Dương Đình Giao
Sử dụng cái khẩu trang đầu tiên có lẽ là những nhân viên y tế trong các bệnh viện, để giữ vệ sinh, để hạn chế lây nhiễm vi trùng, vi khuẩn. Sau, một số gia đình có hiểu biết, khi dọn dẹp những nơi không được sạch sẽ, người ta cũng dùng cái khẩu trang để ngăn mùi xú uế, bụi bặm.
Mùa đông năm 1956, có dịch cúm (trước đó, từ “cúm” người ta dùng để gọi bệnh của con chó, nói chó cúm nghĩa là chó ốm). Học sinh trường phổ thông cấp 3 Hà Nội tập trung ở sân phía trước ngôi trường ở 47 Lý Thường Kiệt, nghe thầy Hiệu trưởng Phạm Quang Hiểu nói về việc phòng căn bệnh vô cùng nguy hiểm lần đầu xuất hiện. Cả thầy và trò khi ấy mới từ ngoài kháng chiến về, còn nghèo lắm (trừ một số ít người có gia đình còn ở lại Hà Nội không đi kháng chiến). Mình còn nhớ thầy dạy để chống rét, hạn chế bệnh cúm lây nhiễm, có thể dùng cái quần đùi (quần lót) gấp lại làm khăn quàng cổ và đeo khẩu trang để hạn chế khí lạnh. Rất nhiều học trò đã làm theo lời thầy dạy. Từ đó về sau, mỗi khi có gió mùa đông bắc, đi xe đạp, nhất là khi đạp ngược chiều gió, đeo cái khẩu trang, có cảm giác ấm hẳn. Khẩu trang có thêm chức năng ngăn lạnh cho cơ quan hô hấp.
Từ vài chục năm nay, xã hội phát triển, người xe đi lại đông đúc, toàn ô tô, xe máy, đường xá bụi bặm, dù trời nóng như thiêu như đốt, người ta vẫn phải dùng cái khẩu trang để ngăn bụi. Quả thực cái khẩu trang mang vào mùa nóng rất khó chịu nhưng còn hơn phải thở hít trong cái không gian nhiều khi đặc quánh những bụi, nhiều lúc có cảm tưởng như bụi đất hắt vào mặt.
Cái khẩu trang ban đầu chỉ che phần miệng và hai lỗ mũi, nhưng diện tích của nó lớn dần. Đến khi được thêm chức năng chống nắng nóng để giữ cho vẻ đẹp làn da (nhất là đối với phụ nữ) thì nó lớn tới mức che hết cả khuôn mặt, chỉ còn chừa có khoảng hai con mắt. Nhưng hai con mắt cũng không được hoàn toàn tự do. Để tránh nắng chói chang và bụi, ai đi ngoài đường cũng đeo cái kính râm to xù. Nhiều khi, thấy có người đi ngược chiều gật đầu như chào mình mà khó nhận ra ai để đáp lễ vì khuôn mặt người ấy đã bị cái khăn và cặp kính đen che kín. Mùa hè, trên mọi nẻo đường xuôi ngược, nhiều khi có cảm giác như đang đi trên một xứ sở xa lạ vì phần lớn những người trên xe, dưới cái mũ bảo hiểm kia đều giống như “nin-ja” vậy.
Qủa thật, khó có cái gì mang nhiều chức năng như cái khẩu trang. Từ ngăn vi trùng, hạn chế mùi khó ngửi, giữ ấm mũi họng, chống bụi, chống nắng nóng. Và rồi không biết nó sẽ còn được mang những chức năng gì nữa.
Nhưng sự tình không chỉ dừng lại ở đó. Nhiều người trong chúng ta thường có thói quen rất biết giữ thể diện của mình trước mặt người quen biết. Mọi lời nói, hành vi cử chỉ đều vô cùng cẩn trọng nếu họ biết đang được những người biết rõ về mình theo dõi. (Có khi sự cẩn trọng tới quá mức cần thiết). Vì sợ mang tiếng, người ta có thể kiềm chế, không dám bộc lộ một ước muốn hoặc hành vi dù rất chính đáng. Nhưng ở nơi xa lạ, khi biết chắc chắn mình đang bị khỏa lấp trong muôn người, không ai biết mình là ai, họ sẵn sàng làm mọi việc bất chấp đạo lý để thỏa mãn ý thích bản năng của cá nhân. Với những con người này, cái khẩu trang ngoài chức năng chống nắng, ngăn bụi còn có thêm công dụng che kín cái bộ mặt của họ, khiến không ai có thể xác định chủ nhân của những hành động, cử chỉ, lời nói bất lương. Nó trở thành cái bình phong hữu hiệu để phía sau, chủ nhân của nó hành động như ở chốn không người.
Đi lại trên đường, người ta sẵn sàng vượt đèn đỏ, lạng lách, đánh võng, đi trên vỉa hè, đi ngược chiều…, người ta sẵn sàng buông ra những lời thô tục khi gặp điều gì trái ý dù nhỏ. Biết bao những hành vi bất lương đã được cái khẩu trang che giấu.
Nhưng xét cho cùng, những con người đó dù sao vẫn còn có ý thức về thể diện. Họ chỉ dám làm những điều sai trái khi khuôn mặt được giấu kín.
Đáng ngạc nhiên có những con người không phải vô danh, toàn loại “vua biết mặt, chúa biết tên”, đứng vào hàng vài trăm người đứng đầu cả nước, thế mà họ dám làm những điều khuất tất ghê gớm, rất “đậm”, rất “dầy”, chắc để tương xứng với chức vụ đã mang.
Lòng tham của họ thật vô đáy. Suốt một đời đã chấm mút, la liếm, bòn rút vẫn chưa thấy đủ. Dù đã quyền cao chức trọng nhưng vẫn tham một cái danh hão; dù đã “tòa ngang dãy dọc” một cách khó hiểu nhưng trước khi “hạ cánh” vẫn ra tay bổ nhiệm tới mấy chục quan chức mà lý do vì sao chắc ai cũng biết; dù đã về hưu 8 năm vẫn chưa chịu trả ngôi nhà công vụ trị giá có lẽ tới nhiều trăm tỷ đồng. Chắc các vị đều thấm nhuần câu hát khi giơ nắm tay tuyên thệ: “đấu tranh nay là trận cuối cùng”?
Rồi không thiếu những kẻ, sai lầm hiển hiện quá rõ ràng, bàn dân thiên hạ “chửi” cho vuốt mặt không kịp, thế mà vẫn cố tình cãi chày cãi cối để nói rằng mình đúng.
Cái liêm sỉ của họ chắc đã rơi rụng dần theo những nấc thang danh vọng qua năm tháng, nên mặc cho tên tuổi và lòng tham bàn dân thiên hạ đều biết, nhưng họ vẫn bất cần. Báo chí đưa tin, dân gian truyền miệng, lời đàm tiếu khắp các hang cùng ngõ hẻm nhưng chẳng làm họ chạnh lòng. Mới thấm thía một câu trong bài thơ được truyền miệng gần đây:
Đã vào vòng xoáy bon chen,
Phẩm hàm cao ắt thấp hèn càng cao.
Mà sao những sai phạm, gian dối tày đình như thế những người đồng chí, đồng đảng của họ vẫn im lặng, vẫn làm như không biết trước khi được quần chúng phát hiện? Hay là vì trong mỗi ngôi nhà, các ô cửa đều giống nhau?