Nhật ký chiến tranh (kỳ 20)

Vương Trí Nhàn

10/2 (hai tuần sau hoà bình)

Cán bộ trung cấp tập họp, nghe nói về vụ chống Đảng.

Khải: Xem mới thấy các ông ấy, khi phun ra nhau, cũng khủng khiếp lắm.

– Thế họ có gì là xấu, hay họ chỉ khác về quan điểm?

– Bán bí mật cho nước ngoài, phản bội, phản quốc, thế là xấu quá rồi còn gì? Ở các nước khác, người ta còn mang xử công khai nữa!

-…

– Cho nên, tôi chỉ thấy tốt hơn hết là anh nên yên tâm với công việc đã có. Không nên biết nhiều. Biết nhiều quá, lại sinh ra thắc mắc. Yên chí làm một người lao động bình thường.

– Tôi cũng nghĩ rằng chính quyền này là chính quyền của các anh, hết những ông Lê Duẩn, Trường Chinh, lại đến các ông Nguyễn Lam, Vũ Quang. Lớp già như thế nào, thì lại đẻ ra lớp trẻ như vậy.

– Phải, nghĩ thế là phải.

– Nhưng nhỡ ra, chính giữa các ông ấy nổ ra mọi chuyện thì sao?

– Không, không thể có chuyện gì cả, vì trong số đó, đã có một thiên tài rồi.

-…

– Nghĩ mọi chuyện lắm lúc cũng không biết đằng nào mà ho he cả. Nó là cả một guồng máy. Người khá nhất trong những người vừa qua, rồi cuối cùng cũng thành một người vô hiệu.

Đôi lúc, tôi cảm thấy như có vẻ mình nghe được một điều gì đấy thuộc về đời sống tinh thần của đất nước nói chung. Tất cả hôm nay sẽ là như hôm qua, như chiến tranh, như trong mãi tận chiến trường. Nhưng vẫn là có những dấu hiệu của cái gì đó khang khác. Mấy ví dụ sau đây là dấu hiệu của cái khác đó. Người ta đang bất mãn, đang đòi hỏi, người ta đang muốn đánh giá lại, suy xét lại mọi thứ. Cái yêu cầu của cấp dưới thì bao giờ cũng hơi quá lên một ít. Yêu cầu của trên lại chỉ muốn giữ một sự chỉ đạo, chỉ huy đúng như hôm qua không có gì thay đổi cả.

11/2

Chủ nhật đầu tiên sau tết.

Đêm thứ bảy, tôi đến nhà những người công nhân đường sắt. Quyền, một người nông dân, đi làm cách mạng, chân thành và dại dột. Nhuận và cái khu nhà mênh mông trong Nhà hát nhân dân. Tôi chỉ có họ.

Ga Hà Nội lại đông. Những đám người tụ tập đầy đường (Quyền: Toa tàu bẩn như lòng đường nhựa. Năm nay, bao nhiêu người khu Bốn về thăm nhà!).

Sáng chủ nhật, tôi và Tính ngồi bàn nhau định đến thăm một trận địa ở giữa sông. Tính giở ảnh vợ con ra xem (những đứa trẻ, người ta ghép cho nó đến lắm khả năng và ý nghĩa!)

Mấy người bạn của Tính đến chơi. Hiệu, trung đoàn phó, một D trưởng, một C trưởng. Trông ba người ra ba dáng khác nhau. Một cán bộ chỉ huy kiểu Tsapaev nông dân, thô tục, nhưng lại sắc sảo. Một anh chàng quê mùa, ngậm miệng như cóc. Một anh chàng học sinh duyên dáng mới ra Hà Nội đã sắm dép nhựa. Họ rủ nhau đi xem B52 (trong kia, thấy nó thả từng dây, bây giờ mới tận mắt nhìn thử xem nó thế nào) Họ còn nói chuyện về chiến trường, những ngày E27 vào tận Hải Lăng… Trên người cậu D trưởng, là một chiếc áo của địch. Loại áo vi ny lông, nhưng may theo kiểu va rơi, và cũng đã hơi cổ. Cậu ta khoe một hôm, mưa rất to, cái áo cũng không ướt.

Hỏi đường đi xem B52 xong, họ hỏi đường ra Hàng Trống, may những bộ quần áo vi ny lông. Cái cảm tưởng chính: họ là những người quá tự do. Họ làm chủ cái đất nước này.

Tôi đi cắt tóc. Từ chuyện rẽ đầu ngôi, ra đủ mọi chuyện.

– Thôi cần gì đầu ngôi, để cho gọn là được.

– Không. Khối anh chải đầu chải óc cẩn thận, ăn mặc đẹp, mà nói năng không ra sao cả.

– Bây giờ chính phủ còn đang bận bao nhiêu chuyện, chưa dạy được. Hoà bình được ít ngày, mấy cái thằng trong kia lại còn phá thối. Nhưng mà thầy nó theo mình rồi, thế là được rồi.

Mai 12/2, ngày trả tù binh Mỹ (140 tay Mỹ về nước!) ở bên sân bay Gia Lâm. Từ ngày người phi công Mỹ đầu tiên bị bắt đến hôm nay đã gần 9 năm, một quãng đời người, dài lắm!

… Ngày mai, các trường Hà Nội khai giảng.

Hôm nọ, tôi đã thấy các em ở trường Hàng Than quét lá, thu dọn trường. Bọn con trai lấy chổi phi trên trời, như những chiếc máy bay.

Hôm nay, tôi thấy học trò Chu Văn An đến trường dọn dẹp, trở về, các em lại chui vào cái bể nước giữa vườn hoa (nay là vườn hoa Tây Hồ) rửa ráy.

Những em bé đi đường bây giờ, sao không thấy vẻ thư thái, như lũ chúng tôi hồi nhỏ. Các em băm bổ vội vã. Mấy em con trai còn gạ chúng tôi đèo xe hộ. Cách sống của ngày hôm qua, thời đi sơ tán.

Thư, em tôi, kể trường nó chỉ lớp 10 là được ưu tiên bàn ghế. Lớp 9, lớp 8 thiếu. Một số lớp học sinh lại phải lấy loại bàn ghế nhỏ chỉ thấy ở các vùng quê.

Buổi tối, lâu lắm mới mò đi xem nhờ Vô tuyến truyền hình. Một chương trình ca ngợi đất nước. Và một người con gái, mà bây giờ mọi người đều nghĩ là tiêu biểu cho Hà Nội. Cô hát bài Đường chúng ta đi.

Bài này, có lúc, do một chị diễn viên cũ hát. Chị là một người không đẹp, nhưng tiếng lại đẹp. Chị hát nhiều trên đài. Trong tiếng hát của chị, ra một người từng trải. Và một đất nước từng trải.

Đằng này, người diễn viên non dại và qua giọng cô, người ta lại nghĩ về một đất nước trẻ trung.

Đất nước là tất cả những cái đó, là cả những người mẹ lẫn những em bé, cả tiếng phát thanh trên đài, tiếng xe bò kẽo kẹt triền miên, đất nước là mặt đường lép nhép, và có lúc bụi mù, là sắc vàng hoa cúc, là màu cờ đỏ trên những đống gạch đổ, là những cành xoan đầu xuân chỉ còn những cành, nhưng đã chớm những chồi non – đất nước là có cả lụi tàn và hy vọng!

Chỉ nghe đài phát thanh cũng đủ hình dung những đổi mới đến với Hà Nội. Nhiều bài hát cũ được hát lại. Những người lớn tuổi nhớ đến hoà bình lần trước cuối 1968. Lần trước, ai cũng nghĩ chiến tranh hết hẳn, thì chiến tranh quay lại. Lần này, mọi người cứ nơm nớp – biết đâu hoà bình lại bền lâu!

Dạo này, tôi và bạn bè của tôi thường hay nói đến tính cách người Việt Nam. Có một cái gì ở trong đó, mà chúng tôi cảm thấy cần nhìn thẳng vào, cần giải thích.

Người Việt Nam là hời hợt hay sâu sắc? Người Việt Nam dũng cảm, nhưng dũng cảm như thế nào? Người Việt Nam nhẫn nhục. Người Việt Nam cần cù, v.v. Có một cái gì gọi là ý chí?

Người nước ngoài ca ngợi Việt Nam nhiều quá. Đất nước thật sự vinh quang. Hình như đối với một số ai đó, vinh quang chỉ là những hư danh. Mỗi người đang sống hết sức nhọc nhằn, có thể nói là thân tàn ma dại nữa.

Nhưng tận trong mỗi người, còn đầy hy vọng.

Khi tôi nói trông mong ở tương lai, một người như Nguyễn Minh Châu bảo: “Tất cả mọi người, đều là những người của ngày hôm qua, hy vọng sao được.” Nhưng khi tôi tỏ ý chán ngán, thì chính nhà văn ấy lại bảo: “Không, cũng không biết đâu mà ngờ.”

Một trong những sức mạnh của ngôn từ là nó thay đổi khá tương ứng theo thái độ của người ta. Nó thông tin khá chính xác. Ví như hôm trước, người ta gọi là giặc lái, hôm sau, người ta gọi là nhân viên quân sự. Người ta thân thiện với kẻ mà hôm qua được mệnh danh là kẻ thù. Và tất cả đều có lý của nó! Và điều duy nhất có thể rút ra là mỗi kiếp người quá ư bé nhỏ, hiện thực thì lớn lao, quá ư lớn lao. Đôi lúc, tôi oán trách, sao tôi lại ở vào cái ngành có khả năng quan hệ rộng như văn chương, để lúc nào tôi cũng bị ám ảnh bởi cái ao ước này – ao ước nắm bắt tất cả.

Chiến tranh có cái gì đó, đồng nhất với socialism. Sự san bằng tất cả. Nhưng mặt đất thì không còn bằng bặn. Và bây giờ hoà bình thì từ đấy, người ta lại phải xây dựng lên một cái gì khác. San mặt bằng rồi mới có thể làm mọi việc khác. Chính với việc san bằng, chúng ta nhận ra thêm nhiều tội ác kẻ thù. Với việc san bằng, lại thấy thêm những di luỵ thời chiến.

Đâu là Granitxa voiny (ranh giới của chiến tranh)? Mà nó cái ranh giới đó có hay không? Chẳng lẽ lại không có! Chắc chắn chiến tranh không động vào được một thứ, đó là sự sinh sôi. Chiến tranh như những chiếc ô tô tải vô cảm. Đi trên đường phố, tôi sợ hãi vì lúc nào cũng thấy những chiếc ô tô, ô tô sau lưng, ô tô trước mặt, ô tô lao trên đường, ô tô bất cần công việc, chỉ trừ việc của nó. Tôi nhớ tới những đoàn xe hoả hiền hoà và đầy năng lực của thời bình. Tôi yêu những nền nếp. Tôi cũng yêu những tập thể. Những chiếc ô tô tải, nó chính là những con người trong chiến tranh, những con người của một đám đông hung dữ, mải miết vì những mục đích xa. Thật là kỳ lạ, đất nước như một con người rút ruột ra, làm việc gì đó, một con người mà da thịt xanh xao nhưng bộ ruột thật vĩ đại. Nhớ Vinh, thành phố đổ nát, đường phố bụi bậm, bẩn thỉu, những con người lầm lụi đi trong mưa gió. Nhưng những đoàn xe cứ lao đi mải miết, trên xe là bao nhiêu giá trị, bao nhiêu là của cải.

Ở đường Phan Đình Phùng, các gia đình ra nạy hố cá nhân lên, không biết để làm gì. Tôi chợt nhận ra các hố thường nêm rất chặt bằng những gạch củ đậu.

Có lẽ một chủ đề mà văn học đáng nhẽ có thể làm được là: chiến tranh đến với tất cả các gia đình, chiến tranh đến với tất cả các phần việc.

12/2

Ngày khai trường. Những cố gắng lấy lại nền nếp. Học sinh đeo khăn đỏ mang cờ, đứng xếp hàng.

Học sinh đi diễu chung quanh phố. Đón học sinh lớp 1, học sinh lớp 4 cầm cờ ra đứng hai bên đường từ cổng trường vào. Bánh pháo đốt, lại tắc, lại đốt. Đám cô giáo đứng vón vào nhau. Học sinh nghịch, chơi cảnh lấy chổi phi lên trời, giả làm máy bay.

Sân trường cũ trong thời gian chiến tranh biến thành nơi để gạo. Trấu rắc khắp nơi. Trước ngày khai giảng, nhà trường mới kiên quyết đuổi kho gạo đi, người ta phải dỡ tạm mọi thứ ra sân. Buổi sáng, xe bò vào chở các thứ. Có tiếng ai kỳ kèo: Bò nó ỉa… Ông lái xe bò cãi, người cũng phải ỉa, nữa là bò. Xe cứ đi nghênh ngang vào trường. Xe đi đến đâu, trẻ xô theo đến đấy. Nhiều đứa trẻ còn nhảy lên xe nghịch. Để chờ đến khi bò có quay lại, chúng nó lại rạt ra.

Lại còn ô tô, giữa lúc học sinh lớp 1 đi vào giữa những cờ sao rủ bóng của học sinh lớp 4, thì ô tô vào. Ô tô phải đợi đấy cái đã.

Không biết bao giờ những đứa trẻ này lại có thể nói: Ngày khai trường của năm lớp 1 của tôi là ngày còn đang dọn dẹp những dấu vết chiến tranh. Trường dột. Cầu thang hỏng. Nền sàn đầy trấu. Các cô giáo chúng tôi gày guộc, vẫn cố ăn mặc một cách mô-đéc. Nhưng chúng tôi đã có hoà bình. Ngày hôm nay là ngày tên tù binh Mỹ đầu tiên về nước. Tiến sĩ H. Kissinger đang ở Hà Nội. Trong các thông cáo, văn kiện, mối quan hệ Việt Mỹ được dùng kèm theo những chữ: thẳng thắn, thân thiện.

Hà Nội, thành phố của trẻ con, thành phố của bụi. Thành phố của xe đạp. Thành phố của tiếng ồn.

Tôi cảm thấy phải có cách nào đó, để nói về Hà Nội. Những quy luật nào của cuộc sống thấy rõ nhất ở Hà Nội – Quy luật về tài năng? Quy luật về sự chọn lọc? Quy luật về sự đa đạng?

Tại sao người ta viết quá ít về Hà Nội? Phải chăng điều đó chỉ chứng tỏ tính chất tỉnh lẻ của nền văn học này.

15/2

Ng Khải: Thật làm nhà văn có lúc rớt nước mắt. Hôm nọ, vào trong Cục, vừa thấy tay Bồng, lão vỗ vai mình, thế nào, nghe nói cậu sắp đi đấy phải không? Ý lão nhắc chuyện đi chiến trường. Cái vỗ tay thật nhẹ mà mình cứ thấy sụn cả lưng. Một giọt nước mắt cứ định vỡ ra. Thấy như là thuở bé bị bêu nhục. Mình là cái thân phận gì, lão ta là cái gì, nghĩ cứ thấy nao nao cả lòng.

18/2

Một dịp khác, vẫn tôi và ông Khải:

– Hôm nọ, Bằng Việt nó nói với tôi, sao mày cứ buồn thế. Trông ông Khải kia, ông ấy cứ nhơn nhơn thế.

– Đúng, bên Hội Nhà văn, các ông cũng lạ cho tôi, lúc nào cũng nhơn nhơn ra. Nhưng mà thế thôi, chứ lúc này ai mà chẳng buồn. Buồn hết. Lúng ta lúng túng thế này, ai biết làm gì được. Văn chương là phong cốt của cả một dân tộc. Lúc này mà văn chương không thấy hé răng cái gì, thì tức là có chuyện rồi. Không trước thì sau, có chuyện thôi.

Nhưng tôi khuyên ông, lúc này nên ít đi chơi thôi. Cái lúc nhốn nháo này, ông xem, dễ vạ mồm lắm.

Comments are closed.