Vũ Khắc Khoan, hành trình tự do từ Thần Tháp Rùa đến Đọc Kinh

Vũ Thành Sơn


Đọc Kinh là một trong hai trước tác sau cùng trong sự nghiệp sáng tác độc đáo của Vũ Khắc Khoan. Nếu như khởi đầu là một Thn Tháp Rùa của chàng thư sinh họ Đỗ trai trẻ nhưng đã sớm nhọc nhằn bởi những băn khoăn trước biến động của thời cuộc thì với Đọc Kinh người ta lại bắt gặp một lão trượng họ Vũ tóc tuyết trng, đến tui gác kiếm quy n ri mà vẫn chưa dứt tuyệt những ưu tư thân phận. Có thể nói đó là một hành trình trải dài không đứt đoạn từ Hồ Gươm trầm mặc qua Sài Gòn bao trùm trong bầu không khí máu lửa của cuộc đối đầu lịch sử đến vùng Vạn Hồ êm đềm tuyết lạnh. Đó cũng là một phản ảnh hành trình của cả một dân tộc. Triu triu người đi. Cả đất nước đi. Ctrái đất chng đang chn động tiếng chân Vit Nam trên mi no đường? (Nhìn li thế gii Vũ Khc Khoan – Mai Thảo). Bước chân của Vũ Khắc Khoan đã hòa cùng một nhịp với chuyển động bi hùng của thời đại trong một cuộc đi tìm, một cuộc đi tới.

Nhưng tìm gì và đi tới đâu?

Cũng đều là một thế chênh vênh chọn lựa hiểm nghèo.

Của Đỗ, đó là chọn lựa trong một tình thế thiên hạ chia đôi “Tư bn đè xung mà hùa theo là tư cách tiu nhân. Vô sn vùng lên, nếu nhp vào, t mt tdo”.

Đã đành sống bao giờ cũng là thực hiện những lựa chọn, là tự phủ định trong từng giây phút; bởi, qua hành vi lựa chọn như một chuyển động đó, con người mới thực sự khẳng định mình là tự do, mới thực sự nhập thế, mới thực sự sáng tạo nên hiện hữu của mình bằng sự hiện diện cụ thể trong quan hệ máu thịt với trần gian. Nhưng sự chọn lựa ở vào giai đoạn thi thế chuyn xoay đã không hề dễ dàng đối với Đỗ. “Ti sao li cbt buc là đen hay trng? Mt trăng vòm tri khi khuyết, khi tròn. Ánh sáng mùa thu trong như ngc mà tht ra li hp by màu. Lá cây phong bên bãi lúc xanh, lúc đỏ. Chân lý ở đời không đơn gin như bng dtrcon. Ti sao li cbt buc là đen hay trng?”. Câu hỏi đã vang lên và dội lại những hai lần, đến nỗi có lúc tưởng như là tuyệt vọng. Đỗ “càng suy nghĩ, càng thy ti. Đỗ ngày mt héo mòn”, có lúc “Tu trung chân lý vn chp chn như đom đóm lp lòe gia bãi tha ma.

Ngay cả ý định buông xuôi để học đòi theo đường lối vô vi của Lão Trang, với Đỗ, cũng là bất khả “Vô vi làm sao được? cái bình din nhân sinh tương đối này thì làm sao mà thhin được cái nghĩa tuyt đối ca mt chVô? Vô đấy mà cũng là Hu đấy. Hu đấy mà li là Vô. Khó lm thay!”. Rốt cuộc làm sao ở trong thời đại loạn mà người ta có thể bắt chước như Tăng Điểm để “Đến cui mùa xuân, áo mùa xuân đã may xong, năm sáu người trc độ hai mươi tui, sáu by đứa trcon, rnhau đi tm sông Nghi, hóng gió nn Vũ Vu, ri hát mà v”?

Của Vũ, đó là chọn lựa đã chuyển sang một bình diện siêu việt “Cái thế chênh vênh gia hu và vô đâu có thể đời đời tn ti? Cái khó là nhp vào cái thế đó, không tha hip, mà vươn lên, và vượt qua. Tcái phc tp tìm vcái đơn thun, tìm vcho ti cái khuôn mt ca chính mình khi mình chưa sinh, chưa thành. Ánh dương hng khi chưa nhô lên khi đầu núi. Cái xôn xao nhú lên trong đêm sp tàn. Cái đó.

Vượt qua? Du hi quanh co trn kiếp người (Vũ Hoàng Chương). Núi cao muôn trượng. Đêm dày mịt mùng. Làm sao người ta có thể thực hiện tức thì một cú nhảy vọt vượt không-thời-gian để thoát ra khỏi cái thế đối lập khốc liệt đó? Thách thức bây giờ đã là vô vọng, đã là tuyt mù.

riêng vi tôi, tbnước ra đi, nhng na khuya tnh gic, cái đó chính nó đôi khi vn thp thoáng trong tôi, hóa trang thành nhng li tra vn trtrêu, nhng ti sao ray rt, lãng đãng quanh tôi, tưởng chng như dnm bt, bng li xa vi, nhòa dn, biến hn, tuyt mù.

Đã bao nhiêu bận Vũ “Tôi tthuxa min nhit đới. Đến đây kết nghĩa vi cây du. Lòng vn nhlòng rng thôi đừng nh”.

Có vẻ như cả Đỗ và Vũ đang ở vào tuyệt lộ giữa một bên là trần gian bụi bặm, khổ đau và một bên là cõi tri đặc bit đã đánh mất. Có vẻ như đây không phải chỉ là vấn đề của riêng Đỗ hay Vũ nữa mà cũng là bi kịch của đất nước. Trong thời tao loạn liệu có một con đường giải thoát nào cho Đỗ, cho Vũ, cho cả dân tộc Việt Nam đang ở trong một thế gọng kềm của lịch sử?

Nhưng trước hết, trước vấn đề sinh tử được đặt ra từ chính trong lòng hiện hữu của mình buộc phải có một thái độ lựa chọn dứt khoát, dù cho là một lựa chọn đau xót, Đỗ và Vũ đã hành động như thế nào?

Với Đỗ, một thư sinh vốn chỉ quen với chữ nghĩa thánh hiền “ngày mt bui đến trường nghe ging văn ri vthng nhà, đóng ca đọc sách l”; không gian sống của Đỗ được hình thành bởi “Sách bàn, t, tng chng, tng tp, cả đầu giường. Quyn mxem vi vài trang, quyn khép kín im lìm mt xó tường. Mã Khc Tư ôm p Lão T. Sartre nm cnh tp kinh Tân ước. Bao nhiêu suy nghĩ, bao nhiêu cgng, by nhiêu cây mc cm dc con đường tư tưởng tno xa xôi, rn vườn Eden chưa tng bó sát cho đến bây giờ…. Cho nên chúng ta không có gì ngạc nhiên khi nơi chốn nương tựa tinh thần của chàng là trí tuệ của những tư tưởng gia và những bậc tiên hiền, là kinh nghiệm lịch sử kim cổ của nhân loại mà qua đó, Đỗ nuôi hy vọng sẽ tìm thấy đường lối giải quyết cho những vấn nạn hiện sinh của mình và của thời đại mình.

Nhưng có thật kiến thức cổ kim đã giúp ích cho Đỗ trên con đường tìm kiếm chân lý như Đỗ từng hy vọng?

Giải pháp cho vấn đề của thời đại và sự định đoạt thái độ hiện sinh của Đỗ có đâu dễ dàng như nhà ảo thuật chỉ việc thò tay vào cái túi. Cái túi của họ Đỗ tuy đầy ắp đó nhưng lại hoàn toàn vô dụng.

Thế ra mi người là mt thế sng tùy thi mà biến hóa khôn lường. Thế Chiến Quc, Thế Xuân Thu… Thế sng Mnh Tvà Thế sng Khng Khưu. Mà nào ai đã khuyên nhủ được ai? Hi ơi! Ta vlòng trong mc bi dĩ vãng, ln lên cùng tp giy mn, nhìn thế cc xoay vn bng con mt cnhân. Nay li định gii quyết hin ti bng phương quá kh! Còn vngc trách ai na?

Lời thống trách kia nghe mới ai oán làm sao! Chung quy cũng bởi nhìn thế cục xoay vần bằng con mắt cổ nhân, giải quyết hiện tại bằng phương quá khứ mà Đỗ thất bại trong lựa chọn một cách thế sống song hành với thời đại. “Sách vở ích gì cho buổi ấy?”.

Đỗ thán phc cnhân nhưng cũng thm trách cnhân chbày cái đích mà chng vra phương tin.

Có phải Đỗ bất lực trong một thế kẹt không tiền khoáng hậu?

Với Vũ, tình cảnh cũng không khác.

Biết rinhưng khn mt ni, Khoan tôi căn cơ thô lu, tâm thc li hay lưu luyến tiếng tơ tiếng trúc, cho nên chân tuy đĩnh đạc bước thng mà vn thy tt ngang vào nơi ca lu tu quán, ging ct lên mun bàn câu đạo lý mà vô tình vn ha cùng mt điu vi tiếng cười hô hca đám lãng tsông h. Cũng do vy mà bao nhiêu kinh sách bn vàng gi đến, thy đều được trnh trng xếp lên giá sách, gigìn cn thn. Thế thôi. Nhưng ngi đọc. Thng hoc có min cưỡng mra thì cũng loáng thoáng my trang, cho đến khi khng li trước nhng danh tdng lên cht ngt. Trước mt, sau lưng, bên tbên hu, trên đầu. Như mt hàng rào nhn hot. Như mt tm lưới trùng trùng. Tôi choáng váng tìm định nghĩa. Tôi đặt vn đề. Rút cuc, cun kinh tgiá sách mra trên bàn đọc, li trvnguyên vchcũ, trên giá sách. Ming Pht li nín thinh. Khoan tôi li lm lũi trvcái thế gii chnghĩa cũ kngày xưa.

Cái thế giới chữ nghĩa cũ kỹ ngày xưa ấy đã đóng sập cánh cửa giải thoát trước mặt Vũ.

Đâu là mê, no nào là ng? vẫn còn là một câu hỏi không lời đáp của Vũ ở những trang cuối cùng của Đọc Kinh.

Nhưng bắt đầu từ đây, đối với chúng ta trong tư cách người đọc, vấn đề được đặt ra và được (hay cần?) xem xét trong viễn tượng một tiếp cận khảo sát phê phán một tác phẩm văn chương là sự thất bại của Đỗ và của Vũ, hai nhân vật trong Thn Tháp RùaĐọc Kinh (nếu xem họ Vũ cũng là một nhân vật trong tự truyện Đọc Kinh như một hình thức phản tư), có phải cũng đồng thời là sự thất bại của phương pháp siêu hình học của tác giả Vũ Khắc Khoan?

Nhưng thế nào là siêu hình học? Và tại sao lại cần thiết nêu vấn đề siêu hình học như một cách thế bày tỏ văn chương?

Với triết học hiện đại, triết học đã không còn được quan niệm như là một nỗ lực nhằm giải thích thế giới hoặc khám phá những điều kiện khả thể của thế giới bằng những suy niệm đặt trên nền tảng của một thứ chủ nghĩa duy lý độc tôn nữa mà triết học được coi như là một phát biểu minh bạch của những kinh nghiệm với cuộc đời và tương quan với cuộc đời vốn dĩ vẫn hiện hữu trước tất cả mọi hình thức tư duy. Siêu hình học của con người từ nay được suy tư ngay từ trong lòng của hiện sinh, từ tình yêu, từ hy vọng, từ những nỗi sợ hãi hay oán giận, từ những nhịp đập bồn chồn hay nông nổi của con tim. Dưới góc nhìn đó, nhiệm vụ của triết học và văn chương không còn tách biệt với nhau nữa; diễn dịch triết học và diễn dịch văn chương đều khoác một vẻ hàm hồ như nhau và văn chương cũng là một sự bày tỏ siêu hình học mặc dù nó không hề sử dụng một danh từ triết học nào.[1]

Và như vậy, đâu là siêu hình học của Vũ Khắc Khoan?

Có thể nói phần lớn những tác phẩm của Vũ Khắc Khoan đều lấy cảm hứng từ những truyền thuyết, những huyền thoại, cổ tích: Thằng Cuội ngồi gốc cây đa, Thành Cát Tư Hãn, Thần Tháp Rùa, Quan Âm Thị Kính… Chỉ riêng tập truyện Thn Tháp Rùa đã là một tập hợp bốn truyện cổ tích: Thần Tháp Rùa, Trương Chi, Nhập Thiên Thai, Người Đẹp Trong Tranh. Hẳn nhiên điều đó đã làm nên phong cách đặc sắc của Vũ Khắc Khoan trong văn học Việt Nam nửa sau thế kỷ XX với thể loại truyện huyền ảo như nhận xét của nhà phê bình Thụy Khuê. Tuy nhiên, đằng sau một lựa chọn nào, ở đây là kỹ thuật tác văn, bao giờ cũng tiềm tàng một thái độ triết lý, một lựa chọn siêu hình học. Có thể khẳng định siêu hình học của Vũ Khắc Khoan chính là siêu hình học về thời gian.

Quá khứ mà Vũ Khắc Khoan hướng tới có phải là một quá khứ đã không còn nữa, đã chết hẳn và đoạn tuyệt với hiện tại?

Tuyệt nhiên không. Quá khứ với Vũ Khắc Khoan vẫn hiên diện đó như một ám ảnh không thôi, không mất đi mà vẫn hiện hữu một cách sống động trong tâm tưởng của ông. Vũ Khắc Khoan đã thực sự ăn nằm với quá khứ (mà Thần Kim Quy là một ví dụ mang tính biểu tượng đầy sức thuyết phục), hít thở, đi lại trong bầu khí quyển của quá khứ trong mỗi thời khắc của hiện tại.

Hi ơi! Ta vlòng trong mc bi dĩ vãng, ln lên cùng tp giy mn, nhìn thế cc xoay vn bng con mt cnhân

.

Tôi tthuxa min nhit đới

Đến đây kết nghĩa vi cây du

Lòng vn nhlòng rng thôi đừng nh

Ngày ngày ngi gc cây du

Mơ cưỡi mt con trâu

Đi vmin nng quái

Sống động ở trong từng hơi thuốc “hơi thuc nghe như có pha trn nhiu mùi hương cũ tôi tưởng đã phai, đã tuyt mù?

Thời gian của Vũ Khắc Khoan chỉ hiện hữu trong tâm tưởng. Thời gian đó là một thứ thời gian đóng kín, không có cái đã qua và cái chưa tới, hay có thể nói quá khứ không nhằm bổ sung thêm vào những ngày tháng đã qua mà chỉ đem tới những ngày tháng hiện tại, những ngày hôm nay, để qua đó làm nên một sự hiện diện không đứt đoạn, vĩnh cửu của hiện tại. Thời gian đó rất khác với cái mà chúng ta vẫn gọi là thời gian, khác với thời gian của giới tự nhiên; nó không còn là một phép tổng hợp gồm quá khứ, hiện tại, tương lai mà là một sự tiếp tục, nối dài bất tận của hiện-tại-quá-khứ (hôm nay rồi hôm nay rồi lại hôm nay). Đúng hơn nên gọi nó là thời tính.

Một đoạn đối thoại dưới đây giữa chàng thư sinh họ Đỗ và thần Kim Quy cho chúng ta thấy rõ hơn điều đó.

…Định hi, nàng đã ththbên tai:

Đã đến lúc xa nhau ri đây!

Đỗ không tin mà cãi:

Xa làm sao được? Mà ai bt xa nhau?

.

Xa nhau ít lâu ri gp. Chàng sao nng tình quá thế!

Bị giam hãm trong vòng vây của quá khứ, Đỗ thấy mình lạc lõng trong hiện tại.

Li luôn luôn mc kích stàn bo ca đám phú nông mà tâm sự ủ ê lra ở đôi mày hay nhíu, ming có cười cũng héo ht không vui

Đỗ cm thy hoang mang như người lên đường mt bn đồng hành. Tci, tdo nhưng li thm nghĩ:

Thế ra ta chmt mình?

Như Lưu Thần, Nguyễn Triệu:

Trước kia, có thngm trăng mà quên thế s, bình tĩnh ngâm thơ gia bui nhiu nhương… Nhưng gn đây, cái n ào phc tp bên ngoài đã thy chen ln vào cuc sng lng lbên trong. Cho nên, tuy không mun mà bên cnh tiếng lá, li chim, vn còn nghe thy người mua kbán, cgimà trong làn gió ca sông, trong hương thơm ca hoa ngoi ni, vn thy thong mùi tc ly nng nng.

Như Vũ:

Nhưng đêm đêm trước nhng gipháp hi mra, Khoan tôi vn mang tâm trng mt người ngoi cuc.

Ngoài kia vng lng. Trong tôivn chưa vng lng

Thời gian của Vũ Khắc Khoan là thời gian không có hay bị cắt đứt với tương lai. Nhân vật của Vũ Khắc Khoan cũng vì thế thường sống trong mộng tưởng; họ bị tước đoạt mất tương lai khi không có (hay không thể) hành động và tự do, bởi chỉ có hành động mới là một vươn tới, một vượt qua đến bờ bên kia của hiện tại.

Trong bối cảnh lịch sử chính trị, xã hội Việt Nam vào những năm 50 của thế kỷ XX, Vũ Khắc Khoan và thế hệ của ông thực sự đã không có nhiều lựa chọn. Có thể nào Vũ Khắc Khoan có một cách thế sống khác? Họ sống trong bầu không khí chính trị ngột ngạt với một tâm trạng hoang mang, mất hy vọng khi tương lai phía trước hầu như đã bị phong tỏa. Đó là thời của những Kinh Kha, của những đại tự sự bất thành.

Nhưng có lẽ nào bóng dáng tương lai hoàn toàn tuyệt mù trong thời gian của con người?

Đâu là kế sách giải thoát để tìm đến chân trời tự do của Vũ Khắc Khoan?

Hành động. Cho dù có thể “y thế ri mà cũng hng cả… Nthn dù mu nhim, nếp xoáy Loa Thành có him trnhưng người đứng đầu không vng tay sdng thì đại svn không thànhNhân stht là phc tp. Tính trước làm sao được mi oan tình Trng Thy – MChâu? Cho nên Thiên Đình dù có biết trước thi cơ cũng không lý ni nhân s. Lê Li, Quang Trung chng qua chlà nhng người ý thành, tâm chính, hiu thi, ni dy mà thiên hphi bình, có thế thôi!

Đỗ quyết định đốt sách để nhận kiếm thần từ thần Kim Quy. Khi ấy đúng vào năm Nhâm Thìn, cầu Thê Húc bị sụp đổ.

Thi đã đến, t là cái thế chung cho phn đông thiên h. Vli kiếm thn sgiao phó tn tay, chàng ngn ngi ư?

Vũ, “Nietzsche, Dostoievski, Sartre, Singer ln lượt rút vgiá sách. Đầu giường chcòn li kinh và k.

Lưu, Nguyễn trở gót về cõi hồng trần “Theo tôi thì không li, chvì không thể ở li. Chvì thy Thiên Thai không phi là chca mình

Tôi nhìn thấy Vũ Khắc Khoan đang đẩy thêm một khúc củi vào lò. Ngoài trời tuyết trắng xóa mịt mùng.

Viết nhân dp 100 năm ngày sinh 1917-2017 ca nhà văn Vũ Khc Khoan


[1] Maurice Merleau-Ponty, Sens et Non-Sens, 1948, nxb Nagel, tr. 55.

Comments are closed.