Mừng thọ Giáo sư Lê Thành Khôi một trăm tuổi

TS Phạm Trọng Chánh

image

Ngày 3-5-2023. Giáo sư Lê Thành Khôi được một trăm tuổi. Sử gia Phan Huy Lê nhận định Giáo sư Lê Thành Khôi là nhà bác học, nhà sử học và văn hóa lớn của đất nước. Là một giáo sư đại học, khoa trưởng phân khoa Giáo dục tại Paris Sorbonne đại học hàng đầu thế giới. Được mời làm tư vấn cho các tổ chức quốc tế như UNESCO, BIT, ACCT (Tổ chức Hợp tác Văn hoá Kỹ thuật các nước Pháp ngữ), Trường Đại học Liên Hiệp Quốc Tokyo, Chương trình UNDP. Được Liên Hiệp Quốc gửi đi làm cố vấn Giáo dục cho hơn 40 quốc gia trên thế giới. Với những công trình nghiên cứu đồ sộ về lịch sử, văn hoá, giáo dục, thi ca, mỹ thuật… xuất bản bằng tiếng Pháp, phải 23 trang sách Từ Đông sang Tây của các giáo sư tên tuổi Việt Nam và thế giới viết tặng Giáo sư Lê Thành Khôi năm mừng thọ 80 tuổi, mới kể hết những tác phẩm, các hoạt động, các bài viết đăng trên các tạp chí khoa học quốc tế như Critique, Synthèses, Eastern World, Tiers Monde, Communità, Revue Economique. Le Courrier de l ́Unesco, Revue Internationale des Sciences Sociales, Comparative Education Review… Sau khi về hưu năm 1992, với học hàm Giáo sư Danh dự, giáo sư vẫn tiếp tục viết sách trước tác những công trình lớn như Lịch sử và tuyển tập văn học Việt Nam.

Trung tâm International Biographical Center (Cambridge) vinh danh ông là Nhà Giáo dục Quốc tế năm 1992-1993, Viện American Biographical Institute vinh danh Người của năm 1993. Năm 2003 Bộ Văn hóa Pháp phong tặng Chevalier de l ́ordre des Arts et des Lettres. Viện Hàn lâm Pháp tặng ông huân chương lớn “Francophonie”.

Giáo sư Lê Thành Khôi là một nhà bác học tên tuổi của thế giới, một niềm hãnh diện của dân tộc Việt Nam đã đóng góp cho sự phát triển Giáo dục của thế giới.

Tôi có may mắn được học với Giáo sư từ năm 1973 đến 1980 tại Viện Đại học Paris Sorbonne, là người Việt Nam duy nhất trong hơn 40 người soạn luận án Tiến sĩ với sự hướng dẫn của Giáo sư, và được gần gũi với Giáo sư trong các công việc tìm kiếm tài liệu giúp Giáo sư tại Trường Viễn Đông Bác Cổ Paris, Thư viện Quốc gia Paris, sinh hoạt trong Hội Khoa học Xã hội Việt Nam tại Pháp do Giáo sư làm Chủ tịch. Khó mà nói hết trong một bài viết 42 quyển sách và 23 bộ sách viết riêng của Giáo sư. Trong đó có những công trình đồ sộ như Lịch sử và Văn minh, Giáo dục: Văn hóa và Xã hội hay Lịch sử và Tuyển tập Văn học Việt Nam, Lịch sử Việt Nam, Công nghiệp Giáo dục… Bài viết này chỉ giới hạn trong quyển sách duy nhất Lịch sử Việt Nam của Giáo sư được dịch và xuất bản tại Việt Nam góp lại từ hai phần hai quyển sách về Lịch sử Việt Nam xuất bản năm 1955 và 1982. Tôi có dịp viết bài phê bình những sai sót bản dịch của ông Nguyễn Nghị và những trả lời phê phán của ông Tiến Anh Hồng Quang đăng trên báo Nhân Dân và ông Nguyễn Phú Trường đăng trên báo Công An Nhân Dân. (xen site Chim Việt Cành Nam).

Dòng dõi sử gia Lê Văn Hưu thời nhà Lý, Giáo sư Lê Thành Khôi sinh ngày 3-5-1923 tại Hà Nội. Thân phụ là cụ Lê Thành Ý (1893-1973) dạy về văn học Việt Nam tại trường Sinh Từ và trường Albert Sarraut, khi sang Pháp ông giảng dạy Trường Ngôn ngữ Đông phương Paris. Cùng với học giả Dương Quảng Hàm, Lê Thước, Nguyễn Lân, Nguyễn Hữu Tiến, Phạm Quỳnh, Nguyễn Văn Vĩnh, Phạm Duy Tốn, Trần Trọng Kim…, Giáo sư Lê Thành Ý thuộc thế hệ những nhà mô phạm lớn của hệ thống giáo dục Pháp Việt.

Được học Trung học Albert Sarraut, do thân phụ được bổ nhiệm giảng dạy nơi đây. Học Ban Triết, học ngôn ngữ văn hóa La Tinh và Hy Lạp, ông say mê đem một đoạn Odyssée dịch ra tiếng Pháp và làm thơ Pháp. Năm 1945, ông cho ra đời tập thơ tác phẩm đầu lòng L ́Offrande des tubéreuses (Trang tặng những cành hoa huệ). Trường Pháp không dạy lịch sử Việt Nam, bù vào đấy ông đọc sách ở nhà. Sau khi đỗ Tú tài ông theo học Luật, Y Khoa và Mỹ thuật.

Tháng 12 năm 1946, ông sang Pháp du học học trường Luật và Kinh tế, năm 1949 bảo vệ thành công tiến sĩ về kinh tế Nhật Bản. Cũng thời gian này ông theo học với Emile Gaspardone, giáo sư về lịch sử Việt Nam tại Collège de France. Để đọc được những tài liệu cổ xưa Việt Nam ông học Hán ngữ và Việt ngữ tại trường Ngôn ngữ Đông phương ba năm, thi xong đỗ thủ khoa, ông còn lấy thêm bằng cử nhân văn khoa về Sử.

Viết xong quyển Le Viêt Nam: Histoire et Civilisation (Việt Nam: Lịch sử và Văn minh) năm 1954 Editions de Minuit xuất bản năm 1955, là cuốn sử đầu tiên viết bằng tiếng Tây phương có cái nhìn khác với sách thực dân. Là một tác phẩm khoa học Sử học, khác với các tác phẩm sử học nhằm mục đích tuyên truyền tại Việt Nam. Tác phẩm sử học của Giáo sư Lê Thành Khôi nhanh chóng trở thành tác phẩm căn bản cho tất cả các nhà nghiên cứu về Việt Nam trên thế giới. Quyển sách này đã đem lại cho nhiều trí thức, sinh viên và ngay cả chính giới phương Tây đặc biệt ở Pháp và Mỹ những nhận định chính xác và nghiêm túc về lịch sử và văn hoá Việt Nam.

Năm 1949 bảo vệ luận án tiến sĩ về Kinh tế chiến tranh Nhật Bản (1937-1945). Năm 1950 tốt nghiệp Học viện Luật pháp Quốc tế (Den Haag, Hà Lan) và sau đó làm trợ giáo ở các trường Đại học Paris, Caen, Nanterrre. Ông xuất bản hai quyển tủ sách Que sais-je: Kinh tế Đông Nam Á (1958) và Lịch sử Đông Nam Á (1959). Năm 1960 ông làm việc ở Viện Nghiên cứu Phát triển Kinh tế và Xã hội (IEDES) Paris với tư cách Tổng thư ký tạp chí Tiers-Monde rồi chuyển sang làm Giám đốc Nghiên cứu. Được bổ nhiệm vào Ecole Pratique des Hautes Etudes với cương vị Chargé de conférances. Từ năm 1963 ông làm tư vấn cho các tổ chức quốc tế như Unesco.

Năm 1968 ông trình luận án về Công nghiệp Giáo dục để lấy bằng Tiến sĩ Nhà nước (doctorat d ́Etat ès lettres et sciences sociales). Công trình được xuất bản với tên L ́Industrie de l ́Enseignement năm 1968. Năm 1971 ông được bầu làm Giáo sư ngành Giáo dục So sánh, Viện Đại học Paris Descartes và sau đó Khoa trưởng Phân Khoa Giáo dục Viện Đại học Paris Sorbonne.

Với công trình Công nghiệp Giáo dục, Giáo sư Lê Thành Khôi được xem là một trong những người sáng lập một bộ môn khoa học mới: Kinh tế Giáo dục. Giáo dục từ đây được xem là một nhân tố chính để phát triển Kinh tế. Kinh tế một nước tăng trưởng lũy tiến, qua chứng minh các phép tính kinh tế, sự đầu tư ngành Giáo dục tại nhiều nước trên thế giới. Thợ được đào tạo chuyên môn có năng suất cao hơn người không học. Giới trí thức chân chính càng nhiều thì đất nước càng phát triển khác với thuyết Mao-ít: “Trí thức thua cục phân”, “Trí thức dao động không có lập trường giai cấp, cần phải cải tạo trí thức bằng lao động”. Chủ trương Mao-ít cực đoan, hết tiêu diệt giai cấp tư sản đến tiêu diệt ba tỷ con chim sẻ ăn bám, đã dẫn đến thẩt mùa, côn trùng phá hoại mùa màng, nông dân không còn người giỏi có kiến thức nông nghiệp dẫn đến kết quả: 35 triệu người chết tại Trung Quốc, 3 triệu người chết tại Campuchia. Chủ trương Stalin tiêu diệt giai cấp tư sản cũng không kém phần bi thảm. Không đầu tư Giáo dục, quốc gia không tiến triển được và bị thụt lùi trong đà tiến bộ của nhân loại.

Năm 1955, khi tác phẩm Lịch sử Việt Nam ra đời đã nổ ra nhiều cuộc tranh luận giữa Giáo sư Lê Thành Khôi và các nhà viết báo trong nước trên báo Nghiên cứu Lịch sử. Như quan điểm ông Văn Tân cho rằng lầm lẫn khi viết Gia Long thống nhất đất nước năm 1802, phải nói nhà Tây Sơn mới đúng. Giáo sư Lê Thành Khôi trả lời, giải thích rằng sau khi thắng, anh em Tây Sơn chia đất với nhau: Nguyễn Huệ chiếm Bắc Hà, Nguyễn Nhạc giữ đất từ đèo Hải Vân đến Bình Thuận, còn Nguyễn Lữ lấy được Gia Định nhưng từ năm 1787 thành này đã lọt vào tay Nguyễn Ánh. Ông Văn Tân không trả lời được nên đã kết án sử gia Lê Thành Khôi là “tiểu tư sản”. Nhiều sách trong nước về sau vẫn tiếp tục cho rằng Nhà Tây Sơn thống nhất Việt Nam.

Một ví dụ khác, nhiều sách vẫn nói 4000 năm lịch sử Việt Nam. Nếu vậy thì mỗi vua Hùng trị vì 100 năm. Làm sao có được! Trong Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên (thế kỷ XIV) viết rằng Hùng Vương dựng nước vào cuối thế kỷ XIV trước Công Nguyên, nghĩa là trung bình mỗi vua Hùng trị nước khoảng 20 năm, như vậy thì có khả tín.

Một vấn đề khác là ”việc nhập cảng” những khái niệm không thích hợp với hoàn cảnh Việt Nam, chẳng hạn như khái niệm “trung đại”. Dùng khái niệm “trung đại” có lý ở Âu Châu để chỉ thời đại giữa Cổ Đại (Hy Lạp và La Mã) và Phục hưng. Nhưng ở Đông Á đâu có gì gọi là “Phục hưng”. Trong lịch sử nghìn năm độc lập của Việt Nam, thay đổi chính yếu giữa giai đoạn 939-1428 (gọi tắt là Lý-Trần) và giai đoạn 1428-1862 (gọi tắt là Lê Nguyễn) là một sự thay đổi chính trị và tư tưởng. Giai đoạn 1 dùng Tam Giáo với Phật Giáo đứng đầu, và giai đoạn 2 là Nho quan. Cần chú ý “sĩ” không phải là một giai cấp vì có sự phân chia nội bộ, người thi đỗ thì làm quan, người không thi đỗ thì về quê mở trường dạy học, nhiều khi đứng về phía nhân dân chống lại triều đình. Chữ “trung đại” vẫn được trong nước nhắm mắt dùng cho đến ngày nay. Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương thuộc về Văn học Trung đại.

Còn nhiều danh từ khác không đúng như “phong kiến” dịch từ chữ “féodal” của Tây phương, là chế độ nhà vua phong đất cho chư hầu, mỗi chư hầu mang tên vùng đất và cha truyền con nối, các lãnh chúa toàn quyền sinh sát trên mảnh đất của mình. Nhiều sử gia dùng bừa bãi dùng từ “phong kiến” chỉ chế độ Việt Nam từ thời xưa bao gồm cả thời Bắc thuộc dưới sự cai trị nhà Hán cho đến năm 1945. Các cuộc tranh luận về “thời nô lệ”, thời “phương thức sản xuất Châu Á” theo kinh điển Mác-xít cũng không thay đổi được nhận định. Việc gán ghép những tội lỗi phong kiến Tây phương vào “phong kiến Việt Nam” gây nên những thảm họa. Theo tôi nó còn mang đến những tai họa không lường trước được như thời Cải Cách Ruộng Đất, các cụ tiến sĩ Nho học vùng Thanh Nghệ Tĩnh bị mang ra đấu tố tội “phong kiến địa chủ”, vài mẫu ruộng gia đình lưu truyền để cúng tế trở thành tội “địa chủ”. Đình, chùa, miếu di tích của “phong kiến” bị phá sạch trong chủ trương “phá đình chùa lấy gạch ngói xây trường học”. Cụ Nghè Nguyễn Mai cháu năm đời Thi hào Nguyễn Du, bị bản án 15 năm tù và chết trong tù sau ba năm chốn rừng thiêng nước độc vùng Hương Sơn. Cụ Nguyễn Khắc Niêm cha bác sĩ Nguyễn Khắc Viện, trí thức hàng đầu Việt Nam, cũng không thoát tội ‘phong kiến địa chủ’ của các ông Trời con. Ai dám nghĩ sự lầm lẫn khi dịch sai một danh từ đã ra những thảm họa lịch sử này. Ngày nay các sách vở giáo khoa Việt Nam vẫn còn tiếp tục chửi bới chế độ “phong kiến”. Không chỉ ở miền Bắc trước năm 1975, mà miền Nam bài hát Suy tôn Ngô Tổng Thống vẫn ca tụng nhà chí sĩ “bài Phong kiến, chống Cộng”.

Ngoài những tác phẩm về Sử học, Giáo dục, Kinh tế, Giáo sư Lê Thành Khôi còn viết những tác phẩm văn chương, mỹ thuật như La pierre d ́amour (Khối tình, Paris, Ed Minuit 1959), Chant de la femme du combattant (dịch Chinh phụ ngâm của Phan Huy Ích và Đặng Trần Côn, Paris, Gallimard 1968), Un désir de beauté (Yêu cái đẹp, Paris, Horizons du Monde 2000), Voyages dans les cultures du Vietnam (Du hành trong các nền Văn hóa Việt Nam, Paris, Horizon du monde 2001), Quelques pas au Sud des Nuages (Vài bước ở Vân Nam, Paris, Indes savantes 2005), tham gia viết trong Arts du Vietnam: la fleur du pêcher et l’oiseau d’azur (C. Noppe và J. F. Hubert chỉ đạo, Tournai, Musée Royal de Mariemont 2002), Vietnam. Arts et cultures de la préhistoire à nos jours (M. Lambrecht và C. Shicklgruber chủ biên, Bruxelles, Musée Royaux d ́ Art et Histoire 2003). Đặc biệt là để minh họa cho các tác phẩm của mình Giáo sư Lê Thành Khôi còn học nhiếp ảnh, để tự chụp lấy các ảnh đẹp, trình bày các hình ảnh bên cạnh bài viết.

Về xã hội Việt Nam, sau những chuyến du hành thăm đất nước từ năm 1970, Giáo sư nhận định qua những buổi nói chuyện tại Paris. Giáo sư thẳng thắn cho rằng: “Xã hội Việt Nam bế tắc vì nhân dân Việt Nam phải gánh chịu một cổ hai tròng.” Một tròng của Đảng Cộng sản Việt Nam và một tròng của Nhà Nước. Bộ máy tổ chức cồng kềnh, nhân dân phải nuôi vừa cán bộ đảng, vừa cán bộ nhà nước do đó người lãnh lương không đủ sống chỉ giả vờ làm việc, người có quyền chức không đủ sống phát sinh ra nạn tham nhũng. Cả nước mất thì giờ trong việc họp hành, báo cáo.

Một đời làm việc không ngơi nghỉ, thú vui của Giáo sư Lê Thành Khôi là đi đấu giá các cổ vật Việt Nam tại Pháp và đi du lịch cả trăm nước trên thế giới để mua về những cổ vật, đặc biệt là cổ vật Việt Nam và Đông Á. Và năm 2015 Giáo sư Lê Thành Khôi đã trao tặng khoảng 330 cổ vật quý cho Viện Bảo tàng Dân tộc học Việt Nam.

Giáo sư Lê Thành Khôi kết hôn cùng bà Thẩm Thị Hồng Anh (1930-2018), dược sĩ, họa sĩ, là Trưởng nữ dược sĩ Thẩm Hoàng Tín tại Hà Nội, người từng giữ chức Thị trưởng Hà Nội. Ông bà có ba người con: Lê Thị Hương Du (1955), đỗ thủ khoa nội trú Y khoa nước Pháp, bác sĩ Nội khoa tại Bệnh viện Đại học Pitié-Salpêtrière; Lê Vân Dao (1957) ,tốt nghiệp Đại học Kinh tế Sorbonne; và Lê Hồng Nguyên (1959) tức nhạc sĩ Nguyên Lê học triết học và mỹ thuật nhưng lại đam mê âm nhạc, học đàn bầu. Nguyên Lê chuyên kết hợp âm nhạc cổ truyền Việt Nam với nhạc jazz tạo thành những âm điệu mới và nổi tiếng được mời đi trình diễn tại nhiều nơi trên thế giới.

Hai mươi năm qua những người viết mừng thọ Giáo sư Lê Thành Khôi 80 tuổi, nhiều người đã qua đời như các Giáo sư Phan Huy Lê, Nguyễn Tài Cẩn, Trần Văn Khê, Nguyễn Phú Phong, Trần Hữu Dũng, Georges Condominas, Philippe Langlet, Pierre Brocheux, Hoạ sư Lê Bá Đảng, Phạm Ngọc Tuấn và bà Thẩm Hồng Anh, phu nhân giáo sư. Giáo sư Lê Thành Khôi vẫn còn đó dù già yếu ngồi xe lăn, nhưng trí tuệ vẫn minh mẫn nhờ luyện tập khí công và bơi lội hằng ngày. Tôi viết bài này mừng thọ Giáo sư 100 tuổi, bậc thầy tôi kính phục tài năng trí thức, nhân cách đạo đức toàn vẹn, được sự kính trọng của mọi người trí thức trên thế giới.

Paris, 3-5-2023

Comments are closed.