Uống bia rượu ở Hà Nội: Rượu và Chính trị ở Việt Nam


Vũ Quốc Ngữ dịch (VNTB)


Một người đàn ông đứng xếp hàng trong một hàng đợi dài hàng dặm dài bên ngoài một cửa hàng ở ngoại ô Moscow chờ đợi để mua một số vodka.

“Đúng thế,” anh kiên quyết nói với bạn mình, “Tôi đi Kremlin để giết Gorbachev.”

Anh ta đi khỏi chỗ xếp hàng để giết lãnh tụ Xô Viết. Một giờ sau, anh ta trở lại.

“Anh đã giết ông ta chưa?” người bạn hỏi.

“Giết hắn?” Người đàn ông trả lời, “Hàng người đợi ở đó dài hơn hàng ở đây.”

Giống như hầu hết các câu chuyện hài hước về đàn áp chính trị, câu chuyện trên nói về tình trạng cấm rượu và nhu cầu mua rượu uống ở Liên xô trước. “Kinh doanh ở Liên Xô là gì?” Vodka. Lại một câu nói đùa. “Cướp một xe chở vodka, bán lấy tiền để mua được nhiều vodka hơn.” Tôi đã từng nói những câu chuyện cười như thế với một số nhà hoạt động nhân quyền ở Hà Nội, khi cùng nhau uống bia với giá nửa đô một cốc, và nhận được tiếng cười châm biếm.

Nhưng, thay vì hài hước, sự phẫn nộ là phản ứng trong tháng này đối với thói quen uống bia rượu của cựu quan chức cao cấp Đảng Cộng sản Việt Nam. Các blog chính trị của đất nước này nói về thị hiếu uống rượu cao cấp của Đinh La Thăng, cựu bí thư ở thành phố Hồ Chí Minh, người đã bị khai trừ khỏi Bộ Chính trị vào tháng 5, và sau đó bị bắt trong tháng này vì những cáo buộc “quản lý kinh tế yếu kém” liên quan đến thời gian của ông ta làm chủ tịch của Tập đoàn Dầu khí PetroVietnam. Ông ta dường như ưa thích Macallan 30, một loại rượu whisky Scotch có giá khoảng 2.000 USD một chai.

Có một đồng chí tên là Đinh La Thăng, người ưa thích hương vị cho Macallan,

Các nhà độc tài có một sự say mê đặc biệt về chất cồn. Năm ngoái, tờ Thời báo Bình Nhưỡng của Bắc Triều Tiên tuyên bố chế độ đã chế ra một loại rượu cao cấp có nguồn gốc gạo và nó gây đau đầu cho người uống, một tin gây hài hước cho hầu hết người Bắc Triều Tiên, những người đã phải từ bỏ một nền kinh tế dựa vào lúa gạo mà không để họ suy dinh dưỡng. Cuốn sách tuyệt vời của Mark Lawrence Schrad, Vodka Chính trị: Rượu, Chế độ Tự trị, và Lịch sử bí mật của Nhà nước Nga, đưa ra lập luận rằng rượu là một yếu tố quyết định cho lịch sử Nga.

Mối quan hệ của Việt Nam với rượu cũng không kém phần thú vị. Với nhiều năm trước đây, tôi đã đọc cuốn sách sáng tạo của Erica J. Peters, Sự thèm ăn và khát vọng ở Việt Nam: Thực phẩm và Đồ uống trong thế kỷ 19. Sự đổi mới, trước tiên, vì khái niệm ‘thế kỷ 19 dài’ của Việt Nam, là một nỗ lực (thành công trong quan điểm của tôi) để đánh giá chính sách giao thoa của triều Nguyễn với những chính sách của người Pháp thực dân.

Về rượu, tôi muốn hướng người đọc chú ý hai chương ba và bốn, để biết được các biện pháp mà người Pháp đã cố gắng (và không thành công) để vận dụng trong việc kiểm soát việc tiêu thụ rượu của người Việt Nam, trước hết bằng cách đánh thuế việc sản xuất lúa gạo và sau đó bằng cách độc quyền sản xuất, và hình sự hoá việc nấu và buôn lậu .rượu

Là một phần của sứ mệnh khai hoá, người Pháp cũng muốn hướng người Việt uống bia thay vì rượu gạo vì người Pháp tin rằng bia có phẩm chất cao và an toàn hơn, được sản xuất bằng kỹ thuật hiện đại. Bia đã trở thành một biểu tượng tiềm tàng cho nỗ lực của Pháp nhằm “hiện đại hóa” Việt Nam. Người Pháp cũng tuyên bố họ đơn thuần phá vỡ sự độc quyền của Trung Quốc đối với sản xuất lúa gạo, quy tắc cũ chia-để-trị.

Tuy nhiên, tác giả Peters lưu ý, sự độc quyền của chính quyền thực dân về rượu gạo đã gây ra sự oán giận của người Việt Nam, dẫn đến các cuộc biểu tình bạo lực khi các quan chức cố gắng ngăn chặn việc sản xuất rượu trong hộ gia đình (rượu quốc lủi), mà nhiều người nghĩ là tốt hơn đồ uống do Pháp sản xuất.

Peters cho biết thêm: “Ý tưởng về một loại rượu gạo truyền thống nổi lên như một dấu hiệu đánh dấu sự kháng cự của Việt Nam đối với những thay đổi không mong muốn. Thật vậy, những người đấu tranh cho tự do và chống thực dân đã sớm học cách nắm bắt sự tức giận của công chúng như là một công cụ lôi kéo người. “Mối đe doạ ngục tù liên tục đối với những người sản xuất hoặc tiêu thụ rượu quốc lủi tạo ra sự chống đối chính quyền thực dân,” Peter bổ sung.

Hồ Chí Minh đã nói “Người Pháp đầu độc dân tộc chúng ta bằng rươụ và thuốc phiện.” Ông ta có thể thêm “rượu của họ” để làm rõ. Tuy nhiên, ông đã viết khi ở tù vào năm 1942: “Một người phải làm gì trong nhà tù, khi không có rượu, không có hoa?” (Nguyên bản: Trong tù không rượu cũng không hoa. Đối với cảnh đêm đẹp này biết làm thế nào. Nhật ký trong tù- người dịch)

Tôi không làm việc đánh giá cuốn sách của Peters, một cuốn mà tôi khuyên bạn nên đọc, mặc dù rất khó để tìm ra. Tuy nhiên, với lịch sử gần đây hơn, rượu không mất đi tầm quan trọng trong chính trị và xã hội ở Việt Nam, nhất là vì thị hiếu rượu đắt tiền của các tầng lớp quan chức cao cấp như Ding La Thăng, làm tăng thêm sự oán giận do bất bình đẳng ở quốc gia cộng sản này.

Ông Đinh La Thăng

Người Việt Nam được coi là một trong số những người nghiện bia rượu nặng nhất ở Đông Nam Á, không mấy ngạc nhiên khi xem xét các con số. Một nghiên cứu của WHO, vào năm 2014, cho thấy mức tiêu thụ bình quân đầu người cho người lớn tăng gần gấp đôi từ 2003-2005 đến 2008-2010. Một báo cáo khác cuả Bloomberg cho thấy nhu cầu bia đã tăng hơn 300% kể từ năm 2002. Hãng tin này cũng viết rằng Euromonitor International, một công ty nghiên cứu, cho biết mức tiêu thụ rượu bia bình quân đầu người là 40,6 lít trong năm nay và dự kiến ​​sẽ tiếp tục tăng trong những năm tới. Công ty nghiên cứu này mô tả Việt Nam là “chiến trường chính của các nhà sản xuất bia.”

Tôi ngần ngại đưa ra bình luận về “văn hoá bia rượu” của người Việt Nam, chỉ có điều nó phản ánh đúng bản năng con người nước này là nhiệt tình và hiếu khách, bia rượu là phương tiện liên kết và luôn có trong các dịp đặc biệt. Vô tửu bất thành lễ, không say không về. Bia rượu là niềm vui cuối cùng của những người buồn chán trong những giai đoạn khó khăn.

Nhiều phụ nữ Việt cũng uống rượu bia với tửu lượng cao, nếu bạn quan sát ở các nhà hàng và vũ trường vào ban đêm ở quốc gia này. Hiện tượng này ít gặp hơn ở Campuchia, một nước láng giềng của Việt Nam.

Nhưng, ngày nay, bia rượu có một tầm quan trọng rõ ràng hơn trong chính trị. Nhà sản xuất bia lớn nhất của Việt Nam, Tổng Công ty Bia – Rượu – Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) và Công ty Cổ phần Bia Rượu Nước giải khát Hà Nội (Habeco), từng là doanh nghiệp nhà nước trong một thời gian dài. Hai công ty này từng đưa lại doanh thu khá lớn cho Đảng Cộng sản. Thị trường bia của cả nước năm ngoái có giá trị khoảng 6,5 tỷ đô la.

Tuy nhiên, Đảng đã quyết định bán số cổ phần đáng kể thuộc sở hữu nhà nước ở hai công ty này, một phần trong kế hoạch thoái vốn toàn bộ hoặc từng phần ở 375 doanh nghiệp nhà nước cho đến năm 2020. Tháng này đã bán phần lớn sở hữu nhà nước ở Sabeco, được báo cáo là đợt IPO lớn nhất của một DNNN trong lịch sử Việt Nam. Mặc dù có sự quan tâm của một số công ty quốc tế lớn, Thai Beverage, do Charoen Sirivadhanabhakdi quản lý, là nhà đầu tư duy nhất, chiếm 54% cổ phần với mức giá 4,8 tỷ USD, hầu hết số tiền thu được sẽ được đưa vào quỹ của chính phủ. Chính phủ cũng có kế hoạch bán một lượng lớn cổ phần ở Habeco vào đầu năm tới.

Reuters tuyên bố hồi tháng trước, trước khi có tin bán. “Việc bán Sabeco có thể đưa ra một kế hoạch chi tiết cho việc tư nhân hóa khác mà Hà Nội đang xem xét như một phần của cải cách kinh tế rộng lớn hơn. Việc bán cổ phẩn đã không hoàn toàn theo kế hoạch. Có những kỳ vọng rằng các công ty lớn của Nhật Bản và Châu Âu sẽ đầu tư, nhưng họ đã bị cản trở bởi mức giá 14,09 USD/cổ phiếu của chính phủ.”

Tuy nhiên, việc bán Sabeco chỉ có thể được coi là thành công của Đảng. Ngày nay, Việt Nam có nhiều nợ và không có đủ vốn để tài trợ cho các dự án cơ sở hạ tầng cần thiết để giữ cho nền kinh tế phát triển, và quan trọng hơn đối với các quan chức trong bộ máy, là duy trì tính hợp pháp cho Đảng trong con mắt của công chúng, những người đang ngày càng tò mò (và phản biện) về mục đích của đảng ngày hôm nay.

Thật vậy, không giống như các nhà cai trị trong quá khứ của Việt Nam, Đảng Cộng sản không có ý muốn kiềm chế sự say mê của công dân, cũng không kiểm soát thị trường bia rượu bằng các biện pháp mạnh. Có lẽ lịch sử đã dạy đảng, rằng hãy để người dân tự do uống rượu nhằm tránh tích tụ bất mãn trong dân chúng vốn đã chịu nhiều áp lực. Mục tiêu duy nhất của đảng là làm sao kiếm được nhiều tiền từ việc tiêu thụ bia rượu của dân chúng.

Nguồn: Drinking in Hanoi: Alcohol and Politics in Vietnam

Comments are closed.