Văn Việt: Khoa Hữu là bút danh.
Tên khai sinh: Ngô Đình Khoa, sinh năm 1938 tại Kim Anh, Phúc Yên, Vĩnh Phúc. Vào miền Nam từ 1953. Tốt nghiệp Bách khoa hệ cao đẳng.
Trước 1975: Đi dạy, đi lính. Đã in thơ và truyện ngắn trên một số tạp chí văn học. Từng chủ trương Tập san Góp gió.
Sau 1975: Im lặng viết. Từ 1987 gửi thơ đăng tại các tạp chí văn chương Hải ngoại: Văn học, Thế kỷ 21, Hợp Lưu (Mỹ), Làng Văn, Sóng (Canada), Tin nhà (Pháp).
Tác phẩm đã xuất bản:
– Hai mươi bài lục bát (thơ, NXB Trình bày, Pháp, 1994)
– Thơ Khoa Hữu (thơ, tạp chí Văn học, Hoa Kỳ, 1997)
– Nửa khuôn mặt (thơ, Thư ấn quán, Hoa Kỳ, 2010)
– Lửa (thơ, Thư ấn quán, Hoa Kỳ, 2012)
Ông mất năm 2012 tại Sài Gòn, để lại nhiều sáng tác chưa kịp xuất bản, trong đó có tập truyện dài Lời bạt một tác phẩm và tập truyện ngắn Những viên đạn.
Khoa Hữu chọn các thể thơ 5 chữ, 7 chữ và lục bát làm hình thức thể hiện. Ông đã “đưa hình thức cũ lên một cung bậc mới, nuôi sống nó bằng chất liệu phong phú và tài ba của mình” (Nguyễn Mộng Giác: Đi vào cõi thơ Khoa Hữu)
Được sự đồng ý của bà quả phụ Nguyễn Bạch Tuyết, Văn Việt xin trân trọng giới thiệu một số sáng tác của ông.
ĐIỆP KHÚC
Ta như mùa đông
đóng băng ngày tháng
ta như mùa đông
đến từ vô tận
Một ngọn cỏ gầy
nhức lên từ đất
ta như cỏ này
lạnh cóng trong đất
Thấy mặt trời gần
trong mắt ta mở
thấy tay thời gian
vuốt qua ghê sợ
Bình minh như lửa
hoàng hôn như than
ta thấy cùng cháy
ta tàn cùng than
Ngẩng đầu ngang núi
sững một niềm đau
rừng rung thân mỏi
hờn suốt biển sâu
Đi dọc đời sống
tựa như đi dây
một hồn vực thẳm
hai bờ căng thây
Ta làm thi sĩ
gõ cửa đa đoan
tìm kẻ dưới mộ
thương người hồng nhan
Vắt kiệt sự sống
dốc cạn máu ta
thơ là máu nóng
thơ là thịt da
Lấp hoài chưa tận
vũng bể dâu này
đời mòn bấc lụn
mai về đâu đây
Vĩnh biệt mùa đông
buồn dâng tới đỉnh
ta chạm vô cùng
ngàn sau chưa tỉnh.
TRÊN BÃI BIỂN TRÍ NHỚ
Ta đến Ô Cấp ngày mới hạ
núi trầm mình biển gọi mênh mông
lớp lớp sóng triều bóng kỵ mã
phải đây trận thủy chiến chưa ngừng
Nước bất bình mài gươm tạo hóa
đá xếp hàng dựng cõi âm binh
mũi giáo còn tanh đầu ngọn gió
để đời nay thương tích không lành
Suốt dọc đường suốt dọc số phận
ta qua từng cột mốc tháng năm
mỗi cây số cách lòng trắc ẩn
mỗi cảnh đời khuất bóng phù vân
Này bé, cùng ta về quá khứ
cho lòng ta hờn chút trẻ thơ
có cậu bé lạ về gõ cửa
cánh hư vô khép đến bây giờ
Này bé, hãy cười lên thành tiếng
cho tim ta thở chút trời xanh
và cậu bé lại đi không hẹn
bờ cát xưa sóng vỗ tan tành.
BẢN NHÁP TỜ DI CHÚC
Gửi một người cầm bút và những người
Cầm bút ở Việt Nam
Một đời ly rượu sủi tăm
ta say tựa gốc trăm năm ta ngồi
hất tay đổ chén rượu trời
đáy ly sót giọt máu người chưa tan
Ta say quên chỗ ta nằm
dọc ngang thước đất nhớ trăng bốn bề
tháng ngày ta đã hôn mê
thân phơi bóng núi hồn về cửa sông
Ta say thiên hạ vô chừng
đá tan ngọc nát chưa ngừng cơn say
trái tim ta thế gian này
còn chăng hạt bụi lưu đày thiên thu.
NHA TRANG HẠ
Ta về Nha Trang, phố
nghe tiếng động ngàn năm
cát vàng em, có nhớ
con dã tràng thương tâm
Ta về Nha Trang, gió
xô xát lời ca dao
tháp mấy tầng đá cổ
mòn một cõi chiêm bao
Về nghe đất nhẫn nhục
lên hàng dương liễu này
về nghe đá thổn thức
trầm mình trong biển say
Hạ mang từng vết phỏng
như lửa giải oan đời
vô hồn con sóng trắng
tan tành nước viễn khơi
Ta bạo hành thân thể
em bạo hành dung nhan
bãi dâu xanh hồn bể
những mảnh tình chưa tan
Ta về Nha Trang, nhớ
lớp cỏ cũ tàn đâu
dấu chân bày cát xóa
sao tìm ta mai sau
Ta về, ta đã khác
biển đong sầu không đầy
vai áo trời đã bạc
lưng núi ngồi như ngây
Sóng vỗ bờ luân khúc
gió muôn trùng than van
loài rong rêu hóa kiếp
khói sương-mù Nha Trang.