Lí luận văn học Nga hậu xô viết (18)

Lã Nguyên

PHỤ LỤC

NGHIÊN CỨU VĂN HỌC Ở NƯỚC TA

TRONG THỜI ĐẠI TRỊ VÌ

CỦA CHỦ NGHĨA MÁC – LÊNIN (1930 – 1980)

V.E. Khalizev[1]

Linh hồn của cách tân là sự tái định giá tương lai

từ vị thế thành tựu của quá khứ”

P. Ricoeur[2].

“Những việc cần làm ở Nga, dẫu đơn giản

cũng thành khó khăn”

M.M. Prisvin[3]

Vài chục năm trở lại đây, những công trình viết về nền nghiên cứu văn học của nước Nga thời Xô Viết ngày càng xuất hiện nhiều hơn. Có những trường hợp, các học giả chỉ xoáy vào một phạm vi dữ liệu cục bộ nào đó (loại công trình này nhiều không tính xuể), với những trường hợp khác, người ta lại khảo sát sự tác động của hệ tư tưởng chủ đạo tới văn học và tới khoa học về tư tưởng hệ[4]. Ngoài ra, người ta còn nghiên cứu những cuộc đàn áp kéo dài suốt nửa thế kỉ do các cấp chính quyền nhà nước thực hiện đối với giới văn nghệ sĩ và trí thức[5].

Tuy nhiên, loại “siêu đề tài” này vẫn chưa được khai thác cạn kiệt. Công trình của chúng tôi là một thử nghiệm nghiên cứu sơ bộ bối cảnh đời sống và hoạt động của các nhà nghiên cứu văn học thời Xô Viết dưới áp lực tư tưởng hệ, nặng nề nhất là những năm 1930 – 1940. Điều chủ yếu chúng tôi muốn bàn bạc là: các nhà nghiên cứu (ngược với những khó khăn có vẻ như không thể vượt qua) đã bảo vệ công việc và bản thân mình như thế nào để thoát khỏi áp lực từ phía bên ngoài.

*

Trong nghiên cứu văn học thời Xô viết, chủ nghĩa Mác có hai mặt. Thứ nhất, đó là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận làm việc của những học giả, trước hết là những học giả “hàng đầu”, ví như V.F. Pereverzev, G.N. Pospelov, M.A. Lifshits, D. Lukacs, di sản của họ cho đến nay vẫn chưa mất ý nghĩa.

Hiểu theo nghĩa như thế, thuộc về chủ nghĩa Mác còn phải kể thêm G.A. Gukovski ở giai đoạn cuối, người có những công trình thể hiện sự “tán thành và thậm chí hoàn toàn hoà tan vào hệ tư tưởng chính thống”[6], Y.M. Lotman, người bác bỏ chủ nghĩa ảo tưởng của hệ tư tưởng Mác xít, nhưng lại dựa vào phương pháp của Mác, vào phép biện chứng và chủ nghĩa lịch sử của ông ấy[7], Y.G. Oksman với hàng loạt công trình lấy nền tảng phương pháp luận là những ý kiến của Lênin về phong trào giải phóng ở nước Nga[8].

Thứ hai, chủ nghĩa Mác (chính xác hơn là “phiên bản Liên Xô” của nó) trở thành quyền lực trừng phạt của nhà nước, nó được sử dụng như một công cụ trấn áp khoa học (chắc chắn, trước hết là khoa học về văn học và nghệ thuật). Nó tựa như một chiếc dùi cui mà người ta nắm chắc trong tay và mang ra dùng thả sức ở thế giới Nga (chính xác hơn, thế giới Liên Xô). Ở chức năng dùi cui, “chủ nghĩa Mác” (trường hợp này dứt khoát phải để trong ngoặc kép) tích cực khẳng định bản thân trong nghiên cứu văn học vào khoảng giáp ranh những năm 1920 – 1930. Một bài báo có tính chất định hướng (“Sự thật”, 18.9.1919) từng tuyên bố: “Người bạn đường của giai cấp vô sản không phải là những ai chỉ dừng lại ở việc “tiếp nhận” cách mạng, mà là nhà văn biết nhìn thấy mục đích cuối cùng của cách mạng là chủ nghĩa xã hội, nhà văn biết dùng sáng tác của mình để tham gia vào công cuộc xây dựng xã hội xã hội chủ nghĩa… Bời vì, những kẻ ngoảnh mặt đi trước các yêu cầu của thời đại dứt khoát sẽ chống lại các yêu cầu ấy”[9]. Vì thế, nhiều năm sau này, người ta ngang nhiên trương lên khẩu hiệu: “Ai không đi với chúng ta, người ấy là kẻ thù của chúng ta, người ấy cần phải loại bỏ”. Đúng vào thời kì này, kết hợp từ “nghiên cứu văn học Mác – Lênin” (và/hoặc: nghệ thuật học) xuất hiện và được kiện toàn. Nó tự xưng là thứ khoa học phổ quát, duy nhất đúng. Một trong những tài liệu chính thống từng khẳng định, rằng điều kiện tối quan trọng để xây dựng nền khoa học đích thực về văn học là phải tiến hành một cuộc “đấu tranh triệt để và không khoan nhượng chống lại mọi sự xuyên tạc để bảo vệ sự trong sạch của chủ nghĩa Mác – Lênin”[10]. Sự “trong sạch của chủ nghĩa Mác – Lênin” được hiểu như là yêu cầu bắt buộc phải qui nghiên cứu văn học vào việc khảo sát nguồn cội giai cấp – xã hội của sự sáng tạo ở các nhà văn và trong các tác phẩm. Vào năm 1932, nhà nghiên cứu văn học A.G. Tseitlin khẳng định: “Không ai có quyền quên rằng, vấn đề chức năng xã hội của văn học nghệ thuật chính là vấn đề quan trọng nhất trong số những vấn đề đang đặt ra trước chúng ta”[11]. Tội quên “bản chất giai cấp” của nghệ thuật ngôn từ chẳng những đáng bị phê phán nghiêm khắc, mà còn bị trấn áp, theo nghĩa đen, nghĩa trực tiếp của từ ấy. Điều này đã được A.V. Lunatsarski nói rõ vào năm 1933: “Chúng ta không thể không trấn áp những nhà văn và nghệ sĩ đang sử dụng nghệ thuật và văn học để đấu tranh phản cách mạng với chúng ta”[12]. Điều Lunatsarski nói dĩ nhiên có quan hệ với cả phê bình văn học và khoa học về văn học.

Hệ thống các biện pháp trấn áp đối với nghiên cứu văn học được sử dụng vào những năm 1930 – 1940 (mấy thập niên sau có giảm nhẹ hơn) có rất nhiều mặt và đa dạng theo cách riêng của nó: kiểm duyệt xuyên tạc văn bản, trực tiếp ra lệnh cấm xuất bản bản thảo, tước bỏ quyền xuất bản (hệ thống “gác cổng chuyên nghiệp”), đôi khi trực tiếp tiêu huỷ toàn bộ ấn phẩm của cuốn sách trước khi nó được phát hành, đuổi việc, sa thải các học giả, bắt bớ, bỏ tù họ…

Dưới thời Stalin, việc trấn áp các nhà hoạt động nghệ thuật và văn học, trong đó có các học giả, hoàn toàn không có hồi kết. Danh sách các nạn nhân được mở ra bằng D.S. Likhashev (4 năm tù: 1928 – 1932) và khép lại bằng L.E. Pinski, bạn đồng tuế của ông (5 năm tù: 1951 – 1956). V.F. Pereverzv, M.M. Bakhtin, V.V. Vinogradov, Y.G. Oksman, D.E. Macsimov từng phải ngồi tù, hoặc đi đày. Chẳng bao lâu sau khi bị bắt (1949), G.A. Gukovski và I.M. Nusinov đã chết trong nhà tù Lefortovo. G.N. Pospelov, L.Ja. Ghinburg và nhiều người khác bị hỏi cung, thẩm vấn. Nhân viên an ninh văn hóa thường xuyên lục soát (ngay cả sau thời đại Stalin), tìm mọi cách để phát hiện các tài liệu bị cấm được lưu giữ trong nhà các học giả (nhà Y.M. Lotman và Y.G. Oksman từng bị lục soát như thế).

Một dấu hiệu thời đại không kém phần quan trọng: trên báo chí và trong các cuộc họp, thường xuyên diễn ra những cuộc “kiểm thảo” và tố giác các học giả và các nhóm làm việc của họ kèm theo sự trấn áp tàn khốc với những mức độ khác nhau. Từ năm 1922 đến 1929 (sau sự kiện “con tàu triết học” nổi tiếng), việc buộc tội tuy rất nghiêm khắc, nhưng chưa có sự bắt bớ. Chẳng hạn, năm 1926, theo quyết định của Bộ Chính trị Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản, tạp chí “Nước Nga mới” bị đình bản, Tổng biên tập I. Leznhev (theo sau các nhà triết học) bị trục xuất ra nước ngoài, nhưng năm 1930 lại được quay về Liên Xô.

Vào quãng giáp ranh giữa những năm 1920 – 1930, chính sách của Đảng và Nhà nước đối với văn học, nghiên cứu văn học và phê bình trở nên vô cùng khắc nghiệt. Nhóm Hình thức luận, Trường phái Pereverzev và Viện Hàn lâm Quốc gia các khoa học nghệ thuật (“ГАХН”), một cơ quan có nhiều học giả lớn không thuộc về trường phái nào trong số các trường phái kể trên, đã phải hứng chịu những đòn chí tử làm cho tan tác (ở đây, vào nửa sau những năm 1920, xu hướng xã hội học hoá theo kiểu bán cưỡng bức ngày càng tăng lên).

Đến những năm 1930, các biện pháp trấn áp đối với giới ngữ văn học trở nên vô cùng tàn khốc. Vào giữa năm 1933 – 1934, “Vụ án các nhà Slavơ học” được nguỵ tạo và kết thúc bằng hàng loạt cuộc bắt bớ, tù đày; muộn hơn một chút, vào các năm 1937 – 1938, người ta thủ tiêu hàng loạt nhân vật đang bị trấn áp. V.N. Perets, một nhà nghiên cứu văn học chắc chắn là có uy tín nhất trong thế hệ đầu đàn thời đó, phải đi đày và không lâu sau đó thì chết. Theo lời của các nhà nghiên cứu thời ấy, ““Vụ án các nhà Slavơ học” là một khâu của chiến dịch chống lại giới trí thức cũ: mục đích của nó là đe doạ và tiêu diệt những người được giáo dục theo một hệ thống giá trị khác” (không giống với hệ thống giá trị Mác – Lênin – V. Kh.)[13].

Mâu thuẫn gay gắt trong môi trường của giới học giả và những kẻ nguỵ học giả, những chiến binh năng nổ của hệ tư tưởng Mác xít, là một sự thật quan trọng trong đời sống của khoa nghiên cứu văn học vào những năm 1930. Những cuộc đối đầu theo kiểu như thế giữa những nhà nghiên cứu văn học vốn thành thực, hoặc làm bộ thành thực nghĩ rằng họ nắm được chân lí tuyệt đối, bao giờ cũng quay ngoắt thành những trận đấu tố, quy kết lẫn nhau phạm tội tư tưởng hệ, tựa như một sự cáo giác được tuyên bố thẳng thắn, công khai. Bằng chứng rõ nhất về chuyện đó là cuộc tranh luận diễn ra vào cuối năm 1934 xung quanh một chủ đề có vẻ như chẳng dính dáng gì tới chuyện chính trị: lí luận tiểu thuyết. Sau tham luận của D. Lukacs (trong số rất nhiều tham luận khác), V.F. Pereverzev phát biểu. Ông chỉ trích nghiêm khắc báo cáo viên, tựa như báo cáo viên đã đứng trên quan điểm duy tâm của Heghel, xa rời chủ nghĩa Mác, xích về phía nhà dân tuý N.K. Mikhailovski: “Trong tham luận của ông ấy không thấy có tính giai cấp”, “chẳng còn một chút gì” của xã hội học marxiste. Bạn của D. Lukacs là M.A. Lifshits lên tiếng đáp lời và tỏ ra khinh bỉ Pereverzev với thái độ trịch thượng, cay độc hơn nhiều so với việc Pereverzev buộc tội Lukacs. Rồi chuyện xoay qua nói về sự thoát li nguy hiểm của học giả với “tư tưởng chuyên chính vô sản”, “xa rời chủ nghĩa Mác để đứng về phía melsevich”, về ý nghĩa to lớn ở những huấn thị của Stalin xung quanh “các vấn đề chính trị của chúng ta”, mà Pereverzev đã coi thường. Rồi cả hội trường vang lên những lời tán thành phải tiêu diệt kẻ thù của chủ nghĩa xã hội[14].

Kết quả của các cuộc tranh luận như thế là những vụ trấn áp mới: vào năm 1938, Pireverzev bị bắt, đến năm 1940, tạp chí “Phê bình văn học” do M.A. Lifshits và D. Lukacs đứng đầu bị đình bản[15]. Trước mắt chúng ta là một trò hề bi thảm cực kì bỉ ổi: những người marxiste có xác tín tranh luận kịch liệt với nhau, rồi về sau, một lực lượng thứ ba nào đó trấn áp cả phía này, lẫn phía kia.

Trong cuộc tranh luận về tiểu thuyết có ý nghĩa quan trọng vào giữa những năm 1930, ta thấy nổi rõ một đặc điểm mang tính loại hình của những người có thể nói là tuân thủ hết sức nghiêm nhặt thế giới quan marxiste. Đặc điểm thấm sâu vào máu họ là niềm tin mù quáng vào sự đúng đắn của bản thân mình, là sự không nhượng bộ đối với tất cả những ai (trong phạm vi của chủ nghĩa Mác và bên ngoài giới hạn ấy) có cách nghĩ khác đi.

Chẳng hạn, vào giữa những năm 20 – 30, V.F. Pereverzev khẳng định rằng các môn đệ của phái hình thức luận đã tạo ra cho công việc nghiên cứu của họ một màu sắc xã hội học để tiến hành “cuộc đấu tranh giấu mặt chống lại quan điểm duy vật về lịch sử”. Ông còn nhìn thấy trong các công trình nghiên cứu của họ một “mớ bòng bong xã hội học”, thậm chí, thấy cả sự siêu hình (xin nhấn mạnh, siêu hình là một trong những địch thủ gớm ghiếc nhất của chủ nghĩa Mác)[16]. Nhưng chỉ hai năm sau, trên chính tạp chí này (“Văn học và chủ nghĩa Mác”), người ta nói về Pereverzev còn gay gắt hơn so với Pereverzev viết về trường phái hình thức luận: hệ thống của Pereverzev là một “hệ thống hoàn toàn thối nát”[17].

Sự công kích theo kiểu như thế của các nhà nghiên cứu văn học đứng trên quan điểm marxiste vẫn tiếp tục xẩy ra cả dưới thời hậu Stalin. Chẳng hạn, vào nửa sau những năm 1950, đầu những năm 1960, đã diễn ra một cuộc tranh luận về bản chất của cái thẩm mĩ giữa những người được gọi là phái “tự nhiên thiên bẩm” (đối tượng thẩm mĩ mang tính khách quan) và những người “thực tiễn xã hội” (cái thẩm mĩ là hiện tượng kinh nghiệm xã hội mang tính chủ quan). Cả phái này lẫn phái kia đều “hành xử” trong khuôn khổ của chủ nghĩa Mác. Vào năm 1964, thấy xuất hiện một bài bút chiến quyết liệt đứng về phía G.N. Pospelov, nhà “tự nhiên thiên bẩm”. Bài bút chiến khẳng định các đại diện của trường phái “mĩ học mới”, những nhà “thực tiễn xã hội” (L.N. Stolovich và những người khác) “không biết mình đã trượt khỏi lập trường của nhận thức luận duy vật – biện chứng”, “tất cả bọn họ đang cắm đầu xuống đất, chổng ngược chân lên trời”: “tất cả được vặn ngược theo kiểu cách của chủ nghĩa chủ quan”. Thậm chí bài bút chiến còn nói rằng Stolovich và những người đồng quan điểm xem các nhà duy vật là địch thủ của mình[18]. Đúng là Pospelov đã quy kết đối thủ rơi vào chủ nghĩa duy tâm một cách thái quá. Nhưng khi biết có một đồng nghiệp trẻ viết rằng, quy kết như thế là vi phạm đạo đức nghề nghiệp (chụp cho đối thủ cái “mũ tư tưởng hệ” nguy hiểm), G.N. Pospelov giận dữ nói: “Hoàn toàn ngược lại! Nếu gọi những kẻ duy tâm là các nhà duy vật thì tôi mới vi phạm phép tắc đạo đức chứ!”. Lời phản ứng này rất tiêu biểu, thể hiện đặc điểm của một người Mác xít có xác tín triệt để. Giữa những nhà nghiên cứu văn học cùng theo chủ nghĩa Mác, không thể có, không thể tồn tại bất kì một thứ tình bằng hữu nào. Tranh đấu! Chỉ có tranh đấu! Không chấp nhận mọi sự thoả hiệp!

Ở lĩnh vực này, còn có thể kể thêm một sự kiện nữa. Năm 1964, tại hội thảo bàn về cuốn sách viết về Dostoievski của Bakhtin (hội thảo của Hội Nghiên cứu khoa học sinh viên tại khoa Ngữ văn, Đại học Tổng hợp Quốc gia Moskva, rất đông người tham dự), trong số những cử toạ đăng đàn phát biểu, có V.F. Pereverzev (chắc chắn, đây là lần xuất hiện duy nhất của ông trước công chúng sau chuyến đi đày kéo dài nhiều năm). Ông phê phán gay gắt phương pháp luận của Bakhtin, xem đó là phương pháp sai lệch (sau hội thảo, về chuyện này, V.N. Turbin[19] nói: “Họ chẳng học hành được gì cả”). Sau đó không lâu (tôi tình cờ nghe được chuyện này trong một cuộc gặp gỡ có tính chất gia đình): Pereverzev rất phẫn nộ khi nói về bài phát biểu bảo vệ Bakhtin của S.G. Bocharov…

Hệ tư tưởng Mác xít được trộn lẫn với chất men của chủ nghĩa không tưởng sắt máu, như những phát ngôn của Pereverzev, Lifshits, Pospelov vừa dẫn ở trên, đã chứng tỏ, thái độ cố chấp cuồng tín, không chấp nhận mọi thứ quan niệm khác biệt với “quan niệm duy nhất đúng” của riêng mình, là kết cục tất yếu được sinh ra từ những ai trung thành với hệ tư tưởng ấy. Cuộc đấu tranh bảo vệ thế giới quan “cứu rỗi toàn nhân loại” đã diễn ra dưới những hình thức như thế trong thời đại Stalin (và cả sau này nữa!).

Tìm kiếm mọi sự “nhiễu loạn”, “xét lại” và vạch trần nó gần như đã trở thành một thứ mệnh lệnh. Tranh đấu không khoan nhượng để bảo vệ sự “trong sáng” của hệ tư thưởng thống soái trở thành nhu cầu. Một trong những bài báo xuất hiện thời hậu chiến, có giọng đầy hăm doạ (đối tượng của nó là bài M. Gorki và truyền thống dân tộc trong văn học Nga của tác giả V. Vesnhitski), đã mở đầu thế này: “Một trong những nhiệm vụ của nền nghiên cứu văn học Xô Viết là đào tận gốc mọi tàn dư của các lí luận nguỵ khoa học”[20].

Và những lời nói về sau này (1975) trong lá thư của M.A. Lifshits gửi biên tập viên M.P. Rozin về bài viết của G.N. Pospelov “Dòng chảy lí luận duy nhất”, dự định sẽ dùng cho tập 9 từ điển “Bách khoa văn học giản yếu”, có ý nghĩa hết sức quan trọng: “Tên G. Lukacs được G.N. Pospelov nhắc tới chỉ thuần tuý do những lí lẽ mị dân”; trong bài ấy chỉ có “sự trống rỗng hoàn toàn”, “một mớ từ ngữ rối rắm”, còn bản thân bài viết ấy là một “hành vi hèn mọn”, “không gì có thể bào chữa được”. Thậm chí còn nói thế này: trước mắt ta là một trò đùa bỡn bất thường “theo phong cách nhà hàng Don Basilio” (ý muốn nói về tài vu khống trong vở kịch Người thợ cạo thành Séville của Beaumarchais)[21].

Quả là những chuyện om sòm trong gia đình các quý ông nghiên cứu văn học – marxiste chẳng bao giờ có hồi kết.

Đến giai đoạn hậu chiến, sự can thiệp thô bạo của giới cầm quyền Xô Viết đạt tới giới hạn cực đỉnh. Vào những năm 1947 – 1949, một chiến dịch đại quy mô được triển khai để đấu tranh chống lại chủ nghĩa thế giới được xem là cực đối lập với chủ nghĩa yêu nước của Liên Xô (gốc rễ của chủ nghĩa thế giới được tìm thấy trong các công trình của A.N. Veshelovski, người mà thời ấy được gọi là “nhà duy tâm tư sản”). Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Leningrad trở thành trung tâm trấn áp đối với khoa học về văn học. Có 7 trọng tội được gán cho các nhà nghiên cứu văn học xuất sắc, như V.M. Zirmunski, B.M. Eikhenbaum, G.A. Gukovski, M.K. Azadovski. Giai đoạn cực kì ảm đạm ấy trong lịch sử khoa học của chúng ta đã được nghiên cứu kĩ lưỡng (có kèm theo tư liệu lưu trữ) trong các bài báo của K.M. Azadovski và B.F. Egorov[22].

Thời kì này, tại Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp MGU (“МГУ”) cũng xẩy ra một cái gì tương tự như vậy. Các nhân vật nhơ nhuốc giờ đây hoá ra là P.G. Bogatyrev, N.K. Gudzii, S.M. Bondi, M.N.Peterson, E.V. Pomerantseva và (chắc chưa phải là người cuối cùng) G.N. Pospelov, người bị cáo giác đã biện hộ cho Veshelovski, thừa nhận giá trị của tiểu thuyết Những người quỷ ám của Dostoievski, một văn sĩ “thậm khả ố” (chữ của Lenin), giải thích chủ nghĩa lãng mạn như một hiện tượng chỉnh thể, không tính tới mâu thuẫn ở các nhánh “tiến bộ” và “phản động” của nó. Người ta đã nhận xét thế này về bài Vấn đề chủ nghĩa lãng mạn của Pospelov: “Tất cả đã làm lộ ra chủ nghĩa hình thức, làm lộ ra các quan điểm vô chính trị, phản khoa học. Kiểu lập luận rỗng tuyếch của G. Pospelov không thể không khiến người ta phải ngạc nhiên”[23].


[1] Valentin Evghenhievich Khalizev (sinh năm 1930) là Giáo sư, Tiến sĩ Khoa học, làm việc tại Khoa Ngữ văn Trường Đại học Tổng hợp Quốc gia Lomonosov từ năm 1957. Ông giảng dậy các giáo trình lí luận văn học, lí thuyết giá trị, văn hoá học, lí thuyết sáng tác.- ND.

[2] P. Ricoeur – Lịch sử và chân lí. Spb, 2002. Tr. 14.

[3] M.M. Prisvin – Tuyển tập. Bộ 8 tập. T. 1. M., 1982. Tr. 748.

[4] Xem: Trong sự kìm kẹp của tư tưởng hệ: Tuyển tập các tài liệu văn học – chính trị. 1917 – 1927. M., 1997; N.V. Kornhenko – “Tan băng thời NEP”. Việc thành lập Viện Phê bình văn học. M., 2010.

[5] Xem: A.B. Blium.- “Đằng sau cánh gà của Bộ Sự thật”. Bí mật của lịch sử kiểm duyệt Liên Xô. Spb., 1994; Cùng tác giả.- Sự kiểm duyệt của Liên Xô thời khủng bố trắng. 1928 – 1953. Spb,. 2000. Cùng tác giả.- Loại sách bị cấm của các nhà văn và nhà nghiên cứu văn học Nga. 1917 – 1991. Bảng kê kiểm duyệt của Liên Xô kèm lời chú giải. Spb., 2003.

[6]V.M. Markovich – Quan điểm “phân kì sự phát triển lịch sử của văn học” trong các công trình của G.A. Gukovski ở những năm 1940// V.M. Markovich.- Từ lịch sử phê bình và nghiên cứu văn học ở Nga. Spb., 1007. Tr. 228.

[7] Xem: M.L. Gasparov – Lotman và chủ nghĩa Marx//Iu.M. Lotman.- Bên trong những thế giới biết tư duy. M., 1996. Tr. 419-420, 425.

[8] Có thể xem: Y.G. Oksman – Từ “Người con giá viên đại uý” đến “Bút kí người đi săn”. Pushkin – Ryleev – Kolsov – Turgheniev. Nghiên cứu và tư liệu. Saratov, 1959.

[9] Trích theo: Trong sự kìm kẹp của tư tưởng hệ. Tr. 46.

[10] Nghị quyết của Đoàn Chủ tịch viện Hàn lâm Cộng sản về quan điểm nghiên cứu văn học của Pereverzev// Văn học và chủ nghĩa Marx. Q. 1. Tr. 3.

[11] A.G. Tseitlin.- Nghiên cứu văn học// Từ điển “Bách khoa văn học”. T. 6. M., 1932..

[12] A.V. Lunatsarski.- Về vai trò của nhà nước vô sản trong việc phát triển nền văn hoá xã hội chủ nghĩa// “Dưới lá cờ của chủ nghĩa Marx”. 1933, Số 6. Tr. 264.

[13] F.D. Asnhin, V.M. Alpatov – Vụ án các nhà nghiên cứ Slavơ. Những năm 1930. M., 1994. Tr.7.

[14] Những vấn đề lí luận tiểu thuyết//”Phê bình văn học”, 1935, số 2, tr. 231; số 3, tr. 245 – 252.

[15] Xem: Những quan điểm độc hại của “Phê bình văn học”//”Đất hoang đỏ”, 1940, số 4. M.A. Lifshits, D. Lukacs và các nhà nghiên cứu văn học trong nhóm của ông bị gán tội cự tuyệt lí luận đấu tranh giai cấp, tội lí tưởng hoá thời trung đại, hạ thấp ý nghĩa cuộc cách mạng Pháp thế kỉ XVIII, và thừa nhận một cách “dối trá”, rằng trên cơ sở thế giới quan phản động, có thể sáng tạo ra những tác phẩm nghệ thuật đích thực. Tất cả những điều đó được gọi là “ những sự xuyên tạc thô bỉ nhất”.

[16] V.F. Pereverzev.- “Phương pháp xã hội học” của các nhà hình thức luận//”Văn học và chủ nghĩa Marx”, 1929, số 1. Tr. 126.

[17] P.I. Lebedev-Polijanski.- Nhiệm vụ của chúng ta//”Văn học và chủ nghĩa Marx”. 1931, số 3. Tr. 3.

[18] G.N. Pospelov – Sự phát triển của lí luận nghệ thuật ở nước ta và “trường phái mĩ học” mới// Cái thẩm mĩ. Tuyển tập bài báo. M., 1964. Tr. 188, 194, 196, 202.

[19] V.N. Turbin (1927– 1993): Nhà nghiên cứu văn học, nhà sư phạm, môn đệ “chân truyền” của M.M. Bakhtin.- ND.

[20] V. Zdanov.- Những kị sĩ của một “dòng chảy duy nhất”// “Báo văn học”, 1948, số 62.

[21] Theo tài liệu của tác giả bài viết này.

[22] Xem: K.M. Azadovski, B.F. Egorov.- Về thói bợ đỡ và chủ nghĩa thế giới. 1948 – 1949// “Ngôi sao”, 1989, số 6; K.M. Azadovski, B.F. Egorov.- Các nhà chủ nghĩa thế giới// “Tổng quan văn học mới” (НЛО), 1999, số 36.

[23] E. Kovaltsik – Những ghi chép nguỵ khoa học// “Báo văn học”, 1949, ngày 28/9.

Comments are closed.