Thơ Mỹ – một thời đáng nhớ (kỳ 41)

Khế Iêm dịch

George Perreault

_________________________

 

ROOM ENOUGH

 

Lying in my old childhood bed, alone, spring orchard

south through the window, kitchen phone clattering, some

low words, a muted cry, and I knew my father had died.

 

Someone’s job, of course, probably a practiced speech,

and I lay there a while, letting ripples settle into quiet,

old enough to know how we’d much rather go, alone,

 

when the prayerful finally let us be, in early morning,

before roosters, maybe a few dark-haunted crows

ratcheting sun into the sky, though it was hawks

 

I thought of, my father in that flimsy gown, held

so he could piss into a cup, his morphine-glazed eyes

taking but one sharp final glance, past us to the river.

 

And he saw something, I knew, something there

in the elms or clouds, maybe wind riffling the water

with a soft rasp like his death-gnawed lungs, and he

 

nodded and lay down, counting the beads of triumph

and failure, just waiting for us to go home at last,

making our noisy way toward our own little sleeps.

 

 

 

 

PHÒNG VỪA ĐỦ

 

Nằm trên chiếc giường cũ thời tuổi thơ

của tôi, một mình, nhìn ra vườn cây

mùa xuân về hướng nam, qua cửa sổ,

trong bếp tiếng phôn bép xép, vài tiếng

khẽ, tiếng kêu nghẹn lại, tôi biết cha

tôi đã mất. Việc của ai đó, dĩ

 

nhiên, chắc hẳn một cách nói thường lệ

và tôi nằm đó một lúc, để cho

những tiếng rì rầm rơi vào yên lặng,

đủ già để biết làm sao những người

còn sống nhiều phần nên đi, một mình,

 

cuối cùng, cứ cho là chúng ta sùng

tín, vào sáng sớm, trước lũ gà trống,

có lẽ vài con quạ ma quái, khi

mặt trời nhích dần vào bầu trời, qua

đó mới thấy là những con diều hâu.

 

Tôi nghĩ về, cha tôi trong cái áo

choàng mỏng manh, được dìu tới tiểu trong

một cái chén, đôi mắt ông đờ đẫn

vì chất morphin, chỉ một cái liếc

sắc nét lần cuối cùng, đi qua chúng

 

tôi về hướng dòng sông. Và ông nhìn

thấy gì đó, tôi biết, một điều gì

đó trong những cây du hoặc đám mây,

có lẽ gió làm lăn tăn trên mặt

nước với một tiếng khò khè yếu đuối

giống như cái chết gặm dần lá phổi,

 

và ông gật đầu và nằm xuống, lần

tràng hạt thắng thua, như đang chờ chúng

tôi về nhà lần cuối cùng, làm cho

đoạn đường ồn ào hướng tới cái chết

sau rốt của chính chúng tôi.

 

 

* George Perreault: nhà thơ Mỹ. Ông nhận được giải thưởng tại Nevada và Washington.

 

 

 

 

 

Ogden Nash

_________________________

 

TABLEAU AT TWILIGHT

 

I sit in the dusk. I am all alone.

Enter a child and an ice-cream cone.

 

A parent is easily beguiled

By sight of this coniferous child.

 

The friendly embers warmer gleam,

The cone begins to drip ice-cream.

 

Cones are composed of many a vitamin.

My lap is not the place to bitamin.

 

Although my raiment is not chinchilla,

I flinch to see it become vanilla.

 

Coniferous child, when vanilla melts

I’d rather it melted somewhere else.

 

Exit child with remains of cone.

I sit in the dusk. I am all alone.

 

Muttering spells like an angry Druid,

Alone, in the dusk, with the cleaning fluid.

 

 

 

HOẠT CẢNH HOÀNG HÔN

 

Tôi ngồi trong chạng vạng. Chỉ một mình.

Một đứa trẻ đến với một cây kem hình nón.

 

Phụ huynh dễ dàng ngạc nhiên

Bởi tầm nhìn của đứa trẻ giống trái tùng này.

 

Than hồng thân mật tia chiếu ấm áp,

Cây kem hình nón bắt đầu nhỏ giọt.

 

Cây kem nhiều vitamin.

Vạt áo tôi không phải là nơi để dính kem.

 

Mặc dù quần áo của tôi không phải bằng len,

Tôi do dự khi thấy nó trở thành vanilla.

 

Đứa trẻ trái tùng, khi vanilla tan chảy

Tôi thích nó tan chảy ở đâu đó.

 

Đứa trẻ đi khỏi với phần còn lại của cây kem.

Tôi ngồi trong chạng vạng. Chỉ một mình.

 

Những câu thần chú lẩm bẩm như một Druid tức giận,

Một mình, trong chạng vạng, với chất lỏng đã lau sạch.

 

 

* bitamin chỉ là một chữ để tạo thành vần điệu, gợi lên như thể cây kem nhỏ giọt trên đùi anh ta. Druid là một linh mục người Celtic cổ đại, tổ tiên người Ailen, xứ Wales và người Scotland.

 

* Ogden Nash: Nhà thơ Mỹ.

 

 

 

Germain Droogenbroodt

_________________________

 

THE LIGHT

 

It dawns,

the sun rises

out of nowhere

 

ignites

what only apparently

seems to come from afar

 

although it is near

and within us:

 

the light.

 

 

 

 

ÁNH SÁNG

 

Rạng sáng,

mặt trời mọc

từ nơi xa

 

nhóm lửa

những gì rõ ràng

dường như đến từ xa

 

mặc dù nó gần

và trong chúng ta:

ánh sáng.

 

 

* Germain Droogenbroodt: nhà thơ Vương quốc Bỉ, sinh ngày 11 tháng 9 năm 1944 tại Rollegem.

 

 

 

 

Naowarat Pongpaiboon

_________________________

 

BANGKOK

 

Confused and scattered

Eternal holy city

Brilliant light of gold

Reeking smoke and dim.

It is possible to dull the gleam of pearl

Cleaning this dusty and overcast earth?

 

Beautiful Chao Phraya

Continues to flow as the sun sinks.

 

Dull fading green

This earth is eroded and torn.

Sky scrapes and monasteries

Congested streets.

 

Bangkok,

Everything shakes in utter confusion

Day turns to night unchanging.

My countries capital!

 

 

Thailand (1940)

 

Translation: Zakaria Ali

 

 

 

 

BANGKOK

 

Lẫn lộn và tản mát

Thành phố linh thiêng đời đời

Ánh sáng vàng rực rỡ

Bốc khói và mờ mờ.

Có thể làm xỉn chút ánh sáng của hạt ngọc

Làm sạch bụi và che kín mặt đất?

 

Dòng sông Chao Phraya đẹp

Tiếp tục chảy như mặt trời lặn.

 

Màu xanh mờ nhạt

Trái đất bị ăn mòn và rách ra.

Bầu trời nạo và những tu viện

Những con đường đông nghịt.

 

Bangkok,

Mọi thứ lay động và hoàn toàn lẫn lộn

Ngày thành đêm không thay đổi.

Thành phố quê hương tôi!

 

 

* Naowarat Pongpaiboon:  nhà thơ Thái Lan.

Comments are closed.