Chuyển hóa dân chủ: Đối thoại với các nhà lãnh đạo thế giới (kỳ 5)

Biên tập: Sergio BitarAbraham F. Lowenthal, Viện Quốc tế Hỗ trợ Bầu cử và Dân chủ (IDEA), Stockholm

Dịch: Phạm Nguyên Trường

Công lí và Hòa Giải

Tuy nhiên, những căng thẳng lớn nhất với Pinochet liên quan tới các vấn đề về nhân quyền. Khi chúng tôi triệu tập Ủy ban Sự thật và Hòa giải để điều tra những vụ mất tích dưới chế độ độc tài, Pinochet nói với tôi: “Tại sao ông lại làm việc này, thưa Ngài Tổng thống? Chả khác gì khi hòa bình đã giữ thế thượng phong trong một gia đình thì một người nào đó tới và đòi thừa kế và sau đó gia đình lại đánh nhau”. Tôi trả lời: “Chúng ta sắp làm như thế đấy”, và sau đó, khi báo cáo được đưa ra, đã xuất hiện những căng thẳng đáng kể. Họ đã triệu tập Hội đồng an ninh quốc gia, nhưng không làm được việc gì khác.

Ông quyết định thành lập Ủy ban Sự thật và Hòa giải như thế nào? Ông chờ đợi những phản ứng gì từ phía quân đội?

Ủy ban Sự thật và Hòa giải được thành lập để điều tra những tội ác của chế độ độc tài. Tôi triệu tập cuộc họp ngay đầu nhiệm kì của tôi. Đấy, về cơ bản, là sáng kiến ​​của tôi. Tôi nghĩ rằng đấy là việc cần làm, nhưng đầu tiên tôi phải thuyết phục bằng được các cố vấn của tôi. Cả Edgardo Boeninger lẫn Enrique Correa, những cố vấn chính trị chính của tôi đều không nghĩ rằng đó là quyết định tốt, nhưng tôi tin tưởng rằng đó là biện pháp mở cửa. Nếu muốn quân đội chấp nhận giải pháp, tôi phải vừa thẳng thắn vừa thận trọng, do đó, các câu mà tôi dùng về việc tìm kiếm “công lí cao nhất trong khả năng” – vì nó mà tôi bị phê phán rất nhiều – phản ánh mức độ thận trọng, bởi vì nếu công lí sẽ được áp dụng cho mọi người, mọi trường hợp, nếu nó có nghĩa là xử cả Pinochet và tất cả đám người của ông ta, thì sẽ xảy ra nội chiến. “Cao nhất trong khả năng” là đường lối khả thi bởi vì có những phiên tòa, nhưng không phải là chém đầu, không phải là những hành động gây hấn, chống lại những người tiếp tục có vũ khí trong tay.

Trước đó, Pinochet đã nói rằng ông ta sẽ cảnh giác, rằng không được động đến bất cứ người nào của ông ta, nhưng báo cáo của ủy ban đã có tác động rất lớn, bởi vì lúc đó nhiều người không tin rằng sẽ có báo cáo về những vụ vi phạm nhân quyền có hệ thống và lan tràn như vậy. Báo cáo của ủy ban tương tự như một lời khẳng định chính thức. Và sau đó là những bước đi khác và chúng tôi đã đạt được nhiều thành tích cụ thể về sự thật và công lí hơn hẳn nhiều cuộc chuyển hóa khác.

Ủy ban được thành lập như thế nào? Ông tư chọn các thành viên?

Tôi gọi điện cho người ta, từng người một, những người mà theo đánh giá của tôi là có uy tín và đại diện cho những quan điểm khác nhau, cố gắng đảm bảo rằng ủy ban sẽ có tính chính danh. Raul Rettig – một luật gia nổi tiếng, lãnh tụ của đảng Cấp tiến Chile – làm chủ tịch. Về cá nhân, ông ta và tôi còn là những người gần gũi với nhau; ông từng là một trong những thành viên của Nhóm 24. Ông nổi tiếng vì được phái hữu đánh giá cao, nhưng phái tả cũng kính trọng tương tự như thế.

Tôi nhớ đã rất chú ý trong việc thuyết phục một nhà lãnh đạo đáng kính của phe bảo thủ Chile, Francisco Bulnes, tham gia ủy ban này vì ông rất được những người trong cánh hữu truyền thống tôn trọng. Tôi thậm chí còn đến tận nhà ông để đề nghị, nhưng ông nói không. Tôi phải khó khăn lắm mới tìm được người bên cánh hữu. Cuối cùng, nhà sử học Gonzalo Vial chấp nhận; ông từng là Bộ trưởng giáo dục trong chính quyền Pinochet. Chúng tôi còn đưa những nhân vật trong phong trào bảo vệ nhân quyền, ví dụ như Jose Zalaquett. Tất cả đều là những người được nhiều người tôn trọng.

Cải cách hiến pháp

Thời điểm cực kì quan trọng, trước khi ông trở thành tổng thống, năm 1989, là cuộc đàm phán về tu chính hiến pháp với chế độ độc tài. Nhiều người cảm thấy rằng những thay đổi đã đạt được chưa đủ mạnh. Nhìn lại, ông đánh giá như thế nào? Lúc đó, có nên khăng khăng đòi phải có những thay đổi lớn hơn?

Vâng, nhiều người không thích câu này, nhưng tôi coi là rất thực tế – “Cao nhất trong khả năng” – phản ánh những cố gắng nhằm tiến lên từng bước một. Những cuộc cải cách này là bước đầu tiên, không phải tất cả chúng tôi đều muốn, nhưng những cuộc cải cách đó thể hiện rõ ràng sự tiến bộ. Trong điều kiện là lúc đó, Pinochet là độc tài và sẽ tiếp tục là tổng tư lệnh Lục quân và tổng tư lệnh các lực lượng vũ trang, ông ta có quyền hành rất lớn.

Nhiều năm đã trôi qua và tôi có thể đã quên nhiều thứ, nhưng tôi xin nói rằng tôi không giữ trong đầu những câu hỏi như: “Ta đã làm tốt? Ta đã làm không tốt?” Không, tôi nghĩ rằng chúng tôi đã làm những việc phải làm, và may mắn là đã thành công, nhưng cũng có thể thất bại. Chúng tôi phải từ bỏ một số ý tưởng nhất định và nắm lấy những ý tưởng khác. Ví dụ, trong chương trình của chính phủ Concertación, chúng tôi ủng hộ việc bãi bỏ luật ân xá, nhưng khi nắm quyền, chúng tôi không thể làm như thế vì chúng tôi cần phải có phe đa số tuyệt đối – nhưng chúng tôi không có – thì mới thay đổi được đạo luật đó. Chúng ta nên nhớ rằng Pinochet có các thượng nghị sĩ được chỉ định (người mà ông ta bổ nhiệm theo hiến pháp năm 1980), và chúng tôi không nhận đủ số phiếu trong quốc hội nhằm giải tán những ốc đảo độc tài đó. Đó là lí do vì sao chúng tôi lập ra Ủy ban Sự thật và Hòa giải. Đó là bước đi quan trọng nhằm thúc đẩy tinh thần hòa giải dân tộc và là bước đi cơ bản để tiến tới công lí.

Vấn đề trung tâm để quá trình chuyển hóa thành công là xây dựng được một liên minh đầy sức mạnh. Ông nhận được sự ủng hộ mạnh mẽ từ các đảng phái chính trị. Việc xây dựng cương lĩnh chính trị được các đảng thỏa thuận có đóng góp tới mức nào vào chuyện này?

Tôi tin rằng chương trình được mọi người đồng ý là hải đồ của chúng tôi, và chúng tôi đã cố gắng hoạt động trong khuôn khổ của chương trình này. Tôi nhớ một chủ đề tôi thích thảo luận với các nhà lãnh đạo các đảng: “Ông thấy những việc chúng ta đang làm có quan hệ như thế nào với những điều chúng ta đã hứa với đất nước?” Đã có những kì vọng lớn, nhưng chúng tôi đã cẩn thận để không đưa ra những lời hứa quá mức, có thể dẫn đến vỡ mộng. Chúng tôi có chương trình kinh tế và xã hội đầy tham vọng cho giai đoạn, nhưng đây là chương trình phù hợp. Những người phụ trách việc thực hiện cũng là những người đã từng tham gia thiết kế chương trình. Tuy nhiên, luôn luôn có những kì vọng mà chúng tôi không thể đáp ứng, vì chúng tôi có một hệ thống chính trị với một số nghị sĩ do Pinochet chỉ định, họ buộc chúng tôi phải nhượng bộ, nhất là các vấn đề chính trị.

Quản lý kinh tế để phát triển

Phái hữu nói rằng Concertación tiếp tục áp dụng mô hình kinh tế như của Pinochet. Nhưng khi người ta thấy những việc đã làm được ở Chile – các hiệp ước quốc tế, đấu tranh với nạn nghèo đói, cơ sở hạ tầng, đầu tư và tìm kiếm “phát triển đi đôi với công bằng”, như chính quyền của ông đặt ra – có lẽ cách giải quyết của ông có khác. Giải pháp kinh tế của ông là như thế nào? Chính sách kinh tế có vai trò quan trọng như thế nào đối với việc bảo vệ chính phủ của ông?

Pinochet áp dụng chính sách kinh tế tân tự do hết mức có thể. Chúng tôi bảo vệ chính sách mở cửa về kinh tế, chúng tôi thậm chí đẩy cho nó đi xa hơn nữa và chúng tôi có chính sách tài chính đầy trách nhiệm. Nhưng nó khác xa mô hình kinh tế của chế độ độc tài. Chúng tôi thúc đẩy chính sách, như ông nói, tăng trưởng đi kèm với công bằng. Trong thời chính phủ của tôi, chúng tôi đã thực hiện những cải cách quan trọng trong lĩnh vực lao động và thuế khóa, bên cạnh những cuộc cải cách khác. Chúng tôi đưa ra chính sách xóa đói giảm nghèo, chúng tôi cải thiện tiền công và tiền lương và chúng tôi gia tăng các khoản đầu tư của nhà nước trong lĩnh vực y tế và giáo dục. Chúng tôi đã giảm được lạm phát, đấy không còn là vấn đề đối với Chile nữa. Tóm lại, kết quả của chính sách kinh tế và xã hội của Concertación mà chúng tôi khởi xướng trong chính phủ của tôi là dễ hiểu. Để sang một bên thái độ khiêm tốn, tôi tin rằng chúng tôi đã làm được một việc tốt – một công việc phải làm – và chúng tôi đã không mắc nhiều sai lầm nghiêm trọng. Chúng tôi có thể đã làm một số việc chưa được tốt, nhưng tôi nghĩ rằng, nói chung, chúng tôi đã có một chính phủ tốt và bằng chứng là chính phủ đã có sự tiếp nối. Nếu chính phủ làm việc dở, thì rất có thể là phe đối lập sẽ xuất hiện và sẽ chiến thắng trong lần bầu cử tiếp theo. Chúng tôi đã nắm quyền 20 năm – bốn đời chính phủ – của liên minh Concertación.

Trong trường hợp Chile, nhân dân đã rất kiềm chế trong việc đưa ra những yêu cầu về mặt xã hội, ví dụ như tăng lương và cải thiện điều kiện làm việc. Ông đã phản ứng (và điều hướng) những đòi hỏi này như thế nào?

Tôi nghĩ rằng thành công của chính quyền của tôi và của các chính quyền tiếp theo, nói chung, không chỉ do các chính sách được các chính quyền theo đuổi, mà còn do sự ủng hộ rất lớn của cộng đồng dân tộc. Tôi không bao giờ cảm thấy rằng chúng tôi bị dồn vào chân tường, hay phe đối lập mạnh hơn chúng tôi. Đồng thời, chúng tôi thận trọng để cư xử tốt với phe đối lập. Nói cách khác, quan trọng là phải hiểu phe đối lập, có tính tới lợi ích của họ, để họ không cảm thấy là bị đẩy ra rìa, giải thích cho họ những việc chúng tôi đang làm lúc đó để cho họ hiểu. Điều đó đã giúp tôi giành được sự ủng hộ cho những chính sách mà chúng tôi đưa ra. Thật vậy, khi chúng tôi bắt đầu chuyến kinh lí đầu tiên ra nước ngoài, chúng tôi đã mời giám đốc điều hành các doanh nghiệp, các nhà lãnh đạo công đoàn, các nhà lập pháp thuộc phe đối lập và ủng hộ chính phủ cùng tham gia, để họ có thể tạo thành một đội. Thế là có thêm những cuộc gặp gỡ, vì buổi tối họ thường tụ tập cùng ăn với nhau và trở thành những người bạn gần gũi hơn, vì vậy, đấy cũng là cách xây dựng tình bạn.

Huy động xã hội

Phụ nữ có vai trò gì trong quá trình chuyển hóa và trong chính quyền của ông?

Cuộc đấu tranh vì dân chủ của phụ nữ là rất quan trọng. Họ rất can đảm. Có những tổ chức như Phụ nữ vì cuộc sống (Mujeres por la Vida) và Vợ của những tù nhân mất tích (Mujeres de Detenidos Desaparecidos), những tổ chức này huy động không mệt mỏi những người đang tìm kiếm người thân của mình, lập báo cáo về các vụ vi phạm nhân quyền, đòi hỏi tự do và công lí. Ngoài ra, phụ nữ còn tổ chức trong cộng đồng địa phương, đang tìm kiếm các hình thức đoàn kết nhằm đối phó với cuộc khủng hoảng kinh tế. Các ollas comunes (nhà ăn công cộng, cung cấp thức ăn cho những người thất nghiệp) gia tăng nhanh chóng. Đồng thời, cũng chính phụ nữ tự đặt ra những vấn đề mà họ quan tâm, ví dụ, bạo lực gia đình và bất bình đẳng tại nơi làm việc và trong pháp luật dân sự. Trong chính quyền của tôi, trong khi chúng tôi không có nhiều đại diện của phụ nữ trong lĩnh vực chính trị, chúng tôi đã lập ra cơ quan gọi là Chăm sóc phụ nữ toàn quốc (Servicio Nacional de la Mujer), giám đốc cơ quan này tương đương bộ trưởng. Từ đó, đã có nhiều thay đổi trong luật dân sự và hình sự và vấn đề bạo lực gia đình đã được giải quyết. Nền tảng đã được thiết lập, do đó các chính quyền tiếp theo có thể hiện đại hóa một cách đáng kể luật gia đình và tạo ra tiến bộ trong việc loại bỏ những hình thức phân biệt giới tính.

Giúp đỡ quốc tế

Chile là trường hợp rất thú vị và quan trọng trong việc phân tích vai trò của quốc tế trong quá trình chuyển hóa. Ông có thể nói về việc này?

Chile nhận được sự giúp đỡ quốc tế đáng kể. Rất quan trọng đối với chúng tôi. Thật vậy, chúng tôi tuyên thệ nhậm chức với sự hiện của các vị tổng thống từ Mỹ Latin, châu Âu, và những nhân vật quan trọng của Mỹ. Chúng tôi đề nghị liên kết Chile với cộng đồng quốc tế, chứ không chỉ mở cửa về mặt kinh tế, vì về mặt chính trị, trong giai đoạn độc tài, chúng tôi hoàn toàn cô lập. Tinh thần đoàn kết với chúng tôi là khá cao. Đó là sự ủng hộ tuyệt vời đối với chính phủ vừa xuất hiện trong tình hình khó khăn.

Ông nghiên cứu sâu đến mức nào những cuộc chuyển hóa trước đó để có thể tìm ra con đường đưa cuộc chuyển hóa của Chile tới thành công? Ví dụ, Brazil có quá trình chuyển hóa chậm, do quân đội tiến hành từ bên trên. Ở Argentina, quân đội đã mất uy tín và vì vậy có thể loại bỏ một cách dễ dàng hơn, lạm phát tăng vọt; nền kinh tế sụt giảm; và tổng thống Raúl Alfonsín, vị tổng thống dân chủ đầu tiên, đã phải từ chức. Những kinh nghiệm của các nước Mỹ Latin khác có vai trò quan trọng đối với phân tích của ông hay không?

Vì Chile là nước cuối cùng trong khu vực quay trở lại với chế độ dân chủ, cho nên chúng tôi có thể học hỏi kinh nghiệm của những nước khác. Argentina với Alfonsín, kết thúc không có hậu, cho thấy những khó khăn mà chúng tôi có thể gặp. Dân chủ thường đi kèm với nhiều kì vọng và cần phải kiểm soát chặt chẽ để đảm bảo rằng mọi thứ không vượt ra ngoài tầm tay. Ngoài ra, chúng tôi đặc biệt quan tâm đến việc tăng cường quan hệ với các chính phủ Mỹ Latin, nhất là với Argentina. Chúng tôi đạt được tiến bộ trong việc giải quyết hầu như tất cả các vấn đề biên giới của chúng tôi với tổng thống Carlos Menem. Chúng tôi đã kí các hiệp ước thương mại tự do đầu tiên với Mexico.

Một trong những quyết định mà chúng tôi đưa ra, đặc biệt là khi nhìn vào trường hợp Argentina, là tiến hành cải cách xã hội, nhưng chúng tôi làm việc đó bằng cách tìm thỏa thuận với công đoàn nhằm điều hướng những đòi hỏi của xã hội và còn bằng cách giúp đỡ người lao động và chủ doanh nghiệp đi đến thỏa thuận. Về khía cạnh này, chúng tôi chịu ơn các nhà lãnh đạo công đoàn, như Manuel Bustos, những người hiểu rõ tính chất phức tạp của quá trình chuyển hóa sang dân chủ.

Những nguyên tắc cơ bản

Làm sao ông có thể tập trung và giữ được cân bằng khi đối mặt với rất nhiều thách thức phức tạp và khó khăn và với rất nhiều người và nhiều nhóm với quan điểm khác như thế?

Đó là một câu hỏi hay. Tôi là người tự cam kết với những điều mà tôi tin tưởng, tôi sẵn sàng chấp nhận hiểm nguy, nhưng tôi có một kiểu cơ chế co giãn, nó nói với tôi: “Cẩn thận, đừng để cho lòng nhiệt tình và hăng hái của mình trở thành động cơ duy nhất lôi kéo đi”. Có nghĩa là trong suốt cuộc đời hoạt động chính trị của mình, tôi luôn luôn làm việc hòa đồng trong các nhóm, và tôi đã xây dựng được những mối quan hệ tốt với mọi người. Ví dụ như quan hệ của tôi với Edgardo Boeninger. Ông là một học giả, hiệu trưởng trường Universidad de Chile. Trước đó ông không tham gia chính trị, nhưng sau đảo chính, ông trở thành đảng viên đảng Dân chủ Cơ đốc. Chúng tôi cùng nhau làm việc rất hiệu quả.

Tôi nghĩ rằng khả năng ngủ ngon và giữ khoảng cách với các sự kiện cũng giúp tôi khá nhiều. Tôi cũng cố gắng giành thời gian để đọc sách và có một cuộc sống bình thường. Tôi thích tự lái xe riêng của mình. Tôi nhớ, một lần, trong khi đã là tổng thống, tôi đang lái xe, các vệ sĩ ngồi phía sau tôi, và bất thình lình bị cảnh sát ra hiệu dừng. Cảnh sát mở đường cho Pinochet. Ông ta được một đơn vị an ninh đông hơn hẳn hộ tống!

Những cuộc chuyển hóa hiện nay

Một lời khuyên chung mà ông có thể đưa ra cho các nhà lãnh đạo chính trị của thế giới Ả Rập hay những nơi khác, tức là những người muốn giúp đất nước họ tiến hành quá trình chuyển hóa từ độc tài sang chính thể dân chủ, là gì?

Tôi không dám nói ngay tại trận như thế này. Thật khó biết rõ phải làm gì ngay trong đất nước của mình, khuyên những người khác ở những đất nước xa xôi chắc là khó khăn không kém. Nhưng, có lẽ, sau những giai đoạn có nhiều chia rẽ, đề xuất chung nhất là tập trung nhiều thời gian và sức lực để tìm kiếm những cái góp phần đoàn kết hơn là tìm kiếm những cái gây chia rẽ. Bằng cách đó, chúng ta có thể đạt được thỏa thuận. Nhiều người trong chúng tôi đã ở những phía đối nghịch nhau, ví dụ, bộ trưởng Bitar (từng tham gia chính phủ Allende, đã bị bắt và bị lưu đày) và các chính trị gia chống Allende. Nhưng, chúng tôi đạt được thỏa thuận về việc bảo vệ những thứ quan trọng nhất: Cuộc đấu tranh vì tự do và phẩm giá cá nhân. Chúng tôi cũng đã đạt được đồng thuận với rất nhiều người đã thuộc phe đảng của Pinochet. Tìm kiếm sự đoàn kết, sau giai đoạn mà những cái chia rẽ chúng tôi hiện ra rõ ràng hơn hẳn những cái có thể đoàn kết chúng tôi, là công việc khó khăn. Trong ý nghĩa đó, các chính quyền của Concertación, bắt đầu với chính phủ của tôi, nâng sự hội tụ giữa chính phủ và phe đối lập, và giữa các phe phái chính trị khác nhau lên một tầm cao hơn so với những thập niên trước.

Một khía cạnh khác cần nhấn mạnh là không được bắt đầu từ số không. Tiến hành thay đổi trên cơ sở những cái đã có sẽ dễ dàng hơn. Đó là ý tưởng khi chúng tôi đề nghị đánh bại Pinochet ngay trong khuôn khổ bản hiến pháp của ông ta, chứ không phải là bắt đầu bằng cách nói: “Chúng tôi sẽ sửa lại hiến pháp”. Chúng tôi đã thay đổi luật chơi ngay từ bên trong. Chúng tôi rất thực tế trong việc hoạch định chính sách; chúng tôi có những giấc mơ to lớn – tái lập chế độ dân chủ, đoàn kết tất cả người Chile lại với nhau – nhưng hành động của chúng tôi rất thực tế. Trong ý nghĩa này, tôi nghĩ chúng tôi đã làm những việc chúng tôi phải làm lúc đó. Và đấy là điều thú vị, vì mặc dù chúng tôi đã nói: “Công lí cao nhất trong khả năng”, ít cuộc chuyển hóa đạt được mức độ công lí như chúng tôi giành được trong những năm qua ở Chile: Làm cái có thể thay đổi cùng với thời gian chứ không phải làm tất cả mọi thứ cùng trong một lúc.

Tiểu sử Ricardo Lagos, Tổng thống Chile giai đoạn 2000 – 2006

Ricardo Lagos là lãnh đạo của Liên đoàn sinh viên ở trường luật thuộc University of Chile trong những năm 1960. Ngoài luật, Lagos còn học kinh tế học, ông xây dựng sự nghiệp của mình trong giới hàn lâm và các tổ chức quốc tế, bắt đầu tham gia chính trị trong đảng Cấp tiến, sau đó là đảng Xã hội. Allende cử ông làm đại sứ ở Liên Xô, nhưng ông chưa kịp giữ chức vụ thì xảy ra đảo chính năm 1973. Trong những năm sau đảo chính, thời gian đầu ông sống ở Mỹ, sau đó trở về Chile để làm việc cho Liên Hiệp Quốc, Lagos trở thành nhân vật đối lập được tôn trọng vì những bài phân tích sắc bén của mình. Ông là đại diện của đảng Xã trong tổ chức đa đảng tên là Hòa giải Dân tộc (National Accord) và đã bị bắt giam trong một thời gian ngắn sau vụ mưu sát Pinochet vào năm 1986. Ông giành được uy tín vì luôn luôn sẵn sàng thách thức trực tiếp Pinochet, đặc biệt là trong lần xuất hiện đáng ghi nhớ trên truyền hình, như người phát ngôn về những bất mãn của đất nước, từng bị đàn áp trong một thời gian dài.

Lagos lãnh đạo việc thành lập Đảng vì Dân Chủ. Đảng này đã giúp xây dựng sự hợp tác giữa phái tả ôn hòa và đảng Dân chủ Cơ đốc và đóng một vai trò quan trọng trong Liên minh Nói Không, đánh bại Pinochet trong cuộc trưng cầu dân ý năm 1988 và trong liên minh Concertación por la Memocracia, được thành lập sau đó. Ông từ chối làm ứng viên tổng thống trong cuộc bầu cử năm 1989 vì tin rằng Concertación còn quá yếu, không được để xảy ra nguy cơ cử tri bị chia rẽ và đất nước chưa sẵn sàng chấp nhận ứng cử viên cánh tả; năm đó, ông ứng cử vào thượng viện, nhưng thất bại. Lagos từng là Bộ trưởng giáo dục và sau đó là Bộ trưởng công trình công cộng trong hai chính phủ Concertación đầu tiên. Ông được bầu làm tổng thống vào năm 2000 và giữ chức cho đến năm 2006. Chính quyền của ông đã cải tạo cơ sở hạ tầng của Chile, tiến hành những cải cách hiến pháp quan trọng, làm giảm những tính chất phản dân chủ của hiến pháp năm 1980 và thành lập Ủy ban về tù chính trị và tra tấn, thúc đẩy thêm công lí trong giai đoạn chuyển hóa.

Phỏng vấn tổng thống Ricardo Lagos

Xây dựng niềm tin trong phe đối lập

Trong công cuộc chuyển hóa của Chile có bốn vấn đề có quan hệ mật thiết với những cuộc chuyển hóa hiện nay: thứ nhất, sự hội tụ của các lực lượng xã hội và chính trị làm cho việc kết liễu chế độ độc tài và xây dựng các liên minh lâu dài nhất với những nước dân chủ phương Tây trở thành khả thi; thứ hai, đàm phán nhằm thuyết phục quân đội quay trở về doanh trại và trả lời về những vi phạm nhân quyền của họ; thứ ba, quá trình cải cách hiến pháp từng phần và từng bước một; và thứ tư, kinh tế phát triển đi kèm với bình đẳng, tăng trưởng với tốc độ cao, đi kèm với xóa đói giảm nghèo. Trong bối cảnh như thế, làm sao những lực lượng từ những cực đối nghịch nhau, thù địch nhau, nhưng cùng chống chế độ Pinochet, tìm cách đến được với nhau, cùng hợp tác và cùng nhau đánh bại và loại bỏ được tướng Pinochet?

Trước hết phải giải thích làm sao ở đất nước bị phân cực như Chile vào năm 1973, mà cuối cùng, các lực lượng chính trị và xã hội đã đến được với nhau trong tinh thần hiểu biết sâu rộng. Vụ sụp đổ chế độ dân chủ ở Chile làm cho người Chile hiểu ra rằng khi chế độ độc tài vẫn còn thì những vấn đề chia rẽ chúng tôi trong quá khứ không còn quan trọng như trước nữa..

Tôi có thể chứng minh điều này bằng cách nói về trải nghiệm cá nhân mình. Năm 1975, khi tôi đang giảng dạy ở Chapel Hill, bang Bắc Carolina, Mỹ, tôi được cựu tổng thống thuộc đảng Dân chủ Cơ đốc, Eduardo Frei Montalva, tới thăm. Ngày hôm đó, tôi nói với Giáo sư, Federico Gil, “ngày mai tôi sẽ bị ốm, tôi không thể giảng được”. Tôi không thích nói chuyện với Frei Montalva. Chuyện đó xảy ra một năm rưỡi sau vụ đảo chính, đấy là năm 1975.

Khi tôi trở về Chile tháng 4 năm 1978, nhiều thứ đã thay đổi, và thái độ của tôi với đảng Dân chủ Cơ Đốc và cựu tổng thống Frei Montalva cũng đã khác. Hoạt động đầu tiên của tôi là cùng với Enzo Faletto, một xã hội học lỗi lạc và đảng viên Đảng Xã hội, tham gia cuộc biểu tình Ngày Lao động 1 tháng 5. Tưởng là Faletto biết địa điểm biểu tình, nhưng khi đến nơi, chúng tôi gặp một nhóm người – chắc chắn là cảnh sát của Pinochet. Chúng tôi không nhìn thấy người biểu tình trên đường phố. Đêm đó chúng tôi thấy trên TV những cuộc biểu tình được tổ chức ở những địa điểm khác. Ngay cả Faletto, người nắm được rất nhiều tin tức, cũng không biết địa điểm biểu tình, vì nếu nhiều người biết thì Pinochet cũng biết và sẽ đàn áp. Trong tình hình vô vọng như vậy, chúng tôi nhận ra rằng tốt nhất là cùng với đảng Dân chủ Cơ đốc thảo luận về những việc có thể làm.

Xin nói thẳng. Để đối thoại, như cuộc đối thoại mà người ta định tổ chức vào năm 1973 giữa đảng Dân chủ Cơ Đốc và Allende, thu được thành công, thì người ta phải hiểu rõ hậu quả của thất bại – chứ không chỉ những thuận lợi của thành công. Đảng Dân chủ Cơ đốc tham gia đối thoại với Allende với suy nghĩ rằng sáu tháng sau, nếu xảy ra đảo chính thì họ sẽ trở lại nắm quyền. Chúng tôi tiến hành đối thoại với suy nghĩ rằng, nếu thất bại thì chế độ độc tài sẽ tồn tại trong một thời gian dài, cùng với tất cả những hậu quả của nó. Vì vậy, tất cả những việc đã làm là chưa đủ để có thể đạt được thỏa thuận. Đấy là nhận thức của tôi về cách thức xảy ra các sự kiện năm 1973, chính nó đã giúp những người muốn tiến hành đảo chính quân sự.

Đảng Dân chủ Cơ đốc chỉ bắt đầu xem xét lại cách tiếp cận sau khi họ nhận ra rằng chế độ độc tài sẽ kéo dài – rằng chế độ này có “mục tiêu là không có khung thời gian cố định”, như Pinochet từng nói – và đảng Dân chủ Cơ đốc không có chỗ.

Khi tôi trở về Chile năm 1978, Tomas Reyes – cựu thượng nghị sĩ, một nhân vật có địa vị cao trong Đảng Dân chủ Cơ đốc và là người chịu trách nhiệm phối hợp với cánh tả – mời tôi ăn tối ngay sau khi tôi trở về và chúng tôi bắt đầu thường xuyên gặp nhau.

Năm 1981, tôi viết bài báo nhan đề Giá phải trả của tư tưởng chính thống (“El Precio de la Ortodoxia” ), phân tích giá mà Chile phải trả cho cuộc khủng hoảng năm 1929. Trong khi nghiên cứu cuộc khủng hoảng này, trên thực tế, tôi chỉ trích mạnh mẽ cách xử lí cuộc khủng hoảng giai đoạn 1981-1982 của chính phủ Pinochet. Tôi lấy làm ngạc nhiên khi nhận được điện thoại của cựu tổng thống Frei, ông gọi tới để chúc mừng bài viết của tôi; chúng tôi thỏa thuận sẽ gặp nhau nói chuyện, sau khi ông phẫu thuật xong. Sáu năm trôi qua, kể từ ngày tôi không chịu gặp ông. Thật đáng tiếc, chúng tôi không bao giờ gặp nhau, vì ông chết. Tôi luôn luôn lấy làm tiếc là đã không tới gặp ông khi ở Chapel Hill.

Trải nghiệm lưu vong

Điều đó cho thấy phải mất bao nhiêu năm mới tạo được lòng tin giữa các cá nhân và sự hội tụ về chính trị. Có những yếu tố quan trọng nào khác giải thích những biện pháp mà các ông đã sử dụng để xây dựng sự hợp tác sau giai đoạn phân cực?

Một yếu tố khác tạo điều kiện thuận lợi cho việc hình thành các liên minh của chúng tôi là nhiều đảng viên Đảng Xã hội, những người đã từng sống lưu vong sau Bức Màn Sắt nhận ra rằng, hệ thống xã hội ở đó không phải là dân chủ như chúng tôi từng tưởng tượng. Ở Đông Đức, chỉ có những người đứng đầu chính phủ mới được quyền xuất nhập cảnh mà thôi. Những người khác, trong đó có cả người Chile lưu vong, phải xin phép, cấp hay không là do các ông trùm chính trị. Ở Chile, chúng tôi không quen với hiện tượng đó.

Đối với những người ở Chile trong giai đoạn đó, như nhà kinh tế học người Chile, Anibal Pinto, có lần nói với tôi, chỉ có chỗ hai quan điểm chính trị: những người ôn hòa, tức là những người đòi phải tôn trọng habeas corpus (tức quyền không bị giam giữ trái pháp luật và không bị giam giữ trong thời gian dài khi chưa có kết tội chính thức – ND) và những phần tử cực đoan, tức là những người đòi bầu cử tự do. Khi sống trong chế độ độc tài, người ta sẽ hài lòng nếu có habeas corpus. Đó là lí do vì sao tôi luôn luôn nói: “Dân chủ giống như không khí chúng ta đang thở, và người ta cảm thấy hạnh phúc vì có dân chủ”. Vâng, khi tôi chào đời, chúng tôi thở không khí trong sạch ở Chile. Dân chủ cũng vậy: khi bạn có nó, bạn coi nó là đương nhiên. Vì vậy, giai đoạn Pinochet cầm quyền làm cho nhiều đảng viên Đảng Xã hội đánh giá lại chế độ dân chủ, đấy là do hoặc là họ phải sống lưu vong hoặc là do họ sống dưới chế độ áp bức ở Chile.

Những hoàn cảnh như thế cũng làm dấy lên cuộc thảo luận về “chủ nghĩa xã hội tồn tại trên thực tế”, trong những biểu hiện khác nhau của nó. Năm 1978-1979 là giai đoạn khởi đầu của cuộc thảo luận nội bộ về quá trình đổi mới phong trào xã hội chủ nghĩa. Năm 1980, một loạt các cuộc họp được tổ chức, trước đây chưa từng có những cuộc họp như thế. Trong vòng tám hoặc mười tháng, chúng tôi thường xuyên gặp nhau từ ba giờ chiều cho đến chín giờ đêm, ban đầu là ở một nhà tu của nhóm tôn giáo có tên là Schoenstatt, để thảo luận về đổi mới chủ nghĩa xã hội. Có 10 hay 12 người, từ các đảng lúc đó, tức là từ đảng Xã hội/Almeyda, Đảng Xã hội đổi mới, Cơ đốc cánh tả, những nhóm khác nhau của MAPU (Phong trào hành động thống nhất nhân dân)… Biên bản chi tiết được German Correa ghi [lúc đó là đảng viên Đảng Xã hội của Almeyda, sau này trở thành chủ tịch Đảng Xã hội và Bộ trưởng Bộ Giao thông Vận tải trong chính quyền của Aylwin và Bộ trưởng Nội vụ trong chính quyền của Frei Ruiz-Tagle], và được phát cho mọi người trong cuộc họp sau, và chúng tôi thông qua. Tài liệu đã được thu thập lại vào giữa năm 1980, mà chúng tôi gọi là sự hội tụ của chủ nghĩa xã hội.

Trong những cuộc gặp bí mật đó, đôi khi có những đề tài thú vị được đưa ra thảo luận, ví dụ, nếu giành được quyền lực, chúng tôi sẽ làm gì với các ngân hàng, chúng tôi sẽ quốc hữu hóa hay sẽ chấp nhận các ngân hàng tư nhân, và chúng tôi thường tranh luận về những vấn đề như thế.

Sự khác biệt trong nội bộ phe đối lập

Ông có thể giải thích sự khác biệt dai dẳng giữa các nhóm khác nhau trong đảng Xã hội, cần phải khắc phục để có thể xây dựng một liên minh rộng lớn hơn?

Khi tôi trở về Chile, tháng 5 năm 1978, tôi đang làm việc cho Liên Hiệp Quốc. Nhưng hoạt động chính trị bị cấm đoán và rút vào bí mật, tôi không vi phạm bất kì luật lệ nào của Liên hiệp Quốc khi tham gia vào nền chính trị quốc nội, vì không ai có thể biết rằng tôi tham gia hoạt động chính trị sau khi ngày làm việc của tôi đã hết. Và, vì vậy tôi tham gia trong giai đoạn, khi Đảng Xã hội bị chia rẽ. Có những đảng viên Đảng Xã hội phe Altamirano và những đảng viên Xã hội thuộc phe Almeyda, phụ thuộc vào việc ai là người lãnh đạo họ; cả hai ông này lúc đó đều sống ở nước ngoài. Phe Xã hội theo Altamirano được cải cách một cách nhanh chóng, và còn phe Almeyda tiếp tục liên minh với Đảng Cộng sản (PC). Khi vụ phân liệt diễn ra, tôi nằm trong nhóm VECTOR, một nhóm nghiên cứu nhỏ (think tank), do chúng tôi lập ra để suy ngẫm về phái tả, vì lúc đó còn có một nhóm nghiên cứu nữa, do Alejandro Foxley lãnh đạo [một nhà kinh tế học, sau này từng là Bộ trưởng Tài chính từ năm 1990 đến 1994, dưới thời Aylwin], gọi là CIEPLAN, liên kết với với Đảng Dân chủ Cơ đốc. Chúng tôi có một văn phòng nhỏ, Enzo Faletto, Eduardo Trabuco, Eduardo Ortiz, Rodrigo Alvayay, và Heraldo Munoz [những nhà khoa bảng theo phe xã hội] thường ghé qua. Một hôm German Correa đến nói rằng Đảng Xã hội sắp tổ chức đại hội và tham khảo quan điểm của chúng tôi. Chúng tôi thông báo cho ông biết tình hình và chúng tôi cho rằng thông tin đã đi đến nơi mà nó cần phải đến. Ba tháng sau, Correa quay trở lại để nói cho chúng tôi biết rằng đại hội đã dẫn đến sự phân liệt trong đảng. Vì vậy, tôi đề nghị ông giải thích hậu quả của vụ phân liệt và tôi hỏi nếu chia rẽ thì sẽ đấu tranh với Pinochet như thế nào. Ông hỏi tôi xem tôi có chấp nhận những chỉ thị của Almeyda hay không, tôi trả lời khi họ còn chia rẽ thì tôi sẽ không chấp nhận. Nhóm của tôi trong VECTOR chia sẻ quan điểm đó.

Mấy tháng sau đó, khi tôi đi Mexico, vì công việc của tôi ở Liên hiệp Quốc, việc đầu tiên tôi phải làm là gọi điện cho Hortensia Bussi, vợ góa của Allende, bà mời tôi dùng cơm trưa ở nhà mình với một nhóm khá đông người Chile. Bà giới thiệu tôi với mọi người và đề nghị tôi nói về những sự kiện gần đây nhất. Sau đó bà hỏi tôi nghĩ gì về sự phân liệt trong Đảng Xã hội. Tôi giải thích cho bà nghe những điều mà đại diện phe Xã hội của Almeyda đã nói với tôi, và nhận xét rằng trong nhóm VECTOR, chúng tôi không chấp nhận sự chia rẽ và sẽ không đứng về bên nào. Vì thế, bà trả lời rằng tôi giống như Thụy Sĩ: “trung lập”. Tôi đã không nghĩ về sự kiện này theo cách ấy, tôi chỉ nói rằng chúng ta không thể chia rẽ. Từ đó trở đi, chúng tôi [những người không công nhận những nhà lãnh đạo của các phe phái] được gọi là “Thụy Sĩ”.

Trong một thời gian dài, những người được gọi là “Thụy Sĩ” là một trong số rất nhiều nhóm trong đảng Xã hội, lúc đó đã chia thành nhiều phe phái khác nhau. Sau đó Ủy ban Chính trị vì sự Thống nhất (Comite Politico de Unidad, hay CPU) được thành lập, ủy ban này nhất trí xây dựng lại Đảng Xã hội duy nhất với sáu phe phái: phe của Nunez (gọi là renovados), phe của Almeyda, phe của những người theo Raul Ampuero, phe của những người theo cơ quan điều phối của các nhóm khu vực, một phe nữa, và chúng tôi (Thụy Sĩ). Tôi là thành viên CPU; mọi người nhất trí rằng, sẽ lập ra Ủy ban Trung ương, mỗi phe sẽ cử ra 10 thành viên tham gia. Tôi thông báo với nhóm Thụy Sĩ rằng chúng tôi cần giải quyết một vấn đề: chúng tôi chỉ có bảy người. Cuối cùng, sáu người trong nhóm chúng tôi tham gia Ủy ban Trung ương; Enzo Faletto, nhà lãnh đạo về mặt tinh thần của chúng tôi, nói rằng nếu có Ủy ban Trung ương, thì có nghĩa là “cơ quan đó nắm giữ quyền lực, và để tôn trọng tổ tiên vô chính phủ của tôi, tôi sẽ không nhận địa vị có quyền lực”. Vì vậy, 6 người trong chúng tôi đại diện cho phái Thụy Sĩ trong Ủy ban Trung ương với 36 thành viên, mỗi phái 6 người.

Trong những năm 1982-1983, bắt đầu diễn ra hai quá trình: sự hội tụ của phái Xã hội [liên kết của hai nhóm trong MAPU và Izquierda Cristiana (Cơ đốc Tả khuynh)] và sáng kiến của đảng Dân chủ Cơ đốc, do Gabriel Valdes, sau khi Frei Montalva từ trần. Valdes bắt đầu tiếp xúc với các nhóm cánh hữu, đầu tiên là Hugo Zepeda và Armando Jaramillo, Luis Bossay và sau đó là Enrique Silva thuộc Đảng Cấp tiến – rồi sau đó ông mới mời những người thuộc Đảng Xã hội.

Xây dựng liên minh

Nhiều nhóm chính trị khác nhau đã tìm cách kết liễu chế độ độc tài. Làm sao ông tập hợp được tất cả các nhóm và gắn kết được họ xung quanh một cương lĩnh chung?

Ngày 15 tháng 8 năm 1983, Liên minh Dân chủ (Alianza Democratica) được thành lập ở Circulo Espanol với bài diễn văn của Gabriel Valdes. [Liên minh Dân chủ – lúc đầu được Đảng Dân chủ Cơ đốc, Đảng Cấp tiến, một số người thuộc Đảng Xã hội, MAPU, Thiên chúa giáo cánh tả và một số người thuộc phái hữu lập ra – với mục đích là đại diện cho tất cả các đảng phái và các cá nhân không tham gia đảng phái nào, đối lập với Pinochet, nhưng bác bỏ đấu tranh vũ trang]. Ủy ban chính trị vì sự thống nhất của Đảng Xã hội của chúng tôi cử những người thuộc phái Almeyda (Julio Stuardo và Aquin Soto) và phái Nunez (Hernan Vodanovic) làm đại diện trong Liên minh Dân chủ. Việc cử người tham gia Liên minh làm bùng lên cuộc tranh luận trong phái Almeyda. Những người sống bên ngoài Chile bác bỏ, không tham gia Liên minh Dân chủ, vì họ cho rằng đấy là nhóm người sẵn sàng đàm phán với Pinochet, trong khi họ tin rằng con đường đúng đắn là tiếp tục đấu tranh và thỏa thuận với đảng Cộng sản (PC). Đảng Cộng sản không được mời tham gia Liên minh Dân chủ vì họ ủng hộ sử dụng bạo lực. Cuối cùng, phái Almeyda quyết định không tham gia, nhưng Julio Stuardo và Aquin Soto, thành viên của nhóm đó, quyết định ở lại và là thành viên của CPU, trong khi những người khác không tham gia Ủy ban này.

Liên minh Dân chủ đưa ra những quyết định đầu tiên ngay trong những ngày đó; chủ tịch do đại diện các đảng thay phiên nhau nắm, mỗi tháng xoay vòng một lần. Đầu tiên, tháng 10 là Gabriel Valdes; tháng 11 là Enrique Silva thuộc Đảng Cấp tiến; tháng 12 đến lượt Đảng Xã hội. Aquin Soto và Julio Stuardo, thuộc phái Almeyda, hỏi tôi có muốn đại diện cho Đảng Xã hội làm chủ tịch Liên minh hay không. Tôi nói với họ là không, vì tôi tham gia một cách bí mật, lúc đó tôi đang làm việc cho Liên Hiệp Quốc. Sau đó tôi được hai đảng viên Xã hội, đại diện cho phái renovados (đổi mới), là Julio Stuardo và Hernan Vodanovic, tới thăm; họ nhắc lại là tôi nên giữ chức chủ tịch Liên minh. Thế là tôi phải đưa ra một quyết định đầy khó khăn. Tôi nói với vợ con là tôi sẽ không làm cho Liên Hiệp Quốc nữa, và tháng 12 năm đó tôi trở thành chủ tịch của Liên minh.

Ngày 4 tháng 9 năm 1983 (có tính tượng trưng, Salvador Allende và tất cả các vị tổng thống Chile tiền nhiệm đều được bầu vào ngày đó), cả nước đã được thông báo về sự hợp nhất của tất cả các đảng viên Xã hội với Ủy ban trung ương gồm 36 thành viên. Việc Đảng Xã hội “đổi mới” được nhiều người quan tâm là bất ngờ lớn đối với tôi. Tôi trả lời nhiều cuộc phỏng vấn, cả báo lẫn tạp chí và tôi bắt đầu nhận ra rằng nền chính trị sáng tạo có thể là kết quả của hành động tập thể, vì những ý tưởng mà tôi thể hiện chính là những ý tưởng đã được thảo luận trong những cuộc họp trước đó. Rõ ràng là Đảng Xã hội đang thay đổi. Còn có ảnh hướng của các Đảng Xã hội ở vùng Địa Trung Hải nữa. Felipe Gonzalez (thủ tướng Tây Ban Nha trong 4 nhiệm kỳ: từ năm 1982 đến 1996 – ND) đã cầm quyền từ năm 1982, Mitterrand cũng đã giành được chiến thắng trong cuộc bầu cử ở Pháp.

Ủng hộ quốc tế

Giai đoạn dài trước khi chế độ độc tài sụp đổ cho ông thời gian để suy nghĩ lại, trong khi phải sống lưu vong, về những sự kiện đã xảy ra ở Chile và học hỏi từ kinh nghiệm của những nước khác. Các Đảng Dân chủ Xã hội châu Âu nhìn nhận liên minh mới và chiến lược của nó – lại còn được đảng Dân chủ Cơ đốc ủng hộ – như thế nào?

Tôi nhớ, khi Mitterrand nhậm chức tổng thống Pháp, tháng 5 năm 1981, ông vào Điện Pantheon với bà quả phụ Allende; bà đi bên phải ông. Tôi xin nhấn mạnh ảnh hưởng của Allende và cuộc đảo chính chống lại ông đối với cánh tả châu Âu. Nếu nói chuyện với Olaf Palme [Thụy Điển], Gerhard Schroeder [Đức], hay Tony Blair [Vương quốc Anh], họ sẽ cho bạn biết rằng họ tham gia chính trị là do những trải nghiệm của vụ đảo chính chống lại Allende. Tất cả người châu Âu mà ta gặp đều nói với bạn rằng họ thường xuống đường biểu tình ủng hộ Chile. Tôi còn nhớ, khi ở Chantilly và Bordeaux, tham gia hai cuộc họp với những đảng viên Xã hội ở nước ngoài, nơi có người Chile sống lưu vong, người ta tôn trọng, lắng nghe chúng tôi vì chúng tôi là người đang sống ở Chile. Ở đấy người ta có thể gặp những người sống ở Thụy Điển, ở Milan, ở Paris. Người ta thấy ảnh hưởng của môi trường xung quanh, những người đàn ông và đàn bà Phục hưng đến thẳng từ Italy, và những người đến từ Thụy Điển với cách tư duy của vùng Scandinavia – thật không thể tin nổi. Chưa ai viết về ảnh hưởng của cuộc sống lưu vong đối với văn hóa chính trị. Tiến trình mà các lực lượng dân chủ Chile trải qua để đạt được sự thông cảm dựa trên khung cảnh là các tư tưởng đang thay đổi, có xuất xứ từ những nguồn khác nhau.

Tôi nhớ chuyến thăm Argentina, nhân dịp lễ nhậm chức của tổng thống Alfonsín, tháng 12 năm 1983. Tôi tham dự với tư cách chủ tịch Liên minh Dân chủ vì, như tôi giải thích bên trên, tháng đó, Đảng Xã hội giữ chức chủ tịch. Valdes, Silva Cimma và Armando Jaramillo cùng đi với tôi. Chúng tôi gặp Felipe Gonzalez, thủ tướng Tây Ban Nha; Pierre Mauroy, thủ tướng Pháp; Bettino Craxi, chủ tịch hội đồng bộ trưởng Italy. Chúng tôi trình bày với họ cương lĩnh của mình: Chính phủ lâm thời, Pinochet ra đi, Hội đồng Lập hiến, hiến pháp mới và tổ chức bầu cử. Chúng tôi giải thích cương lĩnh cho Felipe Gonzalez nghe, ông nói với chúng tôi: “Đây không phải là chương trình. Với kế hoạch như thế này, các ông sẽ còn tiếp tục ở trong giới hàn lâm trong một thời gian dài nữa. Làm sao ông có thể nói chính phủ lâm thời? Pinochet sẽ ra đi ư? Và làm sao các vị có thể chỉ định chính phủ lâm thời? Giả sử các ông thành công, Pinochet nộp đơn xin từ chức, và các ông chẳng còn gì để nói. Trước khi các ông có thể làm bất kì khoản nào trong chương trình này, các ông phải ra khỏi đáy giếng đã”. Cuộc họp đó thực sự có ảnh hưởng lớn; rất sáng suốt và cực kì hữu ích.

Sau đó chúng tôi gặp Pierre Mauroy, ông này nói với chúng tôi: “Tôi coi ông là đồng chí, đồng hành trong cuộc đấu tranh, nhưng tôi không thể làm nhiều hơn để giúp các ông bởi vì mối quan hệ là giữa chính phủ với chính phủ: quyền lợi của Pháp, quyền lợi của Chile..v.v.. Tôi hết lòng giúp ông, như một người đồng chí, nhưng là thủ tướng tôi chỉ có thể làm được rất ít”. Khi không còn là thủ tướng, Mauroy gọi điện cho tôi và nói: “Bây giờ ông có thể tin tôi; khi đến Chile tôi sẽ làm việc với ông”. Và ông đã làm như vậy trước và trong cuộc trưng cầu dân ý, đánh bại Pinochet. Chúng tôi đã học tập về hoạt động chính trị như thế đấy.

Chúng tôi còn gặp Craxi. Chúng tôi đọc diễn văn và ông nói: “Việc này rất dễ. Trước hết chúng ta cần kênh chuyển tải thông tin; sau đó, hiện chúng ta đang ở Argentina, ngày mai chúng ta sẽ đề nghị Alfonsín cho chúng ta một chỗ trong dãy Andes, bên phía Argentina. Tôi sẽ tài trợ cho một ăng-ten lớn và chúng ta sẽ phát sóng vào Chile”. Ngày hôm sau Craxi đi nói chuyện với Alfonsín, ông này tìm cách giải thích rằng khó lắp đặt ăng-ten, vì ông sắp ngừng chiến với Pinochet. Điều đó cho thấy ba não trạng rất khác nhau của ba nhà lãnh đạo chính trị.

Alfonsín là người cực kì quan trọng đối với chúng tôi. Chúng tôi đề nghị ông can thiệp với người Cuba để đảm bảo rằng bạn bè của họ ở Chile [Đảng Cộng sản] không làm những việc điên rồ, vì nếu họ cho nổ bom thì họ sẽ quét sạch chúng tôi. Và ông đã làm đúng như vậy. Ông là người đứng sau hậu trường, để giải thích cho ban lãnh đạo Cuba chiến lược nhằm đánh bại Pinochet của chúng tôi.

Kết luận, đã có cuộc tranh luận giữa những người nói về vận động xã hội và biểu tình và những người ủng hộ “tất cả các hình thức đấu tranh”, trong đó có bạo lực; chúng tôi bước vào năm 1986 trong bối cảnh như thế, chúng tôi cho rằng đấy sẽ là năm quyết định.

Đánh bại hệ thống độc tài ngay từ bên trong

Liên minh Dân chủ là bước tiến quan trọng, nhưng Pinochet và chế độ độc tài của ông ta vẫn còn khá mạnh. Làm sao các ông đưa ra được kế hoạch kết liễu chế độ độc tài? Đâu là vai trò của các tổ chức xã hội dân sự?

Chúng tôi nghĩ phải cố gắng đẩy được Pinochet ra khỏi quyền lực vào năm 1986. Nếu không, chúng tôi sẽ phải đối đầu với ông ta trong cuộc trưng cầu dân ý, dự định vào năm 1988, như được đề xuất trong hiến pháp năm 1980 của Pinochet. Cuộc trưng cầu dân ý sẽ được tổ chức để quyết định xem Pinochet có còn tiếp tục cai trị nữa hay không. Trong dự thảo hiến pháp năm 1980, Pinochet lập kế hoạch nắm quyền thêm 16 năm nữa, nhưng bộ trưởng nội vụ của ông ta, Sergio Fernandez, nói: “Ông không nghĩ rằng 16 năm là quá nhiều à? Tại sao chúng ta không tổ chức trưng cầu dân ý vào giữa giai đoạn đó? Và sau đó ông có thể tiếp tục làm thêm tám năm nữa. Ông sẽ là ứng cử viên của cuộc trưng cầu dân ý”. Và ai lẽ là người giới thiệu ông ta làm ứng cử viên? Hội đồng quân sự gồm bốn tư lệnh quân đội. “Đồng ý”, Pinochet nói, và do đó, người ta thỏa thuận rằng tám năm sau hội đồng sẽ cử Pinochet làm ứng cử viên.

Năm 1978, Aylwin giúp thành lập nhóm nghiên cứu hiến pháp, còn gọi là Nhóm 24, Manuel Sanhueza làm chủ tịch. Nhóm đó đã thảo ra được bản hiến pháp thay thế, trong khi Pinochet nói về việc soạn thảo hiến pháp mà ông áp đặt trong cuộc trưng cầu dân ý vào tháng 10 năm 1980. Năm 1984, tôi đã tranh luận công khai với Aylwin. Chúng tôi tham dự buổi hội thảo do Viện nghiên cứu nhân quyền Chile (Chileno de Estudios Humanisticos) tổ chức, đây là thiết chế của Đảng Dân chủ Cơ đốc, được quĩ Konrad Adenauer Foundation hỗ trợ. Aylwin nói rằng chúng tôi phải chấp nhận bản hiến pháp của Pinochet, để sau này thay đổi nó. Ông nói rằng bản hiến pháp đó là bất hợp pháp và rằng ông sẽ tiếp tục nói như vậy cho đến chết vì nguồn gốc của nó, và ông chấp nhận rằng có những người khẳng định rằng bản hiến pháp này là hợp pháp. Ông nói rằng Pinochet không thể bắt buộc ông nói rằng bản hiến pháp đó là hợp pháp, và rằng Pinochet có quyền nói rằng nó là hợp pháp. Khác biệt giữa Pinochet và ông là Pinochet có lực lượng quân sự. Aylwin không muốn thảo luận câu hỏi là bản hiến pháp này có hợp pháp hay không, bởi vì ông tuyên bố rằng chúng tôi sẽ không bao giờ thông cảm được với nhau trong cuộc thảo luận này. Ông nói, ông hiểu rằng khi cảnh sát đưa ra tờ biên lại phạt vì chạy xe quá tốc độ thì ông chấp hành chế độ bắt đầu với bản hiến pháp của Pinochet và kết thúc với quyền đưa ra tờ biên lai phạt vì chạy quá tốc độ. Bản hiến pháp của Pinochet là thực tế đang hiện hữu, buộc phải chấp hành; vì vậy, nếu đây là tình hình thực tế thì chúng ta có thể tìm cách thay đổi bản hiến pháp đó mà không cần quan tâm tới tính hợp pháp của nó.

Tôi rất không đồng ý với ông ta về vấn đề này. Ông nhấn mạnh và nói rằng ông chấp nhận bản hiến pháp của Pinochet, mặc dù ông phản đối nó vì nó là bất hợp pháp, nhưng ông tuân thủ nó, vì nó là trật tự do vũ lực mà ra; nó là sự kiện đang hiện hữu.

Huy động xã hội

Đã có một số nỗ lực nhằm kết liễu chế độ độc tài bằng những cuộc vận động xã hội và hành động chính trị. Nói về những cuộc vận động xã hội, những cuộc biểu tình đầu tiên ở Chile xảy ra vào tháng 5 năm 1983 và được tổ chức bởi liên đoàn thợ mỏ đồng và nhà lãnh đạo công đoàn mới nổi, Rodolfo Seguel. Chúng tôi thường gặp nhau trong tòa nhà Carlos V ở trung tâm thành phố Santiago, Đảng Dân chủ Cơ đốc có văn phòng trong một công ti luật trong tòa nhà này. Chúng tôi nói với công nhân rằng họ có thể đình công, nhưng chúng tôi tin rằng ngoài họ ra, không có người nào ở Chile tham gia đình công. Ban lãnh đạo Liên minh Dân chủ chúng tôi, cùng với các nhà lãnh đạo thợ mỏ đồng, tin chắc rằng tổ chức những cuộc phản đối nhẹ nhàng hơn thì sẽ hiệu quả hơn. Lời kêu gọi biểu tình nói rằng vào ngày đã định, không nên đưa con đi học, công nhân cũng không nên ăn trưa ở nơi làm việc; nên làm việc, nhưng thật chậm thôi. Chúng tôi du nhập ý tưởng này từ Argentina, làm việc mà không để hết sức vào nó, nhưng vẫn đi làm và vẫn làm. Ở Argentina người ta gọi là “làm việc theo luật lệ”. Bạn có thể đi đến kiểm tra tiền mặt tại ngân hàng, Ví dụ, bạn mang ngân phiếu ra ngân hàng để rút tiền mặt, ngân phiếu của một tổ chức lớn mà bạn biết là có tiền, và nhân viên ngân hàng nói với bạn: “Để tôi kiểm tra xem có tiền không”, sau đó nói với bạn rằng họ nghi ngờ chữ kí. Họ thanh toán cho bạn sau khoảng 15 phút, và họ sẽ làm như thế với tất cả mọi người; đúng là điên.

Vì vậy, có người đề nghị là ban đêm chúng tôi có thể gõ nồi niêu xoong chảo. Trước đây, trong thời chính phủ Đòan kết Nhân dân, khi xảy ra thiếu hụt lương thực, thực phẩm, những người sống trong các khu vực giàu có, thiên hữu, đã làm như thế. Hôm đó, ngày 11 tháng 5 năm 1983, vào lúc tám giờ tối, từ các tòa nhà chung cư trong các khu trung lưu, ví dụ như các comuna La Reina, tiếng gõ nồi niêu, xoong chảo vang lên đinh tai nhức óc. Đó là một bất ngờ lớn, và tôi có cảm giác rằng chuyện gì đó đã xảy ra ở Chile. Pinochet đưa xe tăng ra đường phố và bỏ tù những nhà lãnh đạo kêu gọi biểu tình. Trong cuộc biểu tình sau đó, Gabriel Valdes đã in một số biểu ngữ động viên mọi người xuống đường; họ tìm được biểu ngữ và bắt ông cùng với những người khác.

Năm 1985, Hồng y Raul Silva Henriquez kính mến của của chúng tôi về hưu, và Vatican cử Hồng y Fresno làm người kế nhiệm ông. Hồng y Fresno nhận thấy sự phân cực quá lớn giữa chính phủ và phe đối lập, vì vậy ông đề nghị thành lập Hòa giải Dân tộc (National Accord) . Accord đưa cả những người đại diện cho cánh hữu và cánh tả của Liên minh Dân chủ tham gia. Luis Maira được mời tham gia; ông là thành viên Đảng Cánh tả Cơ đốc (Izquierda Cristiana) và có chân trong Phong trào Dân chủ Nhân dân (Movimiento Democratico Popular – MDP), trong khi những người đại diện của cánh hữu như Fernando Leniz, từng có chân trong nội các của Pinochet, cũng được mời tham gia. MDP là nhóm chính trị của PC (Cộng sản, PS (Đảng Xã hội) phe Almeyda, và các nhóm khác, những người ủng hộ “tất cả các hình thức đấu tranh”.

National Accord là nỗ lực nhằm tìm cho ra giải pháp chính trị được cả những người bên ngoài Liên minh Dân chủ chấp nhận. Rất quan trọng; đây là lần đầu tiên có sự phân tích những điều cần thay đổi trong hiến pháp của Pinochet, và cũng có nghĩa là mặc nhiên chấp nhận bản hiến pháp đó.

Giáo hội Công giáo có vai trò cực kì quan trọng – các nhà thờ nói chung, đặc biệt Giáo hội Công Giáo. Chúng tôi thường gặp nhau ở khu vực thờ phụng; nhà thờ là nơi an toàn. Phụ nữ cũng rất quan trọng, vì dưới khẩu hiệu “bình đẳng giới”, họ còn đòi bình đẳng trong cuộc đấu tranh chống chế độ độc tài. Rồi đến tư tưởng “tự do có khuôn mặt người”, rất đúng, và đó là một yếu tố đáng kể. Không có gì phải nghi ngờ về vai trò quan trọng của các phong trào xã hội .

Năm 1986, các nhà lãnh đạo công đoàn và hội nghề nghiệp, ví dụ như hội giáo chức và hội bác sĩ lập ra tổ chức gọi là Hội nghị Công dân (Asamblea de la Civilidad), đấy cũng là tổ chức rất quan trọng. Một khi các bác sĩ tham gia thì là nghiêm trọng, rồi những người lái xe tải cũng tham gia. Tổ chức này do tiến sĩ Juan Luis Gonzalez, chủ tịch của Hội Bác sĩ (Colegio Medico) và là thành viên của Đảng Dân chủ Cơ đốc thành lập; tất cả mọi người đều tham gia.

Những bước thụt lùi

Liên minh Dân chủ còn ấp ủ kế hoạch nhằm kết liễu chế độ độc tài trong năm 1986, gọi là năm quyết định. Đã xảy ra những chuyện gì?

Năm đó đúng là năm quyết định, nhưng không phải theo cách chúng tôi nghĩ. Nhưng hóa ra là năm quyết định hơn hẳn vì vụ buôn lậu vũ khí ở Carrizal bị phát hiện, chứng tỏ rằng người ta vẫn theo đuổi “tất cả các hình thức đấu tranh” [nghĩa là, sử dụng bạo lực] nhằm lật đổ Pinochet, và rằng vụ này đã có ảnh hưởng vô cùng tệ hại. Đây là hoạt động được hỗ trợ khá tốt: một công ti đánh cá với hai chiếc tàu và một công ti khai thác mỏ khai thác khu mỏ hoang. Còn vũ khí thì được vận chuyển từ ngoài khơi vào. Hai công ti này hoạt động hợp pháp, có những người quản lí; họ bán cá, và thỉnh thoảng người ta phát hiện họ có vũ khí. Có người nói rằng thông tin xuất phát từ Peru. Cái mà mọi người đều biết là Carrizal đã bị phát hiện, và vũ khí được đưa vào trong nước trong một chiến dịch có qui mô khá lớn.

Khi nó bị phát hiện, hoàn toàn có khả năng là Mặt trận yêu nước mang tên Manuel Rodriguez (Frente Patriotico Manuel Rodriguez) quyết tâm đẩy nhanh kế hoạch B của họ – tìm cách ám sát Pinochet. Họ đã làm vào ngày 7 tháng 9 năm 1986, nhưng thất bại, vì không giết được Pinochet, mặc dù có mấy vệ sĩ thiệt mạng. Vụ ám sát được tổ chức rất bài bản, nhưng sự thất bại của nó, cộng với vụ buôn lậu vũ khí ở Carrizal, có nghĩa là năm 1986 là năm quyết định, nhưng không có lợi cho phe đối lập. Tôi bị bỏ tù, nhiều người khác cũng thế, trong đó có German Correa, đảng viên Đảng Xã hội, vẫn còn liên minh với PC (Cộng sản). Tôi hỏi ông ta là có biết vụ ám sát hay không; ông nói không biết gì. Vì vậy, tôi nói với ông ta rằng các đối tác của ông chơi không đẹp vì họ không nói với ông chuyện đó. Tôi thấy rằng ông rất tức giận. Sau ngày 7 tháng 9 năm đó, nhiều người Chile đã chết trong tay cảnh sát mật của Pinochet.

Trong Liên minh Dân chủ, chúng tôi lập ra Ủy ban Chính trị Riêng tư (Comite Politico Privado), Đảng Dân chủ Cơ đốc và Đảng Cấp tiến cử Valdes và Silva Cimma tham gia cùng với Đảng Xã hội. Chúng tôi thường gặp MDP ở những nơi do chúng tôi đưa ra để thảo luận về những hoạt động cụ thể; ví dụ, làm sao tổ chức được cuộc biểu tình tiếp theo mà không có những hành động bạo lực, không để cảnh sát lấy cớ để đàn áp, làm sao tránh được những kẻ giấu mặt, và làm thế nào đảm bảo rằng sẽ không có cảnh đốt lốp xe, chặn đường, hay những vụ gây rối khác tương tự như vậy.

Các đảng tổ chức cho cuộc trưng cầu dân ý năm 1988 – cuộc đầu phiếu có tính quyết định về việc Pinochet sẽ vẫn nắm quyền lực thêm một nhiệm kỳ nữa – như thế nào?

Chúng tôi cần phải đăng ký với các cơ quan bầu cử để tham gia cuộc trưng cầu dân ý năm 1988 về nhiệm kì tới của Pinochet. Đây là sự kiện rất quan trọng, Tòa bảo hiến quyết định rằng, để tổ chức trưng cầu dân ý, cần phải lập ra cơ quan đăng kí cử tri mới để thay thế cho cơ quan đã bị giải tán sau đảo chính quân sự; thế là cần phải đăng kí cử tri. Sau đó là thành lập Ủy ban ủng hộ bầu cử tự do và Ủy ban cánh tả ủng hộ bầu cử tự do vì phái tả Dân chủ chúng tôi không tham gia vào Uỷ ban ủng hộ bầu cử tự do. Chúng tôi phải củng cố sự hiện diện của mình và tăng cường liên minh các nhóm chính trị ủng hộ cuộc trưng cầu dân ý.

Điều 8[1] đã bị bãi bỏ, nhưng đấy là sau cuộc trưng cầu dân ý, vì vậy chúng tôi không thể hoạt động như Đảng Xã hội. Chúng tôi đăng kí Đảng vì Dân chủ. Cuối cùng, Đảng vì Dân chủ trở thành, trên thực tế, Đảng Xã hội đổi mới; bao gồm nhóm người đã ra khỏi Đảng Cấp Tiến và một nhóm những người theo chủ nghĩa tự do thuộc cánh hữu của Đảng Cộng hòa, cộng với một số nhân vật độc lập, vì Almeyda vẫn chưa đăng ký.

Lúc đó MDP, do phái Almeyda của Đảng Xã hội (PS) cùng với những nhóm tả khuynh khác lập ra, thông qua khẩu hiệu Inscripción-traición (đăng kí là phản bội). Liên minh Dân chủ không còn hay là đang trên đường giải tán, được thay thế bởi liên minh Concertación. MDP trong giai đoạn đó cũng bắt đầu thay đổi; được gọi là Cánh tả Thống nhất (Izquierda Unida) nhằm cố gắng giữ PS của Almeyda với PC (Cộng sản) và Phong trào Cách mạng cánh Tả (Movimiento de Izquierda Revolucionaria). Tôi nhớ đã đi với Arturo Valenzuela, một nhà nghiên cứu chính trị người Mỹ, đến comuna (khu phố) Renca vào ngày 15 tháng 8 năm 1987, đến khu chợ trên đường phố để bảo họ rằng họ cần phải đăng kí cử tri. Một nhóm nhỏ theo sau chúng tôi, vừa đi vừa hét inscripción-traición – họ là đảng viên PC (Cộng sản). Tôi quay lại với những người tôi biết và nói với họ rằng chúng tôi làm những việc chúng tôi có thể làm. Tôi đề nghị họ không khiêu khích chúng tôi, rằng họ nên ngồi trên vỉa hè bên kia đường, nếu họ muốn. Họ đề nghị chúng tôi gặp các đồng nghiệp của họ vào chiều hôm đó để thảo luận vấn đề đăng kí. Chúng tôi gặp nhau trong nhà thờ, các đồng chí Cộng sản đọc một bài diễn văn, giải thích vì sao đăng kí là phản bội. Khi nói, tôi hỏi họ rằng liệu họ biết con đường để Pinochet tiếp tục nắm quyền là thế nào không. Trước đây ông ta cầm quyền bằng vũ lực, nhưng bây giờ ông ta phải giành chiến thắng trong cuộc trưng cầu dân ý. Nếu chúng ta có những người theo dõi cuộc bỏ phiếu, chúng ta có thể đánh bại Pinochet, với điều kiện là người của chúng ta phải đăng kí.

Tính toán của chúng tôi như thế nào? Tám triệu người Chile có thể bỏ phiếu; Pinochet không thể nhận được hơn 40% phiếu, và tất cả những người ủng hộ ông ta sẽ đăng kí. Trên thực tế, người đầu tiên đăng kí là Augusto Pinochet. Do đó họ đã có 3,2 triệu phiếu – 40% của 8 triệu. Để giành chiến thắng, chúng tôi phải có ít nhất bảy triệu người ở Chile đăng kí. Tôi nhớ rằng có lần Ricardo Nunez tuyên bố: “Hôm nay người thứ bảy triệu đã đăng ký, chúng ta sẽ đánh bại Pinochet”. Đó là logic số học, nhưng nếu tẩy chay và nhân dân không đăng kí thì chúng tôi thua.

Và sự kiện diễn ra như sau: Đảng vì Dân chủ (Partido por la Democracia – PPD) đăng ký như một chính đảng, còn chính phủ thì chuyển Clodomiro Almeyda từ Chile Chico tới Santiago, kết tội ông theo Điều 8 của hiến pháp Pinochet. Tôi đến thăm ông ở nhà tù Capuchinos, ông nói với tôi: “Chúng tôi có tin tốt, MDP sẽ đăng ký tham gia bầu cử”. Tôi nói với ông rằng chúng ta phải thành lập đảng chính trị, chúng ta phải thành lập PPD, vì nếu chúng ta không có đảng, ai sẽ đảm bảo cuộc bầu cử và kiểm phiếu được thực hiện một cách công bằng? Chỉ có đảng Dân chủ Cơ đốc thôi sao? Các đảng cử ra những người theo dõi bỏ phiếu (apoderados de mesa), và tôi không muốn chỉ có đảng Dân chủ Cơ đốc là người theo dõi các cuộc bỏ phiếu. Tôi cũng muốn kiểm phiếu nữa. Tôi không thể thuyết phục Almeyda trở thành đảng viên PPD. Chỉ có PPD, đại diện cho cánh tả, cùng với đảng Nhân quyyền (Humanist) cử người theo dõi bầu cử tham gia kiểm phiếu mà thôi. Sau khi Pinochet thua trong cuộc trưng cầu dân ý, buộc chính phủ phải tổ chức bầu cử vào năm 1989, Almeyda và nhóm tả khuynh đó lập ra Đảng Xã hội Tả khuynh (Partido de Amplio Izquierda Socialista) để giới thiệu ứng cử viên tham gia bầu cử.

Tôi còn nhớ rõ chuyện đó, vì khi Aylwin tranh cử tổng thống, chúng tôi phát hiện ra rằng chỉ có các ứng cử viên tổng thống mới được đề cử ứng cử viên và những người theo dõi bỏ phiếu, cho nên chúng tôi xin Aylwin ủy quyền và ủy thác trách nhiệm cho người của chúng tôi. Cuối cùng, chúng tôi đã có thể có được những người như thế, vì chúng tôi có thể cử những người theo dõi các cuộc bầu cử các ứng viên thượng nghị sĩ và hạ nghị sĩ.

Tôi kể lại những sự kiện này để chứng minh rằng việc thành lập được liên minh Concertación là kết quả của một sự tích tụ liên tục lực lượng trong một thời gian dài, chứ không phải là quyết định đơn độc.

Xây dựng niềm tin trong phe đối lập

Phong trào đối lập phải vượt qua sự nghi kị và chính trị nội bộ chia năm sẻ bảy để làm việc cùng nhau. Đâu là những khoảnh khắc và quyết định then chốt đưa phe đối lập vào con đường cuối cùng đã dẫn tới kết quả đánh bại được Pinochet?

Đầu tiên là quyết định của Đảng Xã hội hợp tác với Đảng Dân chủ Cơ đốc, tổ chức mà nhiều người trong chúng tôi nghĩ là đã gõ cửa các doanh trại quân đội nhằm kích động cuộc đảo chính quân sự năm 1973. Tôi không nói đó là sự kiện đã xảy ra, nhưng nhiều thành viên của liên minh Thống nhất Nhân dân (Popular Unity) tin rằng Đảng Dân chủ Cơ đốc đã ủng hộ và giúp kích hoạt cuộc đảo chính quân sự. Đây là chướng ngại vật cho sự hợp tác của chúng tôi. Chúng tôi đã phải vượt qua mối ngờ vực đã ăn sâu bén rễ nhằm đạt cho bằng được mục tiêu dân chủ của chúng tôi, và chúng tôi đã làm được.

Đánh bại hệ thống độc tài ngay từ bên trong

Vấn đề thứ hai là có tham gia trưng cuộc trưng cầu dân ý hay không và, do đó, chấp nhận bản hiến pháp của Pinochet, ít nhất là trên phương diện đó, và chấp nhận tất cả những rủi ro của vụ gian lận có thể xảy ra. Quyết định này được đưa ra vào cuối năm 1986 và đầu năm 1987, sau khi những nỗ lực khác nhằm kết liễu chế độ quân sự thất bại và người ta thấy rằng cuộc trưng cầu dân ý đã cận kề.

Tháng 2 năm 1987, khi Clodomiro Almeyda [thành viên lãnh đạo Đảng Xã hội] trở về Chile, tôi cùng với người anh rể của mình là Pedro Duran đến gặp ông ở Chile Chico, một thị trấn xa xôi ở Patagonia, để nói với ông rằng cần phải đăng kí Đảng Xã hội tham gia bầu cử. Chúng tôi đến Balmaceda vào lúc nửa đêm. Chiếc xe buýt mà chúng tôi đi, ghé vào một đồn cảnh sát; họ bảo chúng tôi xuống; trong những đồn cảnh sát như thế, cảnh sát có thể hỏi cung và khám người. Chúng tôi không biết họ có buộc chúng tôi trở về Santiago hay không, vì lúc đó không có tự do đi lại.

Quyết định đăng kí vào danh sách của của Pinochet và nơi bầu cử là quyết định quan trọng, vì ai có thể tưởng tượng rằng một lúc nào đó Pinochet sẽ ra đi vì ông ta thua trong cuộc trưng cầu dân ý? Tôi nhận ra rằng để làm cho mọi việc trở nên dễ dàng hơn, tôi cần lôi kéo Almeyda, vì nếu ông tới Chile bằng con đường bí mật thì ông ta sẽ làm gì? Ông sẽ tới tòa án để không bị trục xuất. Làm như vậy là trên thực tế ông đã chấp nhận khuôn khổ thiết chế của chế độ độc tài, và ông nghĩ là trong đó khuôn khổ thiết chế đó, họ sẽ không giết ông. Thật vậy, họ bỏ tù ông và đưa ông tới nhà tù cách Santiago 1.400 km, trong khi suy nghĩ xem phải làm gì với ông. Ông là chủ tịch chính thức Đảng Xã hội, nhưng hiến pháp của Pinochet cấm Đảng Xã hội, vì vậy chính phủ phải quyết định biện pháp xử lí ông. Dễ nhất là buộc ông phải sống lưu vong ngay ở trong nước. Có thể tới và nói chuyện với ông, bởi vì ông được phép đi lại trong thị trấn nhỏ đó, nhưng ông không thể rời khỏi thị trấn đó. Đăng kí tham gia bầu cử và được sự hỗ trợ của phái Almeyda là quan trọng. Tôi không nhận được lời cam kết trong chuyến thăm đó. “Tôi cần thêm thời gian thông qua quyết định trong đảng”, ông nói với tôi.

Và quyết định thứ ba, cũng là kết quả của quyết định trước, là lập ra PPD. Năm 1987, Patricio Aylwin giành được thắng lợi trong cuộc bầu cử sơ bộ của Đảng Dân chủ Cơ đốc và ông đã đưa ra hai cam kết cơ bản. Thứ nhất, ông cam kết thành lập một liên minh nhỏ, không có Đảng Xã hội, đó là đòi hỏi của Adolfo Zaldivar [một nhà lãnh đạo trong Đảng Dân chủ Cơ đốc], ông này nói rằng sẽ chỉ ủng hộ Aylwin nếu không đưa Đảng Xã hội vào liên minh. Và thứ hai, Aylwin cam kết rằng Đảng Dân chủ Cơ đốc sẽ đăng kí. Khi thấy hai điều kiện này, tôi đã nói chuyện với Aylwin và bảo ông: “Nếu ông thành lập liên minh nhỏ, thì ông sẽ là Adolfo Suarez, còn tôi sẽ là Felipe Gonzalez”. Tôi nói với ông ta theo cách đó bởi vì vừa ra khỏi cuộc họp thì Gabriel Valdes nói với tôi: “Tôi sẽ không là Adolfo Suarez để ông có thể trở thành Felipe Gonzalez; chúng ta hãy cùng nhau tham gia chính phủ vì phải áp dụng nhiều biện pháp khó khăn”. [Lúc đó, Gonzalez đang là thủ tướng Tây Ban Nha, còn Suarez là thủ tướng đầu tiên của Tây Ban Nha, sau khi Franco, và đã từ chức vào năm 1981. Quốc hội Tây Ban Nha đã bầu Leopoldo Calvo Sotelo giữ chức thủ tướng cho tới cuộc bầu cử năm 1982, khi đảng của Gonzalez, PSOE, giành thắng lớn].

Vì vậy, dù không phản đối Aylwin về liên minh nhỏ, tôi đã chất vấn ông ta về việc đăng kí đảng của ông. Nhưng tôi nói với ông rằng tôi không chấp nhận việc đó, vì không thể đăng kí được Đảng Xã hội vì hiến pháp của Pinochet cấm đảng này. Khi Aylwin nói rằng ông sẽ đăng kí đảng của mình, thì tôi đến nói chuyện với Enrique Silva của Đảng Cấp Tiến để hỏi xem ông ta sẽ làm gì. Ông nói với tôi: “Nếu đảng Dân chủ Cơ đốc đăng kí, thì tôi cũng sẽ đăng kí”. Vì vậy, tôi kêu gọi những người có đầu óc dân chủ Chile đoàn kết với Đảng Xã hội. Lúc đó, tôi đề nghị rằng chúng tôi thành lập một đảng làm cái ô, đảng PPD, đại diện cho tất cả mọi người. Vì vậy, tôi quyết định đăng ký PPD. Trong một cuộc phỏng vấn trên tờ El Mercurio ra hàng ngày, tháng 1 năm 1987, tôi nói rằng phải thành lập một đảng lớn, đảng PPD, đảng này sẽ đưa tất cả chúng tôi lại với nhau. Tôi tung ra ý tưởng đó vì chúng tôi chuẩn bị đăng kí đảng này. Aylwin nói với tôi rằng muốn giành chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống, ông phải nói rằng Đảng Dân chủ Cơ đốc phải đăng kí. Và ông nói thêm rằng tôi có thể yên trí là ông sẽ không làm như thế trước khi Điều 8 được bãi bỏ, vì vậy chúng tôi cũng có thể đăng kí, và nếu điều khoản đó không được bãi bỏ, chúng tôi có thể thành lập một đảng duy nhất.

Các quan chức dân sự kiểm soát lực lượng vũ trang

Chile là trường hợp chuyển hóa duy nhất, trong đó nhà cầm quyền độc tài trước đây vẫn giữ chức tổng tư lệnh Lục quân trong suốt 8 năm sau đó, đây là trở ngại lớn nhất trong việc giải quyết những vụ vi phạm nhân quyền và đưa quân đội trở về doanh trại. Có thể rút ra những bài học nào từ kinh nghiệm đối phó với các lực lượng vũ trang của ông?

Chính sách đối với quân đội phải dựa trên những nguyên tắc rõ ràng sau đây:

1. Quân đội và lực lượng vũ trang là những tổ chức thường trực của nhà nước cộng hòa, và do đó họ phải được sự ủng hộ hoàn toàn của chính quyền dân sự, dân cử, như là các tổ chức của nước cộng hòa.

2. Điều đó có nghĩa là lực lượng vũ trang được sử dụng như thế nào và khi nào thì được sử dụng – vì họ được độc quyền sử dụng vũ lực – là những vấn đề thuộc thẩm quyền của các quan chức dân sự.

3. Đổi lại, các quan chức dân sự phải cho quân đội độc quyền sử dụng vũ lực và đảm bảo rằng các nhu cầu về tài chính và kỹ thuật của họ được đáp ứng nhằm tạo điều kiện cho họ thực thi nhiệm vụ của mình là bảo vệ đất nước trước những mối đe dọa từ bên ngoài.

4. Tất cả các lợi ích hay đặc quyền đặc lợi mà giới quân sự có thể đã được nhận khi họ cai trị trong chế độ độc tài đều phải chấm dứt. Các thiết chế của nhà nước cộng hòa là tài sản của cả nước, và tất cả những khoản lợi lộc đặc biệt mà nhà độc tài ban cho quân đội đều phải chấm dứt.

5. Thậm chí quan trọng hơn là, vì các lực lượng quân sự có vũ khí, cho nên họ không được dính líu với chính trị. Cá nhân nào muốn tham gia vào chính trị đều phải ra khỏi quân đội, trở thành thường dân; lúc đó có thể đứng trước ống kính TV và tranh luận – không có vũ khí – để xem ai đúng, ai sau.

Đây là những nguyên tắc cơ bản, phải tuân thủ ngay từ đầu. Bây giờ, tôi biết nói thì dễ, nhưng lúc đó rất khó đưa thông điệp này vào ủy ban trung ương của các đảng của chúng tôi. Thật không dễ khi nhiều người muốn một số sĩ quan quân đội phải bị trừng phạt vì những vụ vi phạm nhân quyền của họ.

Khi Pinochet nhậm chức tư lệnh Lục quân vào năm 1990, người ta đã biết rằng thời hạn là cố định. Trước đây, Pinochet ra lệnh vì ông bổ nhiệm các tư lệnh Hải quân và Không quân. Khi tôi trở thành tổng thống, Pinochet đã trở về từ London, ông ta bị bắt giữ ở đấy và đang bị truy tố ở Chile vì những vụ vi phạm nhân quyền. Một hôm, mấy tuần sau lễ nhậm chức tổng thống của tôi, bốn vị tư lệnh cùng nhau đi ăn trưa ở một nhà hàng ở Santiago, như hành động thể hiện sự thống nhất và đoàn kết với Pinochet trước mặt toàn thể xã hội vậy. Tôi bực lắm, nhưng là tổng thống, tôi chưa có quyền loại bỏ họ. Vì vậy, việc đầu tiên tôi hỏi là ai trả tiền và người ta nói với tôi là chỉ huy Cảnh sát trả; tôi gọi cho chỉ huy cảnh sát; và ông ta khẳng định như vậy. Tôi nói với ông ta, và sau đó tôi nhắc lại cho từng người một: “Ông đã bao giờ trông thấy tất cả các vị tư lệnh vào Nhà Trắng chưa? Hay trông thấy ba vị chỉ huy chủ động đến gặp thủ tướng Na Uy hay Hà Lan, hay bất kỳ quốc gia dân chủ nào khác? Với buổi gặp gỡ, ăn trưa hôm nay, ông làm phương hại tới vị thế của Chile trên thế giới. Tôi sẽ không bao giờ chấp nhận một sự phô trương như vậy nữa, và lần sau tôi sẽ gọi ngay từ ban công lâu đài La Moneda để cách chức tất cả quí vị, và chúng ta sẽ thấy ai là chỉ huy ở Chile”. Và “Tôi sẽ sử dụng cơ hội này để nói cho ông biết một điều nữa, đó là ngày mà ông tự quyết định triệu tập Hội đồng An ninh Quốc gia thì ông sẽ phải tìm nơi họp, vì là tổng thống của nước cộng hòa, tôi sẽ không tham gia, và do đó các ông sẽ không họp ở La Moneda; tôi sẽ không tham gia”. Và với những cuộc trao đổi như thế, dần dần chúng tôi đã hiểu nhau. Sau đó, tôi quyết định đề nghị một tổng tư lệnh từ chức vì những vụ vi phạm nhân quyền của ông này. Ông ta không thách thức tôi, mặc dù, theo hiến pháp, tôi không có quyền bãi chức ông ta; ông ta không nói với tôi: “Ông không thể yêu cầu tôi từ chức”. Tình hình đã thay đổi, nhưng diễn ra dần từng bước. Cuối cùng, năm 2005, phe đối lập cánh hữu đã bỏ phiếu ủng hộ việc bãi bỏ qui định của hiến pháp nói rằng tổng thống không thể cách chức các vị tư lệnh trong nhiệm kì kéo dài bốn năm. Nhưng tất cả mọi người biết rằng qui định này, trên thực tế, đã là vấn đề thuộc về quá khứ.

Công lí và hòa giải

Làm sao có thể giải thích được sự kiện là Chile đạt được nhiều tiến bộ nhất về vấn đề công lí trong giai đoạn chuyển hóa, mặc dù nhà cựu độc tài vẫn là tổng tư lệnh Lục quân trong suốt tám năm?

Điều quan trọng là xác định cách thực thi công lí trong giai đoạn chuyển hóa, có xem xét tới sự kiện là nhân quyền đã bị vi phạm. Làm sao giải thích cho giới quân nhân và cho cả nhân dân nữa, rằng tìm kiếm sự thật và công lí không phải là trả thù, “Chúng ta sẽ không phủ nhận nó, để chúng ta sẽ không phải sống như thế một lần nữa”? Bạn phải nói với giới quân nhân rằng chúng ta không muốn trả thù, nhưng để đảm bảo rằng chúng ta sẽ không bao giờ phải trải qua những việc như thế một lần nữa, xin hãy đừng phủ nhận rằng việc đó đã xảy ra. Quá trình [tìm kiếm công lý và hòa giải], dẫn chúng tôi đến một cuộc trưng cầu dân ý, mà cuối cùng là cải cách bản hiến pháp của Pinochet, đôi khi tiến lên một cách chậm chạp, nhưng vẫn tiếp tục tiến lên với bước đi được duy trì liên tục.

Frei có một sáng kiến ​​khá thành công, có tên là Mesa de Dialogo hay Bàn đối thoại (1999-2001). Bàn có bốn bên: Các tướng, do các giới chức có thẩm quyền cấp cao nhất của Lục quân làm đại diện; đối diện với họ các luật sư nhân quyền; rồi đến Giáo hội và các thiết chế đạo đức khác của đất nước; và cuối cùng là nhóm người đại diện cho các phe phái chính trị ở Chile. Bạn có thể tìm được người thuộc phái trung tâm, phái hữu và phái tả, những người không phải do các đảng phái mà do tổng thống nước cộng hòa bổ nhiệm, và cuộc đối thoại bắt đầu diễn ra xung quanh cái bàn đó. Nó bắt đầu với một cử chỉ mang tính tượng trưng. Viên tướng Lục quân đến gần luật sư Pamela Pereira, cha bà này bị mất tích, và đưa tay ra để bắt tay bà. Pereira không đưa tay ra, mà nói với ông ta: “Thưa tướng quân, tôi sẽ bắt tay ông khi cuộc đối thoại này chấm dứt”, nói cách khác, khi cuộc đối thoại này đưa ra kết luận cụ thể nào đó, chứ không phải trước đó. Cuối cùng, họ đã bắt tay nhau.

Tôi tiếp tục Mesa de Dialogo và nó đã kết thúc trong chính quyền của tôi. Sự kiện là các sĩ quan quân đội ngồi vào bàn thảo luận có nghĩa là họ nhận một số trách nhiệm. Phải mất thời gian thì mới được như thế. Những người phụ nữ thường đi tới đó, mang theo hình ảnh của những người thân yêu đã mất tích của mình.

Moises Naim, một nhà phân tích chính trị nổi tiếng của Mỹ Latin, có lần hỏi tôi: “Đâu là quyết định khó khăn nhất trong chính quyền của ông?” Khó khăn là quyết định lập bản báo cáo về tù chính trị và tra tấn, vì nó có nghĩa là quay lại quá khứ và mở chiếc hộp Pandora về những vụ vi phạm nhân quyền, 13 năm sau khi chúng tôi đã giành chiến thắng và 11 năm sau khi Aylwin lập ra Ủy ban Sự thật và Hòa giải, cơ quan điều tra những vụ chết người và những người mất tích liên quan đến chính và tung ra bảo báo cáo nhan đề Rettig Report vào năm 1991, sau này trở thành tấm gương cho Mandela. Nhưng những người đã bị tù đày vẫn tiếp tục khẳng định rằng không ai thừa nhận những sự kiện họ đã trải qua và khi người ta yêu cầu họ cung cấp hồ sơ thì hóa ra là họ đã từng là tù nhân, họ phải giải thích rằng họ là tù nhân vì những tư tưởng chính trị của mình. Cuối cùng, tôi quyết định thành lập Ủy ban Valech[2]. Đây là những quyết định khó khăn. Tôi nói với nhân dân về những kết luận của bản báo cáo về tù chính trị và tra tấn, công nhận rằng hơn 29.000 người Chile, cả đàn ông lẫn phụ nữ, đã bị tra tấn và chỉ ra những nơi giam cầm và hình thức tra tấn. Đọc báo cáo này là cuộc hành trình đi vào địa ngục. Tuy nhiên, khác với Báo cáo Rettis của Aylwin, báo cáo này không bị quân đội nghi ngờ. Bây giờ họ đã chấp nhận và tìm kiếm sự tha thứ về những việc đã xảy ra dưới chế độ quân sự.

Khi có tự do thì đòi hỏi của xã hội cũng thường tăng lên, nhưng họ có thể làm cho những bước đi ban đầu của quá trình chuyển hóa trở thành phức tạp hơn. Các phong trào xã hội Chile có trách nhiệm như thế nào? Họ có giúp ngăn chặn bớt những kì vọng để đảm bảo rằng sự thay đổi về chính trị có thể tiếp tục diễn ra?

Tôi sẽ chia sẻ với bạn một giai thoại, chứa nhiều thông điệp về quá trình chuyển hóa. Tôi ở Bộ Giáo dục, và một hôm thư ký nói với tôi rằng tôi đã nhận được một lá thư viết tay gửi từ địa điểm gần Valdivia, miền nam Chile. Đầu tiên tác giả bức thư nhắc lại rằng trong chiến dịch tranh cử, tôi đã đi qua thị trấn của bà; sau đó bà mới viết về vấn đề của mình. Bà nói: “Chúng tôi là một nhóm comuneros (tiếng Tây Ban nha: thành viên cộng đồng – ND) biết những người thân bị chế độ độc tài bắn giết chôn cất ở đâu, và bây giờ chúng tôi muốn đến gặp thẩm phán để nói với ông ta để ông ta buộc người ta phải khai quật tử thi, vì chúng tôi muốn làm lễ an táng theo nghi thức Công giáo cho người thân của mình. Nhưng, một số người trong chúng tôi nghĩ rằng không được làm việc đó vào lúc này, còn quá sớm; giới quân nhân có thể điên tiết lên và lật đổ chúng ta một lần nữa, bằng một cuộc đảo chính. Một số người khác thì lại nghĩ rằng bây giờ chúng ta đang sống trong chế độ dân chủ và chúng tôi có thể làm việc đó. Chúng tôi đã chờ đợi gần 17 năm, và chúng tôi vẫn chưa thỏa thuận được với nhau, vì chúng tôi không biết rõ những việc đang diễn ra ở trong nước, chúng tôi quyết định xin lời khuyên của ông. Chúng tôi sẽ làm những việc mà ông bảo chúng tôi phải làm”. Lá thư đó có tác động lớn đối với tôi, tôi rất cảm động.

Tôi đem bức thư đến cho Aylwin xem. Ông hỏi phải làm gì, và tôi trả lời rằng chúng ta phải bảo họ đến gặp thẩm phán. Aylwin đồng ý. Tôi cử chánh văn phòng của tới gặp và nói với họ như vậy. Và họ đã đến gặp thẩm phán, ông này ra lệnh khai quật. Người ta đào và tìm được mấy cái xương và mấy cái cúc. Quân đội đã đưa hài cốt đi từ trước rồi. Ví dụ này cho thấy rằng người ta không đòi tăng lương, như bạn có thể nghĩ, mà đòi những quyền chính trị và quyền cơ bản của con người. Tôi kể cho bạn nghe giai thoại này như một ví dụ về cả nỗi sợ hãi lẫn tinh thần trách nhiệm của các công dân Chile.

Nỗi sợ quá khứ

Bạn có biết khi nào thì tôi nhận ra rằng tôi có thể thua trong cuộc tranh cử thượng viện không? Như tôi đã nói, tôi quyết định không tranh cử tổng thống năm 1989, mặc dù tôi được khá nhiều người ủng hộ. Đúng là lúc đó, các cuộc khảo sát không chính xác như bây giờ, nhưng tôi đã nhận thức được rằng nếu tôi trở thành ứng cử viên thì có thể xảy ra đảo chính. Tôi nhận ra rằng tôi có thể thua khi đang ở Huechuraba, một comuna nghèo, gần Santiago, tôi đang kết thúc bài phát biểu trước hơn 20.000 người và tôi nhìn thấy một người phụ nữ lớn tuổi, đang nhìn tôi như thể Thiên Chúa đang nói vậy. Khi tôi đi ra, người phụ nữ bắt đầu tiến đến gần sân khấu, sân khấu khá cao. Tôi nhận ra rằng bà sẽ không tới được chỗ tôi, vì vậy, tôi nhảy xuống. Mọi người dãn ra và tôi đã đi đến để ôm lấy bà. Bà ấy cảm động và nói: “Ông đã thuyết phục được tôi; tôi sẽ bỏ phiếu cho ông. Tôi là người ủng hộ Allende, nhưng tôi đã định bỏ phiếu cho Zaldivar, vì tôi từng nghĩ nếu ông mà được bầu thì quân đội có thể quay lại, và tôi sẽ bị đau khổ rất nhiều”. Nó tác động mạnh lên tôi đến mức tôi đã đề nghị một người đến nói chuyện với người phụ nữ đó vào ngày hôm sau, và bà kể cho người này nghe những chuyện đã xảy ra với mình trước đây – với các lực lượng quân sự. Đấy là lúc tôi nhận ra rằng tôi có thể thua trong cuộc bầu cử. Đấy là nỗi sợ hãi: mặc dù bà ấy ủng hộ tôi, nhưng bà lại nghĩ nên bỏ phiếu cho người khác để đảm rằng bảo rằng quân đội sẽ không quay trở lại, chỉ cần cả hai người đều chống Pinochet là được. Đó là nói về sự trưởng thành của nhân dân và sự trưởng thành như thế có thể làm cho quá trình chuyển hóa trở thành dễ dàng hơn.

Như vậy, cho đến lúc này chúng ta đã thảo luận về quan hệ với quân đội. Phái hữu dân sự từng ủng hộ Pinochet có vai trò gì?

Ở Chile, quân đội tìm kiếm sự tha thứ, nhưng phái hữu không bao giờ tìm kiếm sự tha thứ. Nhiều người cánh hữu tiếp tục khẳng định rằng cuộc đảo chính là cần thiết, và do đó biện minh cho những vụ vi phạm nhân quyền. Đấy tiếp tục là nhân tố làm mất lòng tin và là trở ngại cho việc hòa giải và những thỏa thuận rộng rãi hơn.

Hệ thống bầu cử

Trong quá trình chuyển hóa của Chile, sau năm 1988 đã có cơ hội quan trọng để tiến hành cuộc trưng cầu dân ý nhằm tu chính bản hiến pháp năm 1980, nhưng thay đổi tương đối ít, để lại nhiều ốc đảo độc tài. Lúc đó đã xảy ra những sự kiện nào và đánh giá của ông hôm nay?

Quá trình chuyển hóa đòi hỏi mỗi nhóm phải hiểu rằng không thể yêu cầu tất cả mọi thứ mà họ muốn. Đó là quá trình chuyển hóa: nói chuyện với những người có suy nghĩ khác nhau, ngay cả nếu họ đã bị thua, và làm việc rất nhiều vì mục đích chung, thắng cuộc trưng cầu, đàm phán với chính phủ, bãi bỏ Điều 8..v.v…

Bản hiến pháp của Pinochet đã lập ra hệ thống bầu cử “cặp” (binomal): mỗi khu vực bầu cử bầu hai đại diện. Phái hữu phát hiện ra rằng hệ thống này là nền tảng bảo đảm cho sự tồn tại về chính trị của họ, vì làm cho nó dẫn đến bế tắc về chính trị: bạn được 60% phiếu, còn tôi được 40% và chúng ta dính líu với nhau – bạn chọn một thứ, còn tôi chọn thức khác. Hệ thống bầu cử “cặp” còn có ảnh hưởng lớn đối với các liên minh, vì những thay đổi nhỏ trong liên minh có thể làm cho tất cả các ứng viên Đảng Dân chủ Cơ Đốc trúng cử, trong khi không có đảng viên PPD nào được bầu hay ngược lại, nhiều đảng viên PPD, trong khi chỉ có vài đảng viên Dân chủ Cơ đốc được bầu mà thôi. Ảnh hưởng này, cộng với túc số (số đại biểu quy định, cần có để biểu quyết một vấn đề) cao cần có để thông qua dự luật trong cơ quan lập pháo (hiện vẫn còn hiệu lực), trên thực tế, tạo cho liên minh đối lập khả năng phủ quyết dự luật. Sau 20 năm, không còn cần như thế nữa. Chu kì chính trị của cánh hữu với quyền phủ quyết – trong khi chúng tôi cầm quyền đã giành được đa số tại các cuộc bầu cử trong suốt 20 năm, nhưng chúng tôi không có đa số để thay đổi những thứ chúng tôi muốn thay đổi vì chúng tôi không thể tập hợp được đủ túc số hoặc chúng tôi rơi vào bế tắc. Làm sao thoát ra khỏi bế tắc này? Tôi không biết, bởi vì hệ thống “cặp” vẫn tiếp tục, và, thậm chí nếu chúng tôi giành được chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống tiếp theo, tôi cũng không rõ là phải làm gì để có thể thay đổi chuyện đó.

Tôi cảm thấy là cần phải xóa bỏ cách làm như thế, nhưng không thể làm được. Cuộc đàm phán cuối cùng là giữa Aylwin với Jarpa, đại diện cho Đổi mới Quốc gia (Renovacion Nacional), thuộc phái hữu, cùng với Liên minh nói Không (Concertación de partidos por el NO), mà sau đó trở thành Liên minh vì Dân chủ (Concertación por la Democracia). Chúng tôi đã thắng trong cuộc trưng cầu dân ý nhưng không thể thay đổi được hệ thống “cặp”.

Cải cách hiến pháp

Hiến pháp của Pinochet đã có một kẽ hở. Nó đòi phải có túc số cao thì mới tu chính được: vấn đề quan trọng cần tới đa số là bốn phần bảy, còn tu chính một số mục của hiến pháp thì cần đa số là hai phần ba tổng số. Ngược đời là, mục nói về tu chính hiến pháp không nằm trong số những mục cần đại đa số, cho nên có thể tu chính mục này của hiến pháp với đa số đơn giản và làm như vậy là thay đổi nhóm túc số cần phải có để thay đổi hiến pháp. Đó là vũ khí duy nhất của chúng tôi. Vấn đề cần bàn là liệu chúng tôi có sử dụng vũ khí đó hay không, trong khi chế độ độc tài cũng đã biết rõ về điều đó. Cách khác là lao vào đối đầu trực diện. Quân đội có thể nói rằng chúng tôi chế nhạo, và họ có thể tấn công chúng tôi bằng một cuộc đảo chính nữa. Do đó, tiến lên ngay trong kì họp đầu tiên của Quốc hội là quá mạo hiểm. Cuối cùng, quân đội chấp nhận một loạt thay đổi, ví dụ, bãi bỏ Điều 8 và một số điều khác. Đổi lại, họ áp đặt túc số đặc biệt cho việc sửa đổi hiến pháp. Nói cách khác, họ đóng cửa con đường, không cho chúng tôi tiến hành những thay đổi mà chúng tôi cho là quan trọng trong bản hiến pháp năm 1980. Nhưng từ quan điểm của công chúng thì đây chỉ là thảo luận mang tính kĩ thuật và tôi thấy rằng chúng tôi đã đi vào ngõ cụt.

Tôi nhớ là chúng tôi đã đến thời điểm đưa ra quyết định cuối cùng là liệu có thông qua một vài thay đổi trong hiến pháp [những thay đổi có thể đàm phán với quân đội] không. Aylwin biết rằng tôi phản đối. Đó là lần duy nhất tôi thấy ông tức giận, vì chúng tôi đang tranh luận với nhau. Lúc đó, tôi phải gọi điện để nói “Không” với cuộc trưng cầu dân ý mới nhằm thay đổi bản hiến pháp đang được thương lượng với Pinochet. Lúc đó chúng tôi không có quyền đưa ra sáng kiến, trong giai đoạn đó chỉ chính quyền quân sự mới có quyền đề xuất về sửa đổi hiến pháp, và được thông qua trong cuộc trưng cầu dân ý. Vì vậy, tôi phải tung ra lời kêu gọi là bỏ phiếu “Không”.

Aylwin rõ ràng là ủng hộ phiếu “Có”. Ông nhấn mạnh rằng chúng ta sẽ cùng nhau thay đổi hệ thống bầu cử “cặp” sau. Aylwin kết luận mấy nhận xét mà ông vừa đưa ra và tôi hỏi ông: “Chúng ta có những đảm bảo nào?” Ông trả lời rằng ngày hôm sau chúng tôi sẽ đến nhà Ricardo Rivadeneira, luật sư của Renovacion Nacional, người đang soạn thảo công cuộc cải cách. Ngày hôm sau chúng tôi đến nhà Rivadeneira, nhưng Jarpa, đầu lĩnh của cánh hữu, không tới, nên chẳng làm được gì.

Khác biệt thứ hai giữa chúng tôi xuất hiện khi Aylwin trở thành tổng thống mới đắc cử. Tôi được dự định là bộ trưởng nội các. Tôi đã thua cuộc bầu cử vào Thượng viện và trong một lần nói chuyện riêng giữa hai chúng tôi, tôi hỏi ông: “Bước đi đầu tiên của ông sẽ là gì?”. Ông ấy nói với tôi rằng thực ra ông chưa nghĩ đến chuyện đó và ông hỏi có ý tưởng gì không. Tôi nói với ông ấy là tôi có, rằng ông nên gọi điện cho Pinochet bảo ông ta từ chức. Ông đáp lại rằng Pinochet sẽ không từ chức, và tôi nói với ông rằng ngay lúc đó ông phải gửi cho cơ quan lập pháp đề nghị cải cách hiến pháp, yêu cầu sửa đổi hiến pháp và tuyên bố rằng ông đã quyết định cách chức Pinochet và đã yêu cầu ông ta từ chức, và rằng ông ta không chấp hành vì hiến pháp nói rằng ông ta không có nghĩa vụ phải làm như vậy. Rồi chúng tôi bắt đầu thảo luận về vấn đề này, cho đến khi tôi nói với ông rằng ông không nhắc tới luận cứ quan trọng nhất để có thể khắc phục được sự khác biệt ý kiến. Ông hỏi tôi đó là cái gì và tôi nói với ông: “Ông có thể nói với tôi, ‘Ricardo, ông có cách hành xử của ông, ông vừa trở thành bộ trưởng nội các, còn tôi thì trở thành tổng thống’”. Vâng, thật tức cười vì tôi là bộ trưởng mà lại phải nói cho tổng thống rằng ông phải làm gì. Cả hai chúng tôi cùng phá lên cười và “luận cứ” chỉ đi xa đến đó thôi.

Xây dựng liên minh

Làm sao liên minh Concertación đạt được thỏa thuận khi liên minh này quyết định ai là ứng cử viên? Liên minh này cũng đã thảo luận và chuẩn bị chương trình cho mỗi chính phủ mới. Ông cho rằng cách làm như thế có tầm quan trọng đến mức nào?

Khó khăn hơn cả việc chuyển hóa từ chế độ độc tài sang dân chủ là những điều sẽ xảy ra sau khi nhà độc tài đã ra đi – ví dụ, thỏa thuận ai sẽ là ứng cử viên tổng thống.

Nhiều người nghĩ tôi phải là ứng cử viên tổng thống. Tôi hiểu rõ rằng đây không phải là vấn đề cần suy nghĩ. Chẳng khác gì đưa chiếc áo choàng màu đỏ ra phía trước mặt con bò tót. Đó là lí do vì sao hai ngày sau cuộc trưng cầu dân ý tôi lại thông báo rằng tôi sẽ không làm ứng cử viên trong cuộc bầu cử tổng thống. Quá trình chuyển hóa đòi hỏi rằng một số người phải từ bỏ nguyện vọng có thể có của mình. Tôi nhớ rằng cuộc trưng cầu dân ý Hội đồng Tối cao của PPD muốn tuyên bố tôi là ứng cử viên. Armando Jaramillo và những người khác tỏ ra rất nhiệt tình. Tôi cảm ơn họ, nhưng tôi giải thích rằng tôi mà ứng cử thì sẽ có hại cho quá trình chuyển hóa. Tôi đề nghị cùng ủng hộ Enrique Silva làm ứng cử viên của PPD và cuối cùng tất cả chúng tôi cùng ủng hộ Patricio Aylwin làm ứng cử viên của Concertación. Và phần còn lại là lịch sử.

Thiết lập các ưu tiên trong chính sách

Lúc đầu chúng tôi không nhận thức được một cuộc chuyển hóa khác, khó khăn hơn – chuyển hóa từ nước nghèo thành nước phát triển. Chúng tôi phải hỏi: “Chúng tôi muốn kiểu xã hội nào?” Không thể làm được tất cả mọi thứ ngay lập tức, cho nên trong quản trị người ta phải đặt ra các ưu tiên.

Xin đưa một ví dụ. Sau khi chúng tôi thắng trong cuộc trưng cầu dân ý, chúng tôi chắc chắn rằng Aylwin cũng sẽ thắng trong cuộc bầu cử tổng thống. Một hôm, tôi nhận được cuộc gọi từ Hội đồng Giám mục, họ hỏi liệu chính quyền Aylwin có ép thông qua luật li hôn hay không. Tôi nói rằng không, vì có những việc quan trọng hơn cần phải làm. Tôi giải thích rằng trong chính quyền thứ hai chúng tôi sẽ làm việc để có thể thông qua luật li hôn. Vâng, chúng tôi cũng đã không làm được việc này. Khi tôi là tổng thống, vị Hồng y hỏi tôi: “Còn li hôn?” “Lần này, có”, tôi nói với ông. Vì vậy, ông hỏi liệu tôi có thể dành cho ông đặc ân hay không. “Tại sao không để bộ trưởng tư pháp làm nhân vật chính để chúng tôi có thể tranh luận về chuyện đó với ông ta chứ không phải với ông?” Họ đã nhận thức được rằng điều kiện chính trị đã chín muồi và không thể ngăn chặn được thay đổi. Và luật li hôn đã được thông qua vào năm 2005.

Chúng tôi thỏa thuận về các ưu tiên của chúng tôi và các ưu tiên này được thể hiện trong chương trình được chuẩn bị trong mỗi chiến dịch tranh cử. Những chương trình được thỏa thuận đã giúp chúng tôi giữ được sự thống nhất. Quá trình chuyển hóa có những ưu tiên chính trị chính: Thay đổi hệ thống chính trị và bảo đảm sẽ có các cuộc bầu cử, bảo đảm tự do và tôn trọng nhân quyền. Sau đó, quá trình thứ hai, thay đổi về kinh tế và xã hội bắt đầu. Khi bạn đề nghị tăng trưởng cùng với bình đẳng cho tất cả mọi người và bạn tìm cách làm cho tăng trưởng đến với tất cả mọi người, thì cần phải có các chính sách công mới và hội nhập vào thế giới của thương mại tự do. Tất cả những việc này đòi hỏi phải có một đa số khá lớn. Vì vậy, có đa số khá lớn để đánh bại Pinochet là việc dễ; đa số khá lớn bầu cho Aylwin việc dễ; quá trình chuyển hóa này là phần khó hơn – quá trình chuyển hóa mà không gây ra tác động lớn với dư luận, nếu so với thời điểm khi mà nhà độc tài tháo khăn choàng tổng thống và khoác nó lên người vị tổng thống mới, vừa được nhân dân bầu lên.

Không có đảng chính trị nào đưa ra thỏa thuận chính thức [sau khi Aylwin được bầu làm tổng thống]; tất cả chúng tôi đều hoạt động trên cơ sở nhận thức rằng chúng tôi phải tiếp tục gắn bó với nhau. Chúng tôi sẽ phải thắng trong cuộc bầu cử, phải cầm quyền trong vòng tám năm, vì đó là nhiệm kỳ tổng thống, theo bản hiến pháp của Pinochet. Và chúng tôi vui vẻ đồng ý rút ngắn thời hạn từ 8 năm xuống còn 4 năm. Chúng tôi nghĩ: “Chúng ta sẽ ở bên nhau không quá bốn năm, và sau đó mỗi người có thể đi con đường riêng của mình và chúng ta sẽ quay lại tranh luận để tìm cho ra thỏa thuận mới”.

Bốn năm trôi quá nhanh và chúng tôi quay lại với thủ tục thỏa thuận ứng cử viên chung. Chúng tôi đã làm như vậy với cuộc bầu cử sơ bộ giữa nhiệm kỳ mà chúng tôi cùng với Eduardo Frei Ruiz-Tagle [con trai của cựu Tổng thống Frei Montalvo] đã phát minh ra để đảm bảo rằng ông sẽ thắng, và chúng tôi tiếp tục nắm quyền. Tôi tin rằng đó là thời điểm rất quan trọng, đấy khi bạn nhận ra rằng sự đoàn kết nhằm hạ bệ chế độ độc tài phải chuyển sang một giai đoạn khác, sang chương trình chuyển hóa về chính trị, kinh tế và xã hội. Nhìn lại, trong một thập kỉ, trước cuộc trưng cầu dân ý, chúng tôi đã có 10 năm suy nghĩ. Vì vậy, những việc mà Alejandro Foxley làm sau đó, khi ông là Bộ trưởng Tài chính, và các chính sách kinh tế và xã hội mà ông áp dụng để phát triển nền kinh tế và làm giảm đáng kể tình trạng nghèo đói là kết quả của suy nghĩ của nhiều người.

Quá trình chuyển hóa của Chile là khá đặc biệt. Sau khi trở về với dân chủ, Pinochet còn giữ chức tư lệnh thêm tám năm nữa và đương nhiên là khó cai trị khi nhà độc tài giữ chức vụ quan trọng như thế. Một số bắt đầu dự đoán các vấn đề mới về quản trị và những biện pháp đương đầu với chúng. Ví dụ, Edgardo Boeninger, người có vai trò rất quan trọng trong quá trình chuyển hóa, nói với tôi: “Bây giờ chúng ta phải làm sao để các phong trào xã hội không còn tiếp tục hoạt động tích cực nữa, vì nếu không, làm sao chúng ta có thể tiếp tục cai trị nếu ngày nào họ cũng đòi thêm? Làm sao chúng ta có thể kiểm soát được kì vọng của dân chúng?”

Quản lí kinh tế để phát triển

Chile là câu chuyện thành công về kinh tế. Chính sách kinh tế đã giúp cho quá trình chuyển hóa chính trị như thế nào?

Trong thế giới hiện đại, quản lí kinh tế phải là công việc hệ trọng và đầy trách nhiệm. Đây không phải là vấn đề của phái tả hay phái hữu; phải tìm ra được biện pháp phù hợp để quản lí nền kinh tế. Ngoài ra, trong giai đọan chuyển tiếp, trong các nước đang phát triển, còn nhiều người nghèo đói, quản lí kinh tế là cực kì quan trọng, vì cần phải có tăng trưởng thì mới đáp ứng được nhu cầu của những lĩnh vực bị thiệt thòi. Cần phải có chính sách công vững chắc, hướng những khoản chi tiêu vào đúng những nơi cần, sao cho mọi người đều nhìn thấy có thay đổi. Nếu nhân dân không nhìn thay đổi theo hướng tốt hơn trong cuộc sống của họ thì người ta sẽ thất vọng với chế độ dân chủ vừa được tái lập. Nhiều người sẽ nghĩ rằng nếu chế độ dân chủ không có khả năng cung cấp, thì nó có ích lợi gì? Cho nên, tăng trưởng đã trở thành yếu tố then chốt trong chính sách của chúng tôi. Mỗi người lãnh đạo trong chính phủ trong quá trình chuyển hóa là thông tín viên chính trong nước và người đó phải giải thích ông/bà ta đang làm gì và tại sao ông/bà ta lại làm việc đó, và đất nước có tốc độ tăng trưởng đủ lớn hay là không. Dân chủ là giống cây phải được tưới nước mỗi ngày và thu nhập càng lớn thì càng nhiều nhu cầu có thể được đáp ứng.

Ủng hộ quốc tế

Ngoài tình đoàn kết của các Đảng Xã hội trong các nước khác, Chile có nhận được thêm sự ủng hộ quốc tế?

Sự giúp đỡ quốc tế, mà chúng ta đều dựa vào, theo cách này hay cách khác, là cực kì quan trọng. Tôi nhớ một số việc thay đổi trong chính phủ thứ hai của Reagan, đấy là lúc George Shultz có vai trò quan trọng. Vị đại sứ mới, Harry Barnes, đến Chile và nói: “Tôi muốn gặp Liên minh Dân chủ”. Armando Jaramillo là chủ tịch và hỏi đại sứ Barnes khi nào chúng tôi có thể tới thăm ông. Nhưng, ông trả lời là không, ông sẽ tới thăm chúng tôi. Chúng tôi có một văn phòng rất nhỏ và ông đại sứ đã đến đó. Chuyến thăm này có ảnh hưởng lớn đối với Pinochet; đó là một thay đổi chính sách quan trọng. Tôi còn nhớ rằng chúng tôi và những người khác, cùng với Sergio Bitar được mời tham dự một buổi hội thảo ở Bộ Ngoại giao (Mỹ- ND) vào năm 1985 và chúng tôi đã gặp Elliott Abrams (lúc đó là trợ lí bộ trưởng ngoại giao Mỹ – ND). Rõ ràng lúc đó chính quyền Mỹ đã giúp chế độ dân chủ quay trở về và tách ra khỏi Pinochet.

Nhìn về tương lai

Đàn áp và kiểm soát làm cho người ta sợ hãi và có thể làm tê liệt cuộc đấu tranh xã hội và hành động chính trị. Vì vậy, cần phải đánh tan nỗi sợ hãi. Đây là lí do vì sao chiến dịch “Nói không” năm 1988 tập trung vào hạnh phúc và tương lai: Alegria la ya viene (hạnh phúc đang tới gần). Bài học của ông về cách thức đối mặt với nỗi sợ hãi trong cuộc đấu tranh chế độ độc tài là gì?

Chiến dịch “Nói không”, được cả thế giới coi là tấm gương, cũng chịu ảnh hưởng của các bạn bè người Mỹ. Khi các chuyên gia quan hệ công chúng nói với chúng tôi – bằng những báo cáo về vi phạm nhân quyền và những thứ tương tự – chúng tôi sẽ làm cho người dân khiếp sợ, họ đã đề nghị rằng muốn lôi kéo được dân chúng về phía mình, ta phải nhìn về tương lai theo hướng tích cực, mà không sống mãi trong quá khứ. Chiến dịch “Nói không”, không còn nghi ngờ gì nữa và đó là một bài học quan trọng.

Những cuộc chuyển hóa hiện nay

Bằng những kinh nghiệm của mình, ông nhìn những quá trình chuyển hóa hiện nay như thế nào?

Quan trọng nhất là những cuộc chuyển hóa hôm nay khác với những cuộc chuyển hóa ngày hôm qua, vì bây giờ chúng ta có Twitter và Facebook. Khi tôi chấp nhận làm ứng cử viên tổng thống của Liên minh Dân chủ lần thứ hai, tháng 11 năm 1984, có một cuộc biểu tình và Pinochet tuyên bố tình trạng bị bao vây. Chúng tôi bị cho ra rìa và chúng tôi không thể nói chuyện với nhau. Chúng tôi bị cấm trả lời phỏng vấn; chúng tôi không còn là mình nữa. Enrique Silva, đứng đầu Đảng Cấp tiến, được gọi đơn giản là cựu tổng kiểm soát. Gabriel Valdes, đứng đầu Đảng Dân chủ Cơ đốc, được gọi là cựu ngoại trưởng còn tôi thì được gọi là nhà kinh tế học Ricardo Lagos. Không ai được nhắc tới chúng tôi cùng với đảng tịch của mình. Một hôm, đang lúc buồn, tôi tổ chức một cuộc họp báo dù biết rằng không có báo nào đưa tin. Sau khi tôi trình bày ý kiến của mình, một người lại gần và đưa ra cho tôi hai câu hỏi dành cho tờ New York Times. “Tại sao tôi lại quan tâm tới tờ New York Times, nếu vấn đề của tôi là tờ Santiago Times!” Tôi trả lời, rồi sau đó tôi xin lỗi. Cơn giận của tôi là do sự thất vọng mà tôi cảm thấy vì sự im lặng xung quanh chúng tôi do Pinochet dựng lên.

Gần đây, chính quyền Pinera cấm cuộc diễu hành do người lãnh đạo sinh viên, Camila Vallejo, kêu gọi và được tổ chức hằng tuần, vào các ngày thứ năm. Thế là, một đêm cô nói trên Twitter là tất cả mọi người nên gõ nồi niêu xoong chảo, và đêm đó mọi người cùng gõ nồi niêu xoong chảo. So sánh với quá trình chuyển hóa trước đây, mạng xã hội ngày nay thu hút được sự chú ý của mọi người, nhưng cuối cùng thì vẫn phải bước ra đường phố. Tuy nhiên, Twitter và Facebook là những công cụ truyền sức mạnh cho các phong trào xã hội; tôi hoàn toàn không nghi ngờ gì về chuyện này. Và khi bạn nằm trong thành phần chính phủ, nhân dân sẽ sử dụng Twitter để yêu cầu bạn thực hiện lời hứa của mình, họ nói: “Tôi bầu cho ông và đang theo dõi xem chính quyền đối xử với chúng tôi như thế nào”.

Những nguyên tắc nền tảng

Ông có thể tóm tắt thật ngắn gọn một số điểm chính về cách thức tiến hành quá trình chuyển hóa từ chế độ độc tài sang dân chủ, bao gồm những nguyên tắc cơ bản cần phải hiểu và nhớ?

Thứ nhất, khi bắt đầu tiến hành quá trình chuyển hóa, phải hiểu rằng điểm khởi đầu là mọi người sợ quay trở lại chế độ độc tài và đàn áp. Thứ hai, xây dựng cho bằng được một liên minh rộng rãi nhất trong khả năng, vì bạn cần phải gom góp tất cả sức mạnh mà bạn có thể có để đoạn tuyệt với quá khứ. Thứ ba, không bao giờ được quên rằng chỉ trong giới hàn lâm người ta mới có thể làm và nói tất cả những thứ mà người ta muốn. Trong chính trị, bạn làm những việc bạn có thể làm, và bạn phải làm như vậy với niềm đam mê, làm một cách mạnh mẽ, sao cho mọi người nhìn thấy là bạn thực sự tin vào những điều bạn đang kêu gọi. Khi lời kêu gọi của bạn chỉ là mị dân và có động cơ cá nhân thì mọi người sẽ nhận thấy ngay và người ta sẽ không ủng hộ nữa.

Những mốc chính

Tháng 9 năm 1970: Một người thuộc phái tả, Salvador Allende, thắng vì được nhiều phiếu hơn – nhưng không phải là đa số – trong cuộc bầu cử tổng thống. Trong hoàn cảnh đó, Quốc hội chọn Tổng thống từ hai ứng cử viên có số phiếu cao nhất. Tổng thống Mỹ Richard Nixon ra lệnh cho Cơ quan tình báo trung ương (CIA) tìm cách phá hoại Allende.

Tháng 10 năm 1970: Rene Schneider, một vị chỉ huy quân đội nổi tiếng vì thái độ tôn trọng hiến pháp, bị giết trong một âm mưu bắt cóc bất thành (được CIA hỗ trợ) nhằm ngăn chặn việc bầu Allende. Quốc hội bầu Allende làm tổng thống.

Tháng 11 năm 1970: Allende bắt đầu quốc hữu hóa các mỏ đồng thuộc sở hữu của các công ti Mỹ, đồng thời đẩy nhanh công cuộc cải cách ruộng đất và gia tăng các khoản phúc lợi xã hội, đưa xã hội vào tình trạng phân cực.

Tháng 11 năm 1971: Fidel Castro thăm Chile trong 40 ngày, làm trầm trọng thêm tình trạng phân cực.

Tháng 10 năm 1972: Sau giai đoạn bất ổn kéo dài và một cuộc bãi công lớn, được CIA bí mật tài trợ, Allende bổ nhiệm nội các mới, có cả các vị chỉ huy quân sự.

Tháng 8 năm 1973: Quốc hội và Tòa án Tối cao cáo buộc Allende cai trị một cách bất hợp pháp, bằng các nghị định, lờ đi các quyết định của ngành tư pháp và có thái độ khoan dung với các nhóm vũ trang tả khuynh.

Tháng 9 năm 1973: Hội đồng quân nhân do tư lệnh Lục quân Augusto Pinochet Ugarte chỉ huy tiến hành đảo chính và nắm quyền. Allende chết. Hội đồng quân nhân cấm các đảng phái và các tổ chức công đoàn, giải tán Quốc hội, nhiều người cánh tả bị tra tấn và “mất tích”, đa số thành viên nội các bị bắt giam. Nhiều nhà lãnh đạo đối lập bỏ trốn.

Tháng 9 năm 1974: Tướng Carlos Prats Gonzalez, Chỉ huy Lục quân và Bộ trưởng Nội vụ trong chính phủ Allende, bị giết ở Buenos Aires, một trong mấy vụ ám sát do tình báo Chile thực hiện.

Tháng 4 năm 1975: Phản ứng lại trước tốc độ tăng trưởng thấp và lạm phát cao, chính phủ tiến hành cải cách thị trường tự do, được dẫn dắt bởi các nhà kinh tế học trường phái Chicago. Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) giảm 15% ngay trong năm đó và thất nghiệp gia tăng.

Tháng 1 năm 1976: Theo chỉ thị của Hồng y Raul Silva Henriquez, Giáo hội Công giáo lập ra tổ chức gọi là Vicariate of Solidarity nhằm cung cấp sự trợ giúp về mặt pháp li, ghi chép những vụ vi phạm nhân quyền và xuất bản một tờ tạp chí có thái độ phê phán chính phủ.

Tháng 9 năm 1976: Orlando Letelier, đại sứ và bộ trưởng nội các thời Allende, cùng với người phụ tá của mình, bị ám sát ở Washington, DC. Chính phủ Mỹ lên án chính phủ Chile vì vụ giết người này.

Tháng 9 năm 1980: Chile tổ chức trưng cầu dân ý về bản hiến pháp mới, kéo dài quyền cai trị của hội đồng quân nhân đến năm 1990 và tổ chức trưng cầu vào năm 1988 về việc kéo dài chế độ cho đến năm 1998. Trong lúc còn chế độ kiểm duyệt, gian lận và cấm đoán các đảng phái, cuộc trưng cầu dân ý được chấp thuận, phe đối lập bác bỏ, coi là bất hợp pháp.

Tháng 6 năm 1982: Kinh tế Chile giảm 17% trong các năm 1982-1983, và thất nghiệp tăng lên đến 23%. Bất mãn với Pinochet tăng lên, buộc ông ta phải tiết chế bớt chính sách kinh tế của mình.

Tháng 5 năm 1983: Phe đối lập tổ chức những cuộc biểu tình lớn đầu tiên, phối hợp với công đoàn thợ mỏ, công đoàn này đã tiến hành những cuộc biểu tình từ mấy năm trước.

Tháng 8 năm 1983: Một loạt các đảng đối lập thành lập Liên minh Dân chủ, Liên minh này cam kết với quá trình thay đổi dân chủ một cách hòa bình.

Tháng 3 năm 1985: Vụ giết ba đảng viên cộng sản do cảnh sát quân sự thực hiện làm cho Tòa án Tối cao phải tiến hành điều tra. Cuối cùng, một số sĩ quan đã bị kết án; cảnh sát trưởng, thành viên của hội đồng quân nhân, phải từ chức.

Tháng 8 năm 1985: Mười một đảng kí Hòa hợp Dân tộc vì Chuyển hóa sang Dân chủ Hoàn toàn, chiến lược cải cách chính trị từ từ thông qua việc đưa chế độ cùng tham gia, được Giáo hội Công giáo ủng hộ.

Tháng 1 năm 1986: Hội đồng Dân sự (Civic Assembly), liên minh các nhóm xã hội dân sự ủng hộ dân chủ bắt đầu hoạt động.

Tháng 8 năm 1986: Lực lượng an ninh phát hiện kho vũ khí lớn ở Carrizal Bajo; chính phủ tuyên bố rằng đó là âm mưu của phái tả nhằm lật đổ chế độ, đấy là cái cớ để tăng cường đàn áp và làm mất uy tín của phái cực tả.

Tháng 9 năm 1986: Du kích cánh tả định ám sát Pinochet, họ giết chết năm người. Cuộc tấn công này làm cho phe đối lập càng thêm chia rẽ về việc sử dụng bạo lực và tạo cớ cho chính quyền đàn áp.

Tháng 4 năm 1987: Giáo Hoàng John Paul II thăm Chile, Ngài lên tiếng chỉ trích chế độ độc tài và kêu gọi dân chủ.

Tháng 9 năm 1987: Chính phủ đề cử Pinochet làm ứng cử viên tổng thống cho cuộc trưng cầu dân ý năm 1988, hợp pháp hóa quảng cáo chính trị và bắt đầu đăng kí cử tri.

Tháng 1 năm 1988: Phe đối lập quyết định chiến đấu với cuộc trưng cầu dân ý, mặc dù có những lo ngại sự trung thực và thành lập Liên minh “Nói không” (Concertacion de partidos por el NO). Tính chuyên nghiệp của Liên minh này làm chính phủ phải ngạc nhiên và được quốc tế ủng hộ; đại sứ Mỹ và những người khác áp lực phải tiến hành trưng cầu dân ý một cách trung thực.

Tháng 10 năm 1988: Cử tri không chấp nhận cho Pinochet tiếp tục cầm quyền, với tỉ lệ: 56% phản đối, 44% ủng hộ. Chính phủ đàm phán với phe đối lập về những sửa đổi lặt vặt trong bản hiến pháp, nhưng vẫn khăng khăng đòi cho Pinochet làm tư lệnh Lục quân trong tám năm nữa và sau đó thì trở thành thượng nghị sĩ suốt đời.

Tháng 7 năm 1989:. Thay đổi hiến pháp được thông qua trong một cuộc bỏ phiếu tự do, sau cuộc đàm phán căng thẳng. Những cuộc cải cách đã làm thay đổi thủ tục tiến hành sửa đổi hiến pháp, hạn chế tình trạng khẩn cấp, để cho hiệp ước thay thế luật của Chile, mở rộng đa nguyên chính trị, nhưng vẫn bảo đảm quyền tự chủ của giới quân nhân.

Tháng 12 năm 1989: Chile tổ chức tuyển cử tự do. Liên minh Concertación por la Democracia, kế thừa của Liên minh “Nói không”, giành được đa số ghế trong Quốc hội. Patricio Aylwin, đảng viên Đảng Dân chủ Cơ đốc và người lãnh đạo Concertación, đánh bại Bộ trường bộ tài chính của Pinochet và giành được chức tổng thống.

Tháng 3 năm 1990: Chính phủ khởi động kế hoạch nhằm kết hợp chính sách kinh tế vĩ mô thời Pinochet với những biện pháp xóa đói giảm nghèo mới, cải cách thuế khóa, và tăng đầu tư công.

Tháng 4 năm 1990: Aylwin triệu tập Ủy ban Sự thật và Hòa giải để báo cáo về vi phạm nhân quyền dưới thới Pinochet. Báo cáo năm 1991 của Ủy ban này xác định có 2.279 vụ giết người có yếu tố chính trị.

Tháng 4 năm 1991: Thượng nghị sĩ Jaime Guzman, đồng minh của Pinochet, bị cánh tả cấp tiến ám sát. Những vụ bắt cóc và bạo hành nhắm vào phái hữu thúc đẩy quá trình phân cực trong xã hội và khuyến khích chính phủ củng cố các cơ quan tình báo.

Tháng 10 năm 1992: Sau khi hiến pháp được tu chính, những cuộc bầu cử đầu tiên – tính từ năm 1973 – ở các hội đồng thành phố được tổ chức.

Tháng 12 năm 1993: Liên minh Concertación của Eduardo Frei Ruiz-Tagle, một đảng viên Đảng Dân chủ Cơ đốc và là con trai của cựu tổng thống, được bầu làm tổng thống. Concertación tiếp tục kiểm soát Quốc hội.

Tháng 5 năm 1995: Manuel Contreras, cựu giám đốc tình báo, bị buộc tội âm mưu ám sát Letelier. Cuối cùng, ông ta bị kết án là đã có những hành động vi phạm nhân quyền nghiêm trọng.

Tháng 3 năm 1998: Pinochet từ chức tư lệnh Lục quân. Là cựu tổng thống, ông ta trở thành Thượng nghị sĩ suốt đời, được quyền miễn tố.

Tháng 10 năm 1998: Pinochet bị bắt ở London, theo lệnh quốc tế, do những vụ vi phạm nhân quyền. Chính phủ Frei yêu cầu dẫn độ về Chile và để quan tòa Chile xử ông ta.

Tháng 1 năm 2000: Ricardo Lagos, nhà lãnh đạo Liên minh trung tả Concertación, từng là Bộ trưởng Giáo dục dưới thời Aylwin, được bầu làm tổng thống.

Tháng 3 năm 2000: Pinochet được dẫn độ về Chile. Quốc hội cho ông ta quyền miễn tố nhưng cách chức thượng viện nghị sĩ. Nhiều vụ kiện phản đối vụ miễn tố này.

Tháng 5 năm 2004: Lagos triệu tập Ủy ban nhằm xác định và bồi thường cho những người đã bị giam cầm và tra tấn dưới thời Pinochet. Sáu tháng sau, cơ quan này đưa ra báo cáo.

Tháng 9 năm 2005: Quốc hội sửa đổi hiến pháp, loại bỏ các thượng nghị sĩ không do dân bầu và cho phép tổng thống quyền cách chức các chỉ huy quân đội và cảnh sát.

Tháng 1 năm 2006: Đảng viên Đảng Xã hội, Michelle Bachelet, đại diện cho Liên minh Concertación ứng cử viên và là con gái của một viên tướng từng phản đối Pinochet, được bầu làm nữ tổng thống đầu tiên của Chile.

Tháng 12 năm 2006: Pinochet qua đời ở tuổi 91, lúc chết vẫn là đối tượng của một vụ truy tố còn hiệu lực.

Tháng 1 năm 2010: Doanh nhân và chính trị gia trung hữu, Sebastian Pinera, được bầu làm tổng thống, đây là lần đầu tiên liên minh Concertación thua trong cuộc bầu cử tổng thống.

ĐỌC THÊM

Arriagada, Genaro. Pinochet: The Politics of Power. Boston, Mass.: Unwin Hyman, 1988. Do giám đốc điều hành Liên minh “Nói không” chấp bút.

Aylwin, Patricio. El Reencuentro de los Demócratas: Del Golpe al Triunfo del No. Santiago: Ediciones Grupo Zeta, 1998.

Aylwin, Patricio, Serrano Perez, Ascanio Cavallo, and Karin Niklander. El Poder de la Paradoja: 14 Lecciones Políticas de la Vida de Patricio Aylwin. Santiago: Grupo Editorial Norma, 2006.

Barahona de Brito, Alexandra. Human Rights and Democratization in Latin America: Uruguay and Chile. Oxford: Oxford University Press, 1997.

Bitar, Sergio. Transición, Socialismo y Democracia: La Experiencia Chilena. Buenos Aires: Siglo Veintiuno Editores, 1979.

Drake, Paul W., and Ivan Jaksic, eds. The Struggle for Democracy in Chile. Lincoln: University of Nebraska Press, 1991.

Fleet, Michael, and Brian H. Smith. The Catholic Church and Democracy in Chile and Peru.

Notre Dame, Ind.: University of Notre Dame Press, 1998.

Foxley, Alejandro. “Lessons from Chile’s Development in the 1990s.” In Development Challenges in the 1990s: Leading Policymakers Speak from Experience, edited by Timothy Besley and Roberto Zagha. Washington, D.C.: World Bank, 2005. By Christian Democratic think-tank leader and finance minister under Aylwin.

Garreton, Manuel Antonio. Reconstruir la Política: Transición Consolidación Democrática en Chile. Santiago: Editorial Andante, 1987.

Huneeus, Carlos. The Pinochet Regime. Boulder, Colo.: Lynne Rienner, 2007.

Lagos, Ricardo, with Blake Hounshell and Elizabeth Dickinson. The Southern Tiger: Chile’s Fight for a Democratic and Prosperous Future. New York: Palgrave Macmillan, 2012. By a former president and Concertacion leader.

Munoz, Heraldo. “Chile: The Limits of Success.” In Exporting Democracy: The United States and Latin America, edited by Abraham F. Lowenthal. Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1991.

Ominami, Carlos. Secretos de la Concertación: Recuerdos Para el Futuro. Santiago: Editorial Planeta, 2011.

Oxhorn, Philip. Organizing Civil Society: The Popular Sectors and the Struggle for Democracy in Chile. University Park: Pennsylvania State University Press, 1995.

Puryear, Jeff rey M. Thinking Politics: Intellectuals and Democracy in Chile, 1973–1988. Baltimore: Johns Hopkins University Press, 1994.

Silva, Patricio. “Searching for Civilian Supremacy: The Concertacion Governments and the Military in Chile.” Bulletin of Latin American Research 21, no. 3 (2002): 375–95.

Tironi, Eugenio, and Guillermo Sunkel. “The Modernization of Communications: The Media in the Transition to Democracy in Chile.” In Democracy and the Media: A Comparative Perspective, edited by Richard Gunther and Anthony Mughan. Cambridge: Cambridge University Press, 2000.

Valenzuela, J. Samuel, and Timothy R. Scully. “Electoral Choices and the Party System in Chile: Continuities and Changes


[1] Điều 8 hiến pháp năm 1980 của Pinochet nói rằng các cá nhân có thể bị coi là phải chịu trách nhiệm hình sự về những suy nghĩ của mình: “Các đảng chính trị và các tổ chức khuyến khích tư tưởng xét lại gia đình, ủng hộ bạo lực, hoặc là tuyên truyền các khái niệm toàn trị là vi hiến”; như vậy là nó cung cấp cho chính quyền cơ sở để tiến hành đàn áp, mà không cần các cơ quan tư pháp.

[2] Ủy ban Quốc gia về Tù Chính trị và Tra tấn, gọi là Ủy ban Valech, chủ tịch là giám mục Công Giáo, Sergio Valech, vốn là chủ tịch tổ chức nhân quyền có tên là La Vicaria de la Solidaridad, hoạt động dưới thời Pinochet.

Comments are closed.