Sống từ bi giữa trời dông bão

Nguyên Giác Phan Tấn Hải

Tháng tư là tháng kết thúc Cuộc chiến Việt Nam. Kết thúc không hẳn có nghĩa là chấm dứt bạo lực, thù hận, truy bức… Đó là chuyện của nửa thế kỷ trước, và có lẽ còn kéo dài trong tâm nhiều người còn sống hiện nay. Trong khi đó, thế giới chúng ta trong nhiều ngàn năm, tháng nào và ngày nào cũng có chiến tranh, chết chóc, căm thù. Vẫn đang có những cái chết hàng ngày ở Ukraine, Gaza, Myanmar và nhiều nơi khác. Bao giờ thế giới thực sự hòa bình? Đó là câu hỏi muôn đời sẽ vẫn được nêu lên, vì hình như thế giới sẽ không bao giờ ngưng chiến tranh.

Tôn giáo yêu chuộng hòa bình nhất là Phật giáo, nơi giáo lý bất hại được dạy trong tất cả các kinh điển, và là giới đầu tiên cho Phật tử. Cách lý giải đôi khi khác nhau, và những lựa chọn hành động hiển nhiên là khác nhau tùy theo hoàn cảnh. Khi Vua Trần Nhân Tông và các Phật tử nhà Trần, trong đó có Tuệ Trung Thượng Sỹ, quyết định ra trận chống quân phương Bắc để bảo vệ dân tộc cũng là một lựa chọn, cân nhắc theo giáo lý nhà Phật để bảo vệ dân tộc, chấp nhận một nghiệp sát vì lòng từ bi. Hay là lựa chọn ra đi hay bạo động của các nhà sư Tây Tạng khi quân Trung Quốc xâm chiếm lãnh thổ trên vùng Hy Mã Lạp Sơn. Hay là lựa chọn dị biệt của các Phật tử trong nước Nga hiện nay khi bị tổng động viên để sang Ukraine “hành quân đặc biệt” mấy năm qua – có người trốn ra ngoài nước Nga, và có người tuân lệnh Tổng thống Putin.

Kinh điển nhà Phật có nhiều trường hợp được ghi lại khi Phật tử đối diện với các lựa chọn bạo lực, khi bị đẩy vào giữa trời bão lửa. Trong đó, một chuyện nổi bật là trường hợp của ngài Sariputta (Xá Lợi Phất). Kinh Pháp Cú có hai bài kệ 389 và 390 do Đức Phật đọc lên là liên hệ tới chuyện này.

Nhà sư Sariputta thường được nhiều người khen ngợi vì tâm kham nhẫn và chịu đựng của ngài. Các học trò của ngài thường nói về ngài như thế này: “Thầy của chúng tôi là người có lòng kham nhẫn và sức chịu đựng cực độ. Nếu bị người khác chửi mắng hoặc thậm chí bị họ đánh đập, ngài không mất bình tĩnh mà vẫn điềm đạm, từ ái chịu đựng.”

Nổi giận khi nghe lời ca ngợi nhà sư Sariputta, một Bà-la-môn có tà kiến đã tuyên bố với những người ngưỡng mộ ngài Sariputta rằng ông ta sẽ chọc giận ngài Sariputta. Vào lúc đó, nhà sư Sariputta xuất hiện, đang đi khất thực. Tích truyện Pháp Cú kể rằng người Bà-la-môn kia đuổi theo ngài, dùng tay đánh mạnh vào lưng ngài. Nhà sư Sariputta không ngoảnh lại xem ai là người đã tấn công mình mà vẫn tiếp tục đi như thể không có chuyện gì xảy ra. Nhìn thấy lòng độ lượng và sức kham nhẫn của vị cao tăng, vị Bà-la-môn kia vô cùng bàng hoàng. Ông quỳ xuống chân nhà sư Sariputta, thừa nhận rằng mình đã hành hung vị cao tăng và xin được tha thứ. Vị Bà-la-môn nói tiếp, “Thưa Tôn giả, nếu Tôn giả tha thứ cho tôi, xin hãy đến nhà tôi để khất thực.”

Buổi tối, các nhà sư khác trình lên Đức Phật rằng Tôn giả Sariputta đã đến nhà một vị Bà-la-môn đã đánh ngài để khất thực. Hơn nữa, họ nhận thấy rằng vị Bà-la-môn này chắc chắn sẽ trở nên táo bạo hơn và ông ta cũng sẽ sớm hành hung các nhà sư khác. Đức Phật trả lời các Tỳ kheo đó, “Này các Tỳ kheo, một Bà-la-môn chân chính không đánh một Bà-la-môn chân chính khác; chỉ có một người đàn ông bình thường hoặc một Bà-la-môn bình thường mới đánh một vị A-la-hán trong cơn giận dữ và ác ý.” Sau đó, Đức Phật nói lên hai bài kệ. Bản dịch của Thầy Thích Minh Châu như sau:

389. “Chớ có đập Phạm chí!

Phạm chí chớ đập lại!

Xấu thay đập Phạm chí

Đập trả lại xấu hơn!”

.

390. “Đối vị Bà-la-môn,

Đây không lợi ích nhỏ.

Khi ý không ái luyến,

Tâm hại được chận đứng,

Chỉ khi ấy khổ diệt,”

.

Nghĩa là, người tu không làm hại bất kỳ ai, và khi tâm hại biến mất thì lúc đó sầu khổ biến mất. Người tu sẽ không đánh trả, ngay cả khi bị hành hung vô lý. Đó là nội dung của hai bài Kệ Pháp Cú trên. Đó là một lý do cho thấy đa số Phật tử đều có tâm chủ hòa, trừ trường hợp bị đẩy vào đường cùng. Trường hợp các Phật tử nhà Trần ra trận, kể cả các đại Thiền sư như các vua Trần, và cả Tuệ Trung Thượng Sỹ, là một đón nhận sát nghiệp vì lòng từ bi. Vì không thể để người dân bị giết, bị nô lệ lao động, phải bị lập lại thời nô lệ nhiều trăm năm trước, một viễn ảnh theo Bình Ngô Đại Cáo ghi qua lời Nguyễn Trải về khổ nạn, theo bản dịch Ngô Tất Tố:

“…Bại nhân nghĩa nát cả đất trời.

Nặng thuế khoá sạch không đầm núi.

Người bị ép xuống biển dòng lưng mò ngọc, ngán thay cá mập thuồng luồng.

Kẻ bị đem vào núi đãi cát tìm vàng, khốn nỗi rừng sâu nước độc.

Vét sản vật, bắt dò chim trả, chốn chốn lưới chăng.

Nhiễu nhân dân, bắt bẫy hươu đen, nơi nơi cạm đặt.”

Trong cốt tủy, người tu phải luôn luôn giữ tâm từ bi, cho dù là đang đứng giữa trời mưa đạn. Bởi vì, chính tâm mình sẽ là nghiệp đưa mình đi. Kinh SN 42.3 ghi lời Đức Phật dạy một chiến binh thời đó (thời nhân loại chưa có bom, chưa có súng đạn) rằng chính ý nghĩ trong tâm mình sẽ dẫn tới các cảnh tương lai, trích bản dịch của Thầy Thích Minh Châu:

Này Chiến đấu sư, đối với chiến đấu viên nào trong chiến trường hăng say, tinh tấn, tâm của vị ấy trước đó phải có những ý nghĩ thấp kém, ác ý, ác nguyện như sau: “Mong rằng các loài hữu tình ấy bị giết, bị bắt, bị tàn sát, bị tàn hại!”, hay: “Mong họ chớ có tồn tại!” Do vị ấy hăng hái, tinh tấn như vậy, nếu vị ấy bị người khác tàn sát, đánh bại, thời người ấy, sau khi thân hoại mạng chung, bị sanh vào địa ngục tên là Saràjità. Nếu người ấy có tà kiến như sau: “Vị chiến đấu viên nào giữa chiến trường hăng say, tinh tấn; do hăng say, tinh tấn như vậy, bị người khác tàn sát, đánh bại, vị ấy, sau khi thân hoại mạng chung, được sanh cọng trú với chư Thiên tên là Saràjità”. Như vậy là tà kiến. Ai rơi vào tà kiến này, này Chiến đấu sư, Ta nói rằng, người ấy chỉ có một trong hai sanh thú: Một là địa ngục, hai là súc sanh.” (hết trích)

Tranh vẽ từ thế kỷ 18 của Phật Giáo Tây Tạng, bán đấu giá ngày 18/9/2013 ở công ty Christie’s: Đức Phật ngồi trên bệ hoa sen trên ngai sư tử sơn mài vàng và đỏ, bao quanh bởi ba câu chuyện tiền thân.

Một câu chuyện Phật giáo kể về một thuyền trưởng một chiếc phà đang chở 500 vị Bồ tát (những hành giả tu theo hạnh Bồ Tát) trong kiếp đó đang là những thương gia. Một tên cướp trên tàu đã lên kế hoạch giết tất cả mọi người và để cướp hàng hóa của tàu. Thuyền trưởng, chính là một vị Bồ tát tên là Đại Bi (một tiền thân của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni), đã nhìn thấy ý định giết người của người đàn ông và nhận ra rằng tội ác này sẽ dẫn đến sự đày đọa hàng triệu năm trong địa ngục cho kẻ giết người. Với lòng từ bi của mình, thuyền trưởng đã sẵn sàng chịu sự đày đọa của địa ngục bằng cách giết tên cướp để ngăn chặn sự đau khổ nghiệp chướng mà tên cướp sẽ chịu đựng nếu y giết 500 người đang tu hạnh Bồ Tát. Lòng từ bi của thuyền trưởng là vô tư; động cơ của ông hoàn toàn vô ngã, nhưng ông cũng sẽ gánh chịu nghiệp sát.

Đức Đạt Lai Lạt Ma đời thứ 14 khi phân tích câu chuyện trên, từng nói rằng, cũng nên tránh ngay cả cái lựa chọn “giết người vì lòng từ bi” nếu có thể chọn cách khác, vì ngay như thế cũng có nghiệp dữ. Ngài nói như thế với học giả Hank Troemel trong cuộc phỏng vấn ngày 6 tháng 5 năm 1994, về sau được in lại trong tuyển tập do Hank Troemel biên tập, nhan đề “Theosophie und Buddhismus” (Satteldorf: Adyar Verlag, 1994).

Đức Đạt Lai Lạt Ma nhận định về việc giết người (thí dụ, giết một kẻ sắp giết người hàng loạt) trong những trường hợp đặc biệt vì động cơ thuần túy của lòng từ bi: “Nếu ai đó quyết tâm phạm một tội ác nào đó sẽ tạo ra nghiệp chướng tiêu cực, và nếu không có lựa chọn nào khác để ngăn cản người này phạm tội và do đó nghiệp chướng cực kỳ tiêu cực sẽ xảy ra trong suốt các kiếp tương lai của người đó, thì động cơ thuần túy của lòng từ bi về mặt lý thuyết sẽ biện minh cho việc giết người này.”

Đức Đạt Lai Lạt Ma nhấn mạnh rằng nói chung “tốt hơn là không nên sử dụng phương pháp này”, vì “giết người vì lòng từ bi” (killing out of mercy) là một nguyên tắc “luôn có nguy cơ gây ra những lý do và cảm xúc tiêu cực”.

Nhà sư Tây Tạng Chagdud Tulku Rinpoche viết về những gì nhìn thấy trên thế giới hiện nay:

“Bây giờ, khi tôi viết những dòng này, Trung Đông đang bùng cháy vì chiến tranh. Xem tin tức trên truyền hình, tôi cầu nguyện rằng cuộc chiến này sẽ ngăn chặn những cuộc chiến lớn hơn, những đau khổ lớn hơn và những người phản đối chiến tranh sẽ phát triển các kỹ năng để mang lại hòa bình đích thực. Chúng ta không thể phân biệt hoàn toàn động cơ của bất kỳ người tham gia nào vào cuộc chiến, nhưng không có khả năng nhiều người có khả năng mang lại sự giải thoát tối thượng cho cả bạn bè và kẻ thù, hoặc họ sẽ có thể duy trì lòng từ bi vô tư của Bồ tát khi họ tham gia vào cuộc xung đột.

“Điều chúng ta có thể biết là tâm trí của chính mình. Chúng ta có thể tuân thủ các lý tưởng Phật giáo trong các hoạt động của mình, cho dù chúng ta là người chiến đấu, người biểu tình, người ra quyết định hay nhân chứng quan tâm. Chúng ta có thể cầu nguyện rằng bất kỳ đức tính nào trong tình huống này đều chiếm ưu thế, rằng hòa bình thực sự sẽ được thiết lập. Đức Phật đã dạy rằng trong vô số kiếp, tất cả chúng sinh đều là cha mẹ của chúng ta và đã cho chúng ta thấy lòng tốt lớn lao. Bây giờ họ đã rơi vào sự thống trị của chất độc của tâm là tham muốn, sân giận, vô minh và họ phải chịu đau khổ khủng khiếp. Liệu chúng ta có thể loại trừ bất kỳ ai khỏi lòng trắc ẩn của mình nhiều hơn mặt trời có thể loại trừ bất kỳ ai khỏi sự ấm áp và rạng rỡ của các tia sáng của nó không.

“Khi chúng ta khao khát hòa bình, bây giờ và trong các chu kỳ tương lai của sự tồn tại của mình, chúng ta không thể phủ nhận khả năng rằng mỗi người chúng ta có thể phải đối mặt với nhu cầu can thiệp đầy giận dữ để ngăn chặn tác hại lớn hơn. Mong rằng việc khai thác tinh thần mà chúng ta đang thực hiện hiện nay cho phép chúng ta bước vào những tình huống như vậy mà không bị ảo tưởng về chất độc của tâm. Mong rằng chúng ta hành động với lòng trắc ẩn tự phát để mang lại sự giải thoát cuối cùng cho tất cả mọi người, cả nạn nhân và kẻ xâm lược.”

Điều đẹp nhất trong lịch sử nhân loại luôn luôn là hành động buông vũ khí để trở thành một chiến sĩ cho hòa bình. Khi đã ý thức rằng bạo lực là nghiệp bất thiện, và quyết định quy y theo Phật giáo sau một trận chiến tàn sát hàng trăm ngàn người, Ashoka Đại đế (trong Phật giáo thường gọi là Vua A Dục) đã trở thành một hành giả tinh tấn và là một người hoằng pháp vĩ đại. Cuộc chiến đó có tên là Cuộc chiến Kalinga War, kết thúc vào khoảng năm 261 trước Tây lịch, diễn ra ở Ấn Độ cổ đại giữa Đế chế Maurya dưới thời Ashoka Đại đế và Kalinga, một vương quốc phong kiến ​​độc lập nằm ở bờ biển phía đông, thuộc tiểu bang Odisha ngày nay và các vùng phía bắc Andhra Pradesh. Lịch sử kể rằng trận chiến diễn ra trên đồi Dhauli ở Dhauli nằm trên bờ sông Daya là một trong những trận chiến lớn nhất và đẫm máu nhất trong lịch sử Ấn Độ. Đây là cuộc chiến lớn duy nhất mà Vua Ashoka tham gia sau khi lên ngôi, cuộc chiến đã cướp đi sinh mạng của gần 250.000 người

Hình trên là tranh tường ở Chùa Nava Jetavana, Công viên Jetavana, Shravasti, Uttar Pradesh, do Anandajoti chụp: Vua Asoka (áo xanh) ngồi trong Đại hội kết tập kinh điển Phật giáo lần thứ ba.

Lý do xâm lược Kalinga là để mang lại hòa bình và quyền lực. Kalinga nằm dưới sự cai trị của Đế chế Nanda, những người đã cai trị khu vực này từ thủ đô của họ ở Magadha cho đến khi họ sụp đổ vào năm 321 trước Tây lịch. Ông nội của Vua Ashoka là Chandragupta đã cố gắng chinh phục Kalinga nhưng đã bị đẩy lùi. Vua Ashoka tự đặt ra cho mình nhiệm vụ chinh phục và sáp nhập Kalinga vào Đế chế Maurya rộng lớn ngay sau khi ông đã khẳng định được vị thế của mình là Hoàng đế.

Chiến tranh Kalinga diễn ra giữa Đế chế Maurya và quốc gia Kalinga, một vương quốc quan trọng kiểm soát các tuyến đường thương mại với Đông Nam Á. Ashoka, vua Maurya, muốn chiếm Kalinga nên đội quân hùng mạnh của ông đã đến đó vào năm 262 trước Công nguyên. Cuộc chiến đã kết thúc vào năm thứ tám dưới triều đại của Ashoka, theo Sắc lệnh Ashoka của chính ông, có lẽ là vào năm 261 trước Tây lịch. Sau một trận chiến đẫm máu giành ngai vàng sau cái chết của cha mình, Ashoka đã thành công trong việc chinh phục Kalinga – nhưng hậu quả của sự tàn bạo đã thay đổi quan điểm của Ashoka về chiến tranh và khiến ông cam kết không bao giờ tiến hành một cuộc chiến tranh xâm lược nữa.

Theo Megasthenes, nhà sử học Hy Lạp tại triều đình Chandragupta Maurya, những người cai trị Kalinga có một đội quân hùng mạnh gồm bộ binh, kỵ binh và voi. Sau năm đó, 150.000 nam nữ liên hệ “chế độ cũ” đã bị trục xuất ra khỏi Kalinga và buộc phải “đi kinh tế mới” – phải làm việc để dọn sạch các vùng đất hoang để định cư trong tương lai, và họ bị cấm không bao giờ được trở về quê hương cũ của mình. Con cháu của những người Kalinga chiến bại sau đó di cư đến Sindh. Từ đó, họ di cư đến Ba Tư, Lưỡng Hà, Ai Cập và Châu Âu. Con cháu của họ có thể cũng là người Roma của Châu Âu.

Mặc dù đã giành chiến thắng trong cuộc chiến, Vua Ashoka nhận ra sự vô ích của chiến tranh. Ông đã chứng kiến ​​cảnh đổ máu và đau khổ của gia đình những người lính và thề sẽ không bao giờ chiến đấu nữa. Ông đã cải sang Phật giáo và dành phần đời sau này để giúp đỡ thần dân của mình. Ông đã ngừng chinh phục sau khi giành chiến thắng trong một cuộc chiến. Ông đã viết những dòng chữ khắc trên nhiều trụ đá vì muốn con trai và cháu trai của mình cũng không bao giờ nghĩ đến chiến tranh. Ông quyết định tuân theo Dhamma (Chánh Pháp), một quy tắc ứng xử chung và cũng được truyền cảm hứng từ những lời dạy của Đức Phật. Ông đã cử nhiều học giả Phật giáo đến những vùng đất xa xôi để truyền bá Phật pháp. Người ta nói rằng hàng trăm nghìn người đã chết trong cuộc chiến này. Nhiều chỉ dụ trên trụ cột và đá đã được viết về tội lỗi mà ông cảm thấy sau khi chứng kiến ​​cảnh đổ máu. Trong 30 năm cuối đời, Vua A Dục không còn nhìn thấy chiến tranh nữa. Ông đã từ bỏ chính sách DIGVIJAY (chinh phục lãnh thổ) và áp dụng DHARMAVIJAY (chinh phục bằng pháp).

Truyền thống Phật giáo Sri Lanka (Tích Lan) kể rằng Vua A Dục có một người con trai tên là Mahinda; Hoàng tử này xuất gia, được cử đến Sri Lanka với tư cách là một nhà truyền giáo Phật giáo. Tuy nhiên, nhà sư Huyền Trang, người hành hương từ Trung Quốc để học pháp và thỉnh kinh, viết rằng Mahinda là em trai của Vua A Dục, chứ không phải con trai.

Cũng theo lịch sử Sri Lanka, Vua Ashoka có một người con gái tên là Sanghamitta, vị công chúa này cũng xuất gia, về sau cũng hướng dẫn một phái đoàn ni sang truyền giáo ở Sri Lanka.

Theo sách Ashokavadana, Vua Ashoka có một người anh trai cùng cha khác mẹ tên là Susima. Nhưng lịch sử Sri Lanka ghi rằng người anh trai này tên là Tissa, thời trẻ từng sống một cuộc sống xa hoa, về sau xuất gia và trở thành một vị A la hán. Bản Chú giải Theragatha (Trưởng Lão Tăng Kệ) gọi người anh trai này là Vitashoka. Tên gọi khác nhau, nhưng có lẽ chỉ là một vị cao tăng.

Phước đức của một dân tộc là thái bình, thịnh trị. Bất hạnh của một dân tộc là khi rơi vào chiến tranh. Lời dạy của Đức Phật là Phật tử phải sống hạnh từ bi, yêu thương khắp các cõi chúng sanh. Ngay cả khi đất nước có rơi vào một thời kỳ dông bão hận thù, ngọn lửa từ bi cũng vẫn luôn luôn phải là ánh sáng soi đường cho người con Phật.

Sử gia Trần Quang Chỉ của Trung Quốc, thời nhà Minh, đã viết lời ca ngợi nếp sống đơn giản và lòng thương dân Vua Trần Nhân Tông (1258-1308) của Việt Nam, người sau nhiều thập niên chinh chiến về cuối đời đã xuất gia và sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm: “Cho đến những năm cuối đời, ngài đi chẳng dùng xe, nắng không mũ nón, hình dung khô gầy, áo quần lam lũ, con dân trong nước gặp ngài, chẳng ai biết được đấy là vua.”

Món quà voi trắng của Vessantara (một tiền thân của Đức Phật Thích Ca), minh họa trên một cuộn giấy từ Kalasin, Thái Lan, năm 1975. Ảnh chụp lại của Giáo sư Leedom Lefferts.

Mỗi buổi sáng, tôi thức dậy, mở máy tính lên, và ngồi dịch tin. Tôi không đếm nổi, và không nhớ nổi, số người chết trong các trận đánh hôm qua và hôm nay ở Ukraine, và rồi những người bị vùi lấp dưới các trận bom ở Gaza. Tôi ngồi gõ lên bản tin những con số, năm 2022, rồi năm 2025… và đôi khi tôi gõ chệch dòng chữ khi những tiếng bom trên màn hình TV làm ngón tay tôi run rẩy. Làm sao tôi dịch được nỗi đau của những bà mẹ ngồi bên cửa và lo sợ chờ tin con nơi chiến trường. Tôi nhìn thấy các bà mẹ ngồi như thế nơi các ngạch cửa ở Ukraine, Gaza, Myanmar… Một thời quê nhà tôi, hơn nửa thế kỷ trước, đã có những bà mẹ trên khắp nước Việt Nam cũng ngồi bên cửa như thế chờ tin con. Cõi này đầy nước mắt, có phải không.

Một tô tròn khắc họa câu chuyện Vessantara Jataka, bằng hợp kim bạc, khoảng Thế kỷ 18-19. Myanmar.

.

This entry was posted in Vấn đề hôm nay and tagged . Bookmark the permalink.