêm ta và Du khệ nệ khiêng cái hòm chì leo dốc đem chôn trên núi Hoàng Liên ở bản Phìn cực kỳ vất vả. Lúc từ bản Phìn ngồi xe về thành phố, Du nói:

– Anh Huy Hùng đồng ý cho ông và gia đình bí mật xuất ngoại, ông định đi đâu?

– Đi đâu chưa biết, nhưng chắc tôi phải sang Mỹ ăn nhờ ở đậu bà Xuân thôi, anh Du ạ.

– Ông có thể bố trí cho vợ con đi trước, còn mình ông ở lại ít ngày giúp tôi thêm một việc khác nữa.

– Việc gì thế, không giết người thêm đấy chứ?

– Làm gì có chuyện đó, vụ ông Quyền chúng tôi đâu có muốn. Tôi cần ông giúp tôi gặp gỡ các mối làm ăn bên kia biên giới, nhất là Hứa Văn và Trương Lợi Sinh.

– Được thôi, anh phải giúp lại tôi một việc, có đi có lại mà, anh Du nhỉ.

– Là việc gì, có phức tạp lắm không?

– Anh báo cáo với sếp Hùng rồi cho anh San thảo một công văn công an truy nã tôi là nhà văn Thào Chú, tên thật Nguyễn Trọng Khang can tội tuyên truyền kích động chống phá chế độ, phạm vào điều 258 bộ Luật hình sự đề nghị công an tỉnh Vân Nam phối hợp, giúp đỡ truy bắt kẻ tội phạm.

– Thế thì quá phức tạp, liên quan đến quan hệ hai nước, không được đâu- Du vội ngắt lời.

– Anh Du để tôi nói hết đã. Đây chỉ là tờ công văn đểu, duy nhất một bản để tôi cầm đi làm bùa hộ mệnh thôi. Tôi sẽ nhờ chiến hữu ở Côn Minh bút phê vào đó mấy chữ, đóng dấu đỏ chót để khi sang đến Hồng Kông nhờ người lo thủ tục làm visa xuất cảnh đi Mỹ với tư cách tỵ nạn chính trị. Xong việc là tôi đốt đi ngay, anh Du đừng lo.

– Có nhiều cách đi, sao ông Khang phải chọn cách này?

– Tôi sang Mỹ mang theo cả gia đình, nếu không với tư cách tỵ nạn chính trị dễ bị đuổi về như bỡn. Lúc đó anh Du thử hình dung sự việc sẽ ra sao?…

Khang nhớ lại, mỉm cười đắc ý. Hóa ra phe Huy Hùng còn nuôi tham vọng nuốt gọn doanh nghiệp Bil- Kel, tiếp tục làm ăn với các lão bản bên kia biên giới. Lòng vả cũng như lòng sung, Hùng và Quyền cũng một duộc cả thôi. Thây kệ đời, miễn sao ta đạt được ý đồ. A Hứa, A Trương là hai cái mỏ vàng vô tận do bà Xuân nhiều năm gây dựng quan hệ. Lúc này nó đang giúp ta cao giá với Hùng và Du nên ta tương kế tựu kế, ép Du phải báo cáo Hùng thực hiện bằng được yêu cầu tiên quyết ấy. Vài ngày nữa cầm trong tay tờ công văn đểu kia ta mới chịu giới thiệu cho Du làm quen với cấp dưới của A Trương trước, đợi vợ chồng Uy đi Mỹ trót lọt, ta mới cho Du làm quen tiếp với cấp dưới của A Hứa. Có tờ công văn truy nã thằng nhà văn ất ơ Thào Chú này, ta sẽ nhờ A Hứa bút phê vài chữ, đóng dấu công an Côn Minh rồi gửi đi Hồng Kông cho người của hắn lo sẵn thủ tục Visa xuất cảnh sang Mỹ có mà oai như nắng. Người của A Hứa trong tổng hội người Hoa ở California muốn giúp cả gia đình ta nhập quốc tịch cũng sẽ rất thuận lợi. Uy ơi, đương lúc đắm đò giật mẹt tao lại vớ được cái phao cứu sinh là tập đoàn Bil- Kel của mày. Đời thật oái oăm nên mới là cuộc đời, mày ạ…

Huy Hùng đến thăm Ông Cụ, đem theo danh sách nhân sự dự kiến cho nhiệm kỳ tới, vừa được ban chấp hành thông qua. Một việc làm theo nghĩa kính lão đắc thọ chứ anh thừa biết vương quốc tỉnh K không còn thái thượng hoàng nữa rồi.

Ông Cụ tiếp anh gượng gạo, hờ hững cầm tờ giấy xem lướt qua, nhưng vẫn lên giọng bề trên nhắc nhở:

– Dự kiến là một chuyện, nhưng khi ra đại hội các đồng chí cần phải nêu cao tinh thần đoàn kết, dân chủ bàn bạc, kiên quyết phát hiện và loại trừ những kẻ thoái hóa, biến chất.

– Vâng thưa bác, chúng cháu hiểu và sẽ chấp hành. Bác còn ý kiến chỉ đạo nào nữa xin cho biết, cháu xin lắng nghe ạ.

Ông Cụ gật đầu tỏ ý hài lòng, đọc lại bản danh sách, chợt nghiêm giọng nói:

– Hình như trong số này có cậu Bình bên Mặt trận cần nghiên cứu lại. Nó là thằng chuyên phá bĩnh, làm sao giữ được đoàn kết nội bộ.

– Thưa bác, ban lãnh đạo mới của tỉnh nhà cần có sự chuyển giao thế hệ. Ông Bình là cựu chiến binh, anh hùng lực lượng vũ trang, có nhiều kinh nghiệm lãnh đạo nên chúng cháu giữ lại làm việc nửa nhiệm kỳ để kèm cặp lớp trẻ như cậu San, cô Phụng và nhiều người khác.

– Tôi chỉ nêu ý kiến cá nhân, còn tùy tập thể quyết định…

Cuộc trò chuyện nhạt dần. Chủ và khách đều nhìn nhau giữ ý nói lời sáo rỗng. Huy Hùng xin phép về, được Ông Cụ phá lệ tiễn ra tận cổng. Anh lên xe cười khẩy thầm nghĩ, Ông Cụ là tay lõi đời trong nghề tổ chức vẫn không nhận ra lão Bình đã quá tuổi vẫn được mình ưu tiên cho làm hủ tịch “Mặt trận” thêm nửa nhiệm kỳ chỉ là để ngồi giữ ghế cho Du. Cậu ấy mới về, lại quá trẻ không thể đưa vào cơ cấu vội. Chờ ông Bình nghỉ hưu, mình đưa Du vào ghế ấy sẽ đương nhiên bổ sung vào ban thường vụ, sau đó mới cho Du rẽ ngang sang làm phó chủ tịch tỉnh êm ru.

Hùng về đến nhà đỏ đã thấy Du ngồi chực sẵn ở cửa phòng. Anh tươi cười hỏi:

– Chú chờ anh đã lâu chưa? Có việc gì quan trọng mà nom nhớn nhác thế?

– Có hai việc gấp cần xin chỉ thị của anh.

– Thôi vào nhà uống chén nước cho ấm bụng rồi hãy nói.

Du theo sếp vào phòng, tất bật vừa pha trà vừa nói:

– Bên công an vừa gọi điện sang báo cáo, thằng Tùng xoăn đã tự ra đầu thú, nhận hết tội về mình trong hai vụ án với bà Thơ và nhà báo Quang Huy. Thằng này gan cóc tía, lì lợm nên anh em bên đó kiên trì đấu tranh cả ngày vẫn một mực khai tự nó làm hết, không liên quan gì tới ông Uy và tứ trụ triều đình của Bil- Kel. Anh San cũng đã cho người thẩm tra kỹ, xác nhận cả hai vụ án ông Uy đều có chứng cứ ngọai phạm rõ ràng.

– Dẫu sao ở thời điểm này tỉnh K đang cần ổn định mọi mặt chính trị và kinh tế nên bắt được thủ phạm cũng rất tốt. Thế còn việc thứ hai?

– Thưa anh, dưới Hà Nội điện lên thông báo đã liên hệ xong với bệnh viện bên Mỹ và sứ quán ở Hà Nội. Các anh ấy giục ta đưa ông Quyền đi càng sớm càng tốt. Về phía gia đình ông Quyền, cô Dung đang bệnh lại vướng con nhỏ nên ông Uy đã viết đơn lên tỉnh xin ta cho phép cả hai vợ chồng đi theo chăm sóc bệnh nhân. Việc gấp lắm, anh nên cho chỉ thị để có hướng giải quyết.

Hùng ngả người vào thành ghế, bóp trán suy nghĩ. Du nhìn anh nín thở chờ đợi. Căn phòng ắng lặng, chỉ nghe tiếng máy điều hòa chạy đều. Hùng bỏ thuốc đã được hơn một tháng giờ lại thấy thèm. Anh nhoài người ra phía trước, khều bao thuốc ba số trong ngực áo của Du, lấy ra một điếu. Du nhanh nhẩu bật lửa. Anh châm thuốc rồi đứng dậy, lững thững ra hành lang rít liền mấy hơi, mắt đăm đăm nhìn sang bên nhà xanh.

Vở kịch đối phương bày ra khá hoàn hảo. Chắc hẳn đây lại là độc chiêu cuối cùng của Khang tham mưu cho Uy. Thôi thì ta cho vở kịch ấy hạ màn có hậu một chút để lấy tiếng nhân đức với dư luận tỉnh K và cũng đỡ vướng bận, dành thời gian lo nhiều việc khác.

Anh em Quyền đi rồi, chắc Khang cũng bí mật chuồn khỏi K qua đường Côn Minh, từ đó bay đi Hồng Kông làm thủ tục sang Mỹ. Ngân hàng sẽ xiết nợ tập đoàn Bil- Kel, niêm phong tài sản thế chấp gồm tòa nhà 9 tầng với đầy đủ trang thiết bị văn phòng hiện đại và 3 khu mỏ đang khai thác. Giá trị tài sản hữu hình của nó không lớn, nhưng thương hiệu Bil- Kel vẫn còn rất có giá đối với các lão bản bên kia biên giới.

Ta đã bàn với Du để ông bác ruột cậu ấy đang làm chủ một doanh nghiệp có tiềm năng lớn ở Nha Trang về đây mua lại Bil- Kel với giá bèo từ ngân hàng là ổn thỏa, kín kẽ. Bề ngoài nó góp phần giữ cho kinh tế tỉnh K không bị xáo động, bên trong nó sẽ là doanh nghiệp sân sau của ta và Du, tiếp tục làm ăn lâu dài với A Hứa, A Trương…

Hùng quay vào phòng nói với Du:

– Chú lên lịch cho anh sáng mai làm việc với cậu San, cô Phụng. Ta cần nhanh chóng khép lại hai vụ án điểm để lấy thành tích chào mừng đại hội và lễ kỷ niệm 20 năm tái lập tỉnh K sắp tới.

– Thưa anh, còn vụ đưa ông Quyền đi chữa bệnh thì sao?

– Ta ra đòn với Quyền như thế đủ rồi, tha bổng cho Uy lấy chút âm đức về sau, Du ạ. Để vợ chồng Uy đủ điều kiện làm visa đi Mỹ, bên công an phải viết báo cáo lên tỉnh, xác nhận đã loại Uy ra khỏi diện nghi vấn trong chuyên án. Sau đó, anh sẽ bút phê vài chữ vào đơn của vợ chồng Uy để chú mang hồ sơ xuống Hà Nội nhờ các đồng chí ở trung ương can thiệp cho họ nhanh chóng đưa anh trai đi chữa bệnh. Tống khứ của nợ ấy đi rồi, chú gọi điện cho ông bác trong Nha Trang bay ra gặp anh bàn cụ thể từng bước phương án mua lại tập đoàn Bil- Kel. Anh em mình phải quyết tâm không để sản xuất, kinh doanh của tập đoàn bị ngừng trệ lâu, gây mất ổn định xã hội trong tỉnh nhà, chú hiểu không?…

Thùy Dung từ ngày tiễn Quyền và vợ chồng Uy đi Mỹ ở sân bay về suốt ngày câm lặng, ủ rũ. Nàng vật vờ đi lại trong biệt thự như cái xác không hồn. Uy đã giấu chị dâu bệnh tình của anh trai đến phút chót nên nàng càng ân hận không được chăm sóc Quyền những ngày cuối cùng ở Hà Nội.

Đêm nào cũng vậy, chờ các con ngủ say, Dung thập thững ra vườn, ngồi xuống thềm nhà bát giác, bên khóm cây phù dung nức nở khóc thầm. Số kiếp ta rồi cũng như hoa phù dung sớm nở tối tàn chăng? Ta đã đánh mất tình yêu với Dân, cha bỏ nhà lên chùa, giờ lại sắp mất chồng, một mình bơ vơ mẹ góa con côi, chẳng còn thiết sống.

Đêm nay Dung cay đắng nhớ lại trước khi đi, Uy đến nhà kể rõ tình trạng hiểm nghèo của Quyền khiến nàng bàng hoàng ngã quỵ xuống sàn nhà, kinh ngạc và đau đớn, trợn mắt gào to, trách móc em chồng. Lòng nàng như có kim đâm, muối xát. Uy đỡ chị dâu ngồi dậy, khóc lóc phân trần rằng đó là ý của Quyền. Ngẫm kỹ thấy Quyền rất nặng tình với mình, hết lòng chăm lo sức khỏe của vợ càng khiến Dung ân hận vì bao năm hờ hững với tình yêu của chồng. Nàng tự đẩy chồng ra xa, khiến anh phải tìm kiếm niềm vui xác thịt với Xuân chứ trong lòng Quyền có lẽ chỉ có mình Dung làm vợ.

Hương có lần bảo, đàn ông như Quyền cũng không dễ gặp ở đời đâu, đã làm vợ người ta thì phải hết lòng mới giúp chồng tránh xa mọi thứ cạm bẫy cả trong tình yêu lẫn trong sự nghiệp. Từ lâu, Dung đã lờ mờ nhận ra anh em Quyền đang dấn khá sâu vào nhiều vụ việc mờ ám, nhưng nàng chỉ thoáng lo sợ mà không tìm hiểu, can gián. Nếu sớm biết nghe lời khuyên của Hương, có thể Dung đã làm được điều gì đó cho Quyền biết chọn điểm dừng.

Hôm ở sân bay, nhờ có Du liên hệ trước với an ninh, Huy Hùng ngồi xe đưa Dung ra tận chân cầu thang đưa tiễn Quyền và vợ chồng Uy. Nàng nhìn trong ánh mắt, nghe những lời động viên trơn tuột của con người ấy thấy rờn rợn, nhưng vẫn phải nắm chặt tay ông ta nói lời cám ơn chân thành. Linh cảm người vợ xui khiến nàng ngờ ngợ rằng, Huy Hùng chính là kẻ gây ra căn bệnh hiểm nghèo của chồng. Cái bàn tay ấy cứ ám ảnh nàng một nỗi sợ không sao lý giải bởi nó mềm nhũn, lành lạnh cứ như muốn truội ra khỏi tay mình.

Nghĩ về bàn tay của Hùng, chợt Dung nhớ ra chiếc va ly nặng của Uy mang đến cho mình mấy hôm trước. Uy vừa khóc vừa dặn dò: “Trong tài khoản cá nhân của chị hiện có 300 triệu, còn chiếc va ly này là tấm lòng vợ chồng em để lại cho chị làm vốn nuôi dạy các cháu nên người. Chị phải phân tán cất giấu thật kỹ hoặc tốt nhất mang lên chùa gửi cụ giáo chôn giấu cho an toàn, chị ạ”.

Trụ sở tập đoàn, nhà cửa của Uy, ông Khang, bà Xuân đều đã bị chính quyền tỉnh thu giữ, niêm phong chờ ngân hàng phát mại. Chiếc va ly kia mình đang đau buồn, rối trí nên chưa kịp mở ra, chắc cũng là của phi pháp không thể giữ làm của riêng. Dung nghĩ vậy và thầm nhủ sẽ giao nộp cho chính quyền.

Sáng dậy, nàng gọi điện cho Du báo tin. Lát sau Huy Hùng và Du cùng đến nhà, dẫn theo mấy người bên sở công an. Họ mở va ly kiểm đếm rồi ghi biên bản đưa cho Dung ký. Nàng sững người kinh ngạc vì khối tài sản quá lớn gồm 100 cây vàng và 200 ngàn đô. Công an và Du mang chiếc va ly đi rồi, Huy Hùng còn ngồi nán lại ở phòng khách uống nước. Anh đưa cho Dung 2 hộp thuốc ngoại đặc trị bệnh viêm tuyến lệ, ánh mắt nhìn rất lạ, xoáy vào gương mặt và lồng ngực người đẹp khiến nàng bối rối.

Hùng nấn ná, ân cần hỏi thăm sức khỏe Dung và việc học hành của lũ nhỏ. Trước lúc ra về anh nói:

– Tập đoàn Bil- Kel thiếu nợ ngân hàng rất nhiều, tỉnh đang chuẩn bị tiến hành phát mại tài sản thế chấp và mấy ngôi nhà vắng chủ của lãnh đạo tập đoàn. Chị Dung đã có công khai báo số tài sản vừa nãy là thành tích lớn, tỉnh sẽ ghi nhận. Còn số tiền trong tài khoản cá nhân của chị, chúng tôi đã bàn và quyết định cho chị giữ lại để tiêu dùng và làm vốn.

– Thế còn ngôi biệt thự này, bao giờ tôi sẽ phải dọn đi?

– Ấy chết, đó là tài sản riêng của anh chị, không liên quan gì đến nợ nần của tập đoàn anh Uy. Anh Quyền là cán bộ lãnh đạo có nhiều công lao đóng góp cho tỉnh nhà. Chúng tôi sao dám có ý nghĩ này khác, tổn hại đến uy tín của anh ấy. Thời gian anh Quyền đi vắng chữa bệnh, tỉnh vẫn giải quyết lương và mọi chế độ cơ mà.

– Vâng, cám ơn các anh đã quan tâm.

– Nếu chị Dung có nhu cầu, tỉnh cũng sẽ sẵn sàng bố trí công tác cho chị ở văn phòng ủy ban tỉnh hoặc các sở, ngành nào chị muốn. Ngoài ra, bất cứ lúc nào cần đề đạt nguyện vọng gì, chị Dung có thể trực tiếp gặp tôi, đừng ngại…

Huy Hùng lên xe vẫn còn ngoái nhìn bóng Dung đứng bên mép đường. Lòng anh thầm nghĩ, quả là người đẹp càng buồn càng quyến rũ. Bỗng nhiên anh liên tưởng đến câu chuyện lịch sử, trong cuốn sách mỏng mua ở cố đô Huế, viết về những bà vợ của vua Gia Long. Lịch sử oái oăm du đẩy hai nàng công chúa cành vàng lá ngọc con vua Lê Hiển Tông là Ngọc Hân và Ngọc Bình vào Phú Xuân làm vợ hai vua Tây Sơn là Quang Trung và Quang Toản.

Khi vua Gia Long chiếm được thành Phú Xuân, hành hình dã man Quang Toản và các tướng lĩnh Tây Sơn, nhưng ông lại mê mẩn trước sắc đẹp của Ngọc Bình, tuyển nàng làm phi. Bởi thế dân gian có câu ca: “Phú Xuân chuyện thật như đùa- Một bà lại lấy hai vua làm chồng”. Huy Hùng thấy lâng lâng một cảm giác khó tả của người thắng cuộc trong trận chiến quyền lực ở K…

Bắt tay tiễn Hùng lên xe, Dung vẫn còn cảm thấy ớn lạnh, ghê sợ bàn tay và ánh mắt ấy. Trực giác mách bảo nàng bàn tay của Hùng dính máu. Nàng rảo bước lên lầu vào phòng tắm, khỏa thân dưới vòi hoa sen vặn hết cỡ tẩy sạch tà ma bóng quỷ, quên đi tất cả.

Tắm xong, Dung thay quần áo, tìm chiếc điện thoại gọi lên chùa Sùng Miên định tâm sự với cha. Thiền sư trụ trì trả lời, thầy giáo Hạnh đã về Hà Nội chăm sóc trò Hiếu Dân bị cấp cứu ở bệnh viện ung bướu. Nàng tái người, hớt hải gọi điện cho Hương mấy lần không được, lòng thảng thốt, đứng ngồi không yên. Khoảng một tiếng sau Hương gọi lại, nghẹn ngào báo tin cho bạn:

– Dung ơi! Anh Dân sắp đi rồi, muốn gặp mày lần cuối.

Nàng òa khóc, trách móc Hương qua nước mắt:

– Sao mày ác thế, không báo tin sớm, để bây giờ mới nói…

– Cụ giáo nhà mày ngăn tao không cho nói. Tao cũng nghĩ anh Dân may ra còn trụ được vài tuần nên sợ mày đang khốn khổ vì vụ ông Quyền đột ngột đổ bệnh, nếu báo thêm tin của anh Dân nữa mày sẽ không chịu nổi.

– Anh Dân bị cấp cứu lâu chưa?

– Ngay sau hôm cùng tao đến bệnh viện thăm ông Quyền, gặp mày ở đó. Có lẽ đêm ấy anh Dân thức trắng, cố viết xong chương của đề tài về cha con Mạc Đăng Dung nên gần sáng mệt lả đi và đột quỵ May mà tao đến sớm, kịp đưa đi cấp cứu.

– Nếu mày báo sớm, tao còn được ở bên Dân vài ngày. Đau quá, Hương ơi…

Dung buông máy, đấm ngực gào khóc như người điên. Giời ơi! Sao tôi khổ thế này? Bao nhiêu sự việc khủng khiếp cứ ùa đến tới tấp như một cơn lũ quét, chẳng thà ông giời cho tôi chết quách cho rồi. Uy giấu bặt bệnh tình của Quyền, cha và Hương cũng giấu kỹ chuyện Dân bị cấp cứu, biến tôi thành đứa ngốc, con đàn bà bội tình bạc nghĩa.

Sao các người cứ thương xót tôi kiểu ấy, khác nào bóp nát quả tim yếu ớt này, hở giời?…

Nức nở hồi lâu, Dung cắn răng đứng dậy thu xếp vài thứ vặt vãnh. Nàng dặn dò chị giúp việc đưa đón lũ nhỏ và trông coi nhà cửa rồi gọi xe đưa mình về Hà Nội. Dọc đường ngồi xe, nàng bồn chồn lo không kịp nhìn mặt Dân lần cuối.

Xe đến bệnh viện, Dung chạy một mạch đến bệnh phòng, lao người ôm chặt lấy Dân khóc nấc từng hồi thảm thiết. Dân vẫn còn tỉnh táo để nhận ra gương mặt người yêu. Nàng vừa khóc vừa ghé tai vào gần miệng, nghe anh thều thào nói:

– Anh sắp… sắp đi… đi rồi, chỉ chờ gặp mặt em… em thôi.

– Đừng nói gì hết, anh phải sống, mất anh nữa em làm sao sống nổi.

– Số phận bắt chúng mình phải thế. Em… em phải mạnh mẽ lên mà nuôi con, chăm sóc thầy Hạnh thay anh, Dung nhé!… Đề tài anh viết xong rồi… Em chép vào usb đem về biên tập rồi in ra tặng cho khoa sử trường Cao đẳng Sư phạm hai… hai tỉnh K và Y.

– Thế còn việc hậu sự?- Hương chen vào, khóc to và hỏi.

– Nhờ thầy và hai em đem anh đi hỏa táng, mang bình tro cốt về K chôn sau chùa Sùng Miên để anh được ở bên thầy.

Dân cố gượng nói câu cuối cùng rành mạch từng tiếng rồi từ từ nhắm mắt, buông thõng đôi tay xuống giường…

Lễ tang của Dân diễn ra nhanh gọn vì bố mẹ anh đã qua đời, bà chị cả bị tai nạn giao thông nằm liệt giường hơn một năm, chỉ có mấy đứa cháu từ tỉnh Y về lớ ngớ chẳng biết gì. Mọi việc đều do Hương thay mặt gia đình, chủ động bàn với ông viện trưởng của Dân lo liệu chu đáo.

Hôm sau Dung thuê xe cùng thầy Hạnh và Hương mang bình tro cốt về K. Dọc đường mưa rơi xối xả, giông gió tơi bời. Dung về đến K, thành phố ngập nước, đường xá sụt lở khắp nơi nên chưa thể đưa Dân lên chùa Sùng Miên. Ba người quyết định nghỉ lại ở biệt thự Hoa Phù Dung chờ tan mưa bão.

Họ ngồi ở phòng khách im lặng, mỗi người theo đuổi một ý nghĩ về Dân, về cuộc đời và số phận của Dung.

Chợt trên màn hình ti vi cô phát thanh viên đưa tin mưa lớn liên tục nhiều giờ, xảy ra lũ quét ở vài nơi. Khu du lịch sinh thái bản Phìn bị bùn đất trôi xuống, vùi lấp mấy dãy nhà sàn; còn ở mỏ sắt bản Chiềng, hàng triệu khối đất đá bất ngờ sụt lở, đè lên phân xưởng nghiền quặng. Đường lên cửa khẩu quốc tế bị tắc nghẽn vì nhiều đoạn hư hỏng nặng. Tổn thất về vật chất khá lớn, ước độ vài chục tỷ đồng, nhưng rất may toàn tỉnh không có tổn thất về người…

Thầy giáo Hạnh lại gần bình tro cốt, sụt sùi nói nhỏ với trò: “Dân ơi! Ông Trời nổi giận với người tỉnh K nên mới ra nông nỗi này…”.

Ngoài trời mưa vẫn rơi, gió vẫn gào thét không dứt. Từ trong ảo giác, Dung thấy nàng Lệ Thanh và chàng nho sinh Bùi Trụ đang ngơ ngác tìm nhau giữa cánh rừng già thâm u trên đỉnh núi Hoàng Liên cao vợi.

Bệnh viêm tuyến lệ dường như tái phát khiến hai hốc mắt nàng nhức nhối và cay rát, nước mắt giàn giụa chảy không sao cầm lại được.

Dung nhắm ghiền đôi mắt cho đỡ đau nhức, thầm nhủ lòng, ta đành đợi hai trăm năm nữa may ra được gặp lại Dân trong kiếp luân sinh khác…

Có một sự thật ti vi không nói và Dung không hề biết.

Người dân bản Phìn khi khắc phục hậu quả cơn lũ quét, họ đào bới lớp bùn đất trôi từ trên núi xuống đã tìm thấy một bình chì nặng chừng 60 ký.

Công an đã lập tức đến lập biên bản, niêm phong bình, chờ chuyên gia đến thẩm định bình chứa vật thể gì để điều tra làm rõ…

 

Quy vuong 145x205 B1 (2)

 

(Hết)

Hà Nội 7/2015

Comments are closed.