Đinh Thanh Huyền
Nhiều năm trước, khi đọc tập tiểu luận Những màu khác của Orhan Pamuk (nhà văn Thổ Nhĩ Kỳ, Noben văn học 2006), tôi đã có những băn khoăn và ngầm đối chiếu với thể tùy bút ở Việt Nam. Trong lí thuyết và thực hành văn học phương Tây không có khái niệm “tùy bút” nhưng có những thể loại gần gũi về chức năng và phong cách trong đó có thể loại essay (tiểu luận). Essay (Âu-Mỹ) và tùy bút (Việt Nam) đều là những thể văn xuôi có tính chất tự do, cá nhân hóa cao độ, có sự kết hợp của thông tin xác thực và yếu tố chủ quan của người người viết trong đó sự thật đời sống là nền tảng để nhà văn bày tỏ những chiêm nghiệm, triết lí và xúc cảm riêng. Tuy nhiên, điểm khác biệt lớn nhất giữa các tiểu luận của Orhan Pamuk (hoặc H. Murakami) với tùy bút Việt Nam từ Thạch Lam, Nguyễn Tuân, Võ Phiến, Nguyễn Thi, Hoàng Phủ Ngọc Tường,… đến Chu Văn Sơn, Lê Minh Hà, Nguyễn Trương Quý, Nguyễn Ngọc Tư,… là: một bên như một cuộc đối thoại tư tưởng, còn bên kia như một bản độc tấu nội tâm. Một bên thiên về “nghĩ cho rõ”, một bên thiên về “cảm cho thấu”. Những khác biệt đó thuộc bản sắc sâu xa của các cộng đồng văn hóa. Tuy nhiên, theo thời gian, đến nay tùy bút của Việt Nam đã tăng cường tính triết học – phản tư. Những cây bút nổi bật thường kết hợp cả suy niệm và biểu cảm với một thiên hướng tư tưởng rõ ràng.
Có lẽ, trong thể kí, tùy bút là tiểu loại riêng dành cho những người viết mà cảm xúc, tri thức, sức suy tưởng đã đạt đến độ tinh, sâu và lạ. Tùy bút không dung nạp cái hời hợt, loáng thoáng, “cưỡi ngựa xem hoa”. Ở khoảng giữa của hư cấu và phi hư cấu, tùy bút đòi hỏi một cách thức liên hệ với thực tại khác biệt. Logic của tùy bút nằm ở cách kết hợp tinh tế giữa thông tin có thể kiểm chứng (địa danh, nhân vật, thời gian, sự kiện, số liệu) với chất trữ tình, sao cho hai yếu tố đó quyện vào nhau mà không cái nào bị lép. Tùy bút là thực tại đời sống được diễn dịch bởi cảm xúc (Thực tại trong bút kí, phóng sự không được “gia nhiệt” bằng cách này nên – một cách tương đối – gần với tri nhận tức thời, khách quan của con người hơn tùy bút). Và do đó, tùy bút – thể văn kết tinh của trải nghiệm cá nhân, tư duy độc lập và năng lực biểu đạt – trở nên đầy hương vị và thân thiện.
Trong giới hạn đọc của mình, tôi cho rằng Trần Tuấn là nhà văn đã góp cho tùy bút Việt Nam những sắc màu hiện đại rõ rệt. Bằng chứng là trong tùy bút Trần Tuấn không có những câu chuyện lớn, chỉ ghi lại một khoảnh khắc của đời sống: một “người đàn bà bán tro bên kia Thu Bồn”, một “chiếc chén cổ” ở Hội An, “chiếc gương của Huyền Trân Công chúa”, “những viên ngói gỗ nơi cổng ngõ ngôi đền cổ vạn năm tuổi Wat Phou của Lào”, “bờ xe nước” của nông dân Quảng Ngãi, “ngọn khói bếp lụt quê nhà”… Tùy bút nhân vật của Trần Tuấn cũng chỉ găm vào những chi tiết nhỏ: Câu nói “tôi đi vắng rồi” của họa sĩ Dương Bích Liên, “cái nghèo kiết xác” của nhà văn Vũ Trọng Phụng, “gian nhà mái ngói đọng rêu đã oằn xuống hờ hững” của thi sĩ Hữu Loan, “rượu và thơ” Vũ Hữu Định, một đêm uống rượu trên đỉnh núi Kim Phụng của bốn nhà thơ, “chợ Đo Đo” trong truyện Nguyễn Nhật Ánh, chữ “vậy vậy” của Thái Bá Lợi,… Tuy nhiên, những chi tiết nhỏ đến mức tưởng như vụn vặt lại chứa trong nó nhiều tầng cảm xúc, liên tưởng và triết lí. Những chi tiết nhỏ ấy được lăng kính cảm xúc phóng chiếu thành thế giới. Từ một người đàn bà bán tro bên sông Thu Bồn, nhà văn ngẫm đến cái nặng nhẹ của tro bụi trần gian, cái mong manh như tàn tro của kiếp người. Chiếc chén Khổng Tử ở nhà Tấn Ký dẫn đường đến triết lí: “con người cần phải biết kiềm chế hành vi, giữ cho ý nghĩ luôn ở trạng thái trung hòa, không thái quá, không bất cập…”. Viên ngói gỗ đơn sơ gợi chiêm nghiệm về thời gian và những vẻ đẹp cần gìn giữ. Từ hai chữ “thắp đèn” mà nhà văn liên hệ đến “bật điện” để thấy được giá trị của sự thắp lên, truyền đi “ngọn lửa” thực sự, nguồn sáng thực sự soi tỏ cái tâm con người. Một câu nói “Tôi đi vắng rồi” của Dương Bích Liên đã đủ để nhà văn viết về sự quyết liệt buông xuống mọi phiền não thế gian của bậc danh họa. Từ cái chợ Đo Đo mà ngẫm ngợi: “Nơi chốn con người với Nguyễn Nhật Ánh chính là nơi cư ngụ bền bỉ của kí ức và vẻ đẹp, làm nên căn cước văn chương không giới hạn của một đời người”. Tùy bút hiện đại không còn gánh vác vai trò của một đại tự sự mà chỉ dừng lại ở một lát cắt của hiện thực. Trần Tuấn chọn chi tiết nhỏ không phải vì thiếu chất liệu, mà vì kết tinh trong cái nhỏ nhặt, mong manh ấy là bản chất đời sống hiện đại. So với những tùy bút đồ sộ của Nguyễn Tuân, Nguyễn Trung Thành, Hoàng Phủ Ngọc Tường,… những tùy bút bao quát được những mảng đời sống lớn của Võ Phiến, Nguyễn Thi, Thép Mới,… tùy bút Trần Tuấn phát hiện thực tại không ở đại cảnh mà ở cái bé nhỏ, thoáng qua, dễ bỏ lỡ. Điều này có lẽ phù hợp với đời sống đương đại, nơi chúng ta không còn tập trung vào một trung tâm đơn nhất. Ta không còn sống trong những huyền thoại lớn, mà sống trong từng khung cửa sổ, từng ánh nhìn ngược gió, từng cơn mưa rất thật mà cũng rất mơ. Một câu nói, một hình ảnh, một cảm xúc bất chợt – tất cả đều có thể mang theo triết lí sâu xa.
Bởi hiện thực trong tùy bút Trần Tuấn là hiện thực của những khoảnh khắc sống sâu nên hầu hết tác phẩm của anh vừa có tính tài liệu, vừa có chất thơ, lại vừa có hơi hướng triết học. Trần Tuấn không đơn thuần viết về cái “hôm nay”, đang xảy ra. Anh thường bắt đầu từ hiện tại rồi trôi ngược về một miền thời gian đã qua – khi ấy, hiện thực trở thành hiện thực đã được nhớ lại, được lọc qua kí ức và mang màu sắc cảm xúc. Kỉ niệm với nhà thơ Trần Vàng Sao cho Trần Tuấn những trang viết thấm thía về một thi nhân gánh nỗi trầm luân của ngòi bút mà “trong thơ, có lẽ rất hiếm nhà thơ nào dữ dội, thẳng băng, không chút e ngại như ông. Với một giọng thơ pha trộn biết bao cung bậc cảm xúc. Hào hoa, hào sảng, minh triết, nhưng cũng rát bỏng, nhức nhối thấu tâm can… Trên hết là lòng yêu nước, thương người đến không khoan nhượng” (Rất Vàng Sao). Trong tùy bút Trần Tuấn có những chi tiết trở đi trở lại như thể đã khắc vào tâm trí: tiếng dội “thình thình” xuống nền đá của ngôi chùa cổ, người bạn thi sĩ đốt tập thơ mới in thả xuống biển như một cuộc hiến tế kì lạ, những tri kỉ Hoàng Phủ Ngọc Tường, Nguyễn Trọng Tạo, Nguyễn Lương Ngọc in hằn nét thương quý, nét đau lên cuộc đời và trang văn Trần Tuấn. Những chi tiết ấy không nhằm “hồi kí hóa” mà gợi sự trầm tư về ý nghĩa cuộc sống. Chính sự kết nối một cách chặt chẽ với lịch sử tinh thần người viết đã khiến cho hiện tại trong tùy bút Trần Tuấn hiếm khi hiện diện như một mảng đời nguyên phiến, vững chắc. Nó thường được trình hiện qua cảm giác chông chênh, từ đó gợi ra tính nhất thời, bấp bênh của tồn tại: “Đêm Gành Cả thường là đêm thức. Đêm trắng. Ai một lần ở lại đêm xứ này đều biết. Bởi trai tráng của làng đang ở hết Hoàng Sa, Trường Sa. Và đêm là thời gian làm việc chính của những người chuyên nghề lặn biển xứ Bình Châu này. Vụ ngư dân Trương Đình Bảy trong xóm bị bắn chết ở vùng biển Cỏ May – Vành Khăn (Trường Sa) mới đây cũng xảy ra lúc sẩm tối. Khi các ngư dân xuống các thúng tỏa ra xa tàu mẹ vài hải lý để lặn biển, trên tàu chỉ còn thuyền trưởng và ông Bảy nấu bếp. Đêm trên biển và dưới lòng biển đều rập rình mối đe dọa như nhau” (Đêm ngủ Gành). Và tương lai trong tùy bút Trần Tuấn, là những trực cảm mơ hồ về một sự bất an hoặc một hi vọng lặng lẽ. Trực cảm trong tùy bút Trần Tuấn không chỉ là của cá nhân, mà đôi khi là linh cảm của một thời đại, một xã hội: “Cõi nhân gian này là gì khi bước vào thời đại số hóa ký ức rồi sẽ được quy về những dãy số vô tận? Khi thời gian số hóa có thể bấm tiến bấm lùi hoặc xóa hoặc lưu hoặc chèn hoặc đổi chỗ. Chèn gương mặt tôi tên tuổi tôi vào một cuộc chiến tranh photoshop vào những thần thoại phần mềm vào mối tình ấn định sẽ chứa bao nhiêu byte tình ái. Có khi nào con người đặt trở lại đôi bàn tay xuống mặt đất để bước đi, trên núi đồi thảo nguyên đại dương của trập trùng cột số? Hậu kỳ của thời đại người đứng thẳng sẽ là thời đại cúi đầu?” (Cõi nhân gian mấy người). Như vậy, hiện thực trong tùy bút Trần Tuấn không nằm yên trong không gian hay thời gian tuyến tính. Nó là hiện thực được hồi tưởng, đang hiện diện, dần tan biến, và chưa đến – cùng một lúc – trong một “tầng không gian cảm xúc” rất riêng. Chính bởi thế, tùy bút Trần Tuấn không vang dội giọng điệu sử thi, cũng không chìm đắm vào những vẻ đẹp cũ càng một thời vang bóng. Những giá trị đã hoàn kết dù quý giá đến mấy cũng dần xa lạ với dòng sống sinh động, bề bộn đang ào ạt chảy. Nếu không thoát được sức trì kéo của vẻ đẹp đã qua, tùy bút sẽ chỉ còn là những khái niệm phô trương không mấy liên quan đến hiện tại. Đến từ cái bất định, khuấy động niềm say mê và nỗi hãi hùng trước đời sống là một dạng thức của tùy bút hiện đại mà Trần Tuấn đã “tải lên” trang viết của mình.
Chính những chi tiết nhỏ mà Trần Tuấn đặc biệt chú tâm là “sợi chỉ đỏ” chạy suốt mỗi tùy bút, góp phần tạo mạch lạc của văn bản. Tùy bút vốn có tiếng “tùy hứng, tự do”, nhưng không có nghĩa nó được phép lộn xộn, tùy tiện. Mỗi nhà văn có cách riêng dẫn dắt bạn đọc theo dòng chảy cảm xúc và suy nghĩ cá nhân, từ một điểm xuất phát – lan tỏa – rồi kết lại. Điểm mạnh ở tùy bút Trần Tuấn chính là tạo nên một mạch lạc kiểu “phi tuyến tính” nhưng có chủ đích. Mạch liên tưởng, đối chiếu, triết luận trong tùy bút Trần Tuấn rất mạnh. Mạch văn giống như dòng nhạc – biến hóa nhưng nhất quán, có sự uyển chuyển trong giọng điệu: trầm tư, hóm hỉnh, đau đáu, thản nhiên… nhưng vẫn là một bản sắc duy nhất. Ngôn từ giàu chất thơ (có lẽ vì Trần Tuấn còn là một thi sĩ có giọng thơ độc đáo). Sự liên kết nội tâm từ hình ảnh đến cảm xúc, suy nghĩ, từ cái tôi đến cái ta, từ sự sống đến suy niệm,… mang màu sắc riêng nhưng tuân thủ triệt để logic thể loại. Điều ấy cho thấy một “cái tôi” tác giả mạnh mẽ, có khả năng tự soi chiếu bản thân, dám đối diện với những mặt phức tạp, đôi khi là mâu thuẫn trong chính mình, trong con người và xã hội. Một “cái tôi” với cảm xúc sâu mà không ủy mị, lí trí sáng mà không khô cứng, viết như một hành vi sống, hành vi suy nghĩ.
Những điều trên (tính không hoàn kết của sự kiện, suy ngẫm, tư tưởng và mạch lạc chặt chẽ trong kết cấu) khiến tôi liên tưởng đến những bản phác thảo trong hội họa. Chủ đề đã được định sẵn, sự dang dở vĩnh viễn của hình sắc, những ảo vọng thành thật của tác giả khiến các phác thảo, đôi khi, nói được nhiều hơn tác phẩm. Mà có lẽ, chính tác phẩm nghệ thuật cũng đang là phác thảo không bao giờ hoàn tất của khát vọng nghệ sĩ thì sao?
Hà Nội, tháng 7/2025