Văn Việt: “Thơ Việt hải ngoại” thoạt đầu khởi đi từ văn học miền Nam, một nền văn học tự do trong điều kiện chiến tranh, được gầy dựng trở lại trên những xứ sở ngoài cội nguồn của nó, khác khí hậu, xa thổ nhưỡng, đã vượt qua những năm tháng khó khăn ban đầu. Nền thơ ấy về sau đón nhận thêm ảnh hưởng phong phú và phức tạp đến từ nhiều nguồn khác, trước hết và tất nhiên, một cách may mắn, thơ thế giới, rồi cũng không thể quên thơ trong nước, và đã bước dần, một cách chậm chạp nhưng chắc chắn, vào những mùa màng thuận lợi mới của nó. Để hoàn chỉnh khái niệm “Thơ Việt hải ngoại”, cũng không nên quên mảng thơ của các tác giả sống và viết tại các nước thuộc Liên Xô (cũ) và Đông Âu, mà âm hưởng chủ đạo vẫn là tiếp tục mạch thơ họ đã viết trong nước trước khi chuyển cư.
Tiếp theo phần 1, loạt bài nhận định “Bốn mươi năm thơ hải ngoại” của tác giả Nguyễn Đức Tùng, đã đăng năm kỳ trên Văn Việt từ tháng 3 năm 2015, chúng tôi xin giới thiệu phần 2, “Tác giả và Tác phẩm”, hay là “tuyển tập” Bốn mươi năm thơ Việt hải ngoại. Rõ ràng là còn lâu và thực sự rất khó có thể có một tuyển tập tiêu biểu và đầy đủ của Thơ Việt hải ngoại, nên chúng tôi chỉ mạnh dạn đề nghị ở đây một số nhà thơ được nhiều người nhắc đến, như chúng tôi được biết, mà chúng tôi có khả năng nhận diện.
Các nhà thơ được giới thiệu gồm nhiều người đã sáng tác khi còn ở trong nước, nhưng số đông còn lại thực sự được biết tới từ bàn viết hải ngoại. Thế hệ các nhà thơ mới dần dần vượt lên, tạo ra những tiếng nói riêng biệt. Cấu tạo phức tạp về dân số của cộng đồng người Việt hải ngoại được phản ảnh lên các nhà thơ với những xuất xứ và quan điểm xã hội, văn học, rất khác biệt. Nếu có một sự tương tự lớn nhất giữa các nhà thơ này, như bạn có thể thấy, thì sự tương tự ấy dựa trên những điểm sau đây: lòng yêu quê hương, lòng yêu tự do, và sự khao khát làm mới ngôn ngữ và nghệ thuật.
Nhân đây chúng tôi xin bày tỏ lòng biết ơn đến các nhà thơ và các nhà nghiên cứu, hải ngoại và trong nước, đã hết lòng ủng hộ, khuyến khích và cộng tác với chúng tôi trong dự án nhỏ này.
Văn Việt xin hân hạnh giới thiệu “tuyển thơ” hải ngoại, mỗi tuần một tác giả, vào các ngày Chủ nhật. Mở đầu là nhà thơ Trần Mộng Tú từ Hoa Kỳ.
NHÓM BIÊN TẬP MỤC THƠ VIỆT HẢI NGOẠI TRÊN VĂN VIỆT
THƠ TRẦN MỘNG TÚ
Trần Mộng Tú sinh năm 1943 tại Hà Đông, di cư vào miền Nam năm 1954 và di cư sang Mỹ năm 1975.
Được cho là “nhà thơ nữ được biết đến nhiều nhất ở Hải ngoại”(Vĩnh Hảo.info) nhưng Trần Mộng Tú không chỉ làm thơ. Bà viết báo, viết tản văn, truyện ngắn và truyện cho thiếu nhi (song ngữ). Trần Mộng Tú là nhà thơ Việt Nam đầu tiên có thơ trong sách giáo khoa văn chương hệ Trung học của Mỹ (Bài thơ Kỷ niệm chiến tranh), do Nhà xuất bản McGraw Hill ấn hành năm 1999.
Từ 1990 đến nay Trần Mộng Tú đã đều đặn cho ra đời các ấn phẩm: Thơ Trần Mộng Tú, NXB Người Việt, 1990; Câu chuyện cùa lá phong (tập truyện), NXB Người Việt,1994; Để em làm gió (thơ), NXB Thế kỷ 21, 1996; Cô rơm và những truyện ngắn khác (tập truyện, NXB Văn nghệ, 1999; Ngọn nến muộn màng ( tập thơ, NXB Thư hương, 2005; Mưa Sài Gòn mưa Seattle (tập truyện) NXB Văn mới, 2006; Vườn Măng cụt (Truyện ngắn và tản văn), NXB Văn mới, 2009; Thơ tuyển 40 năm, Tác giả xuất bản, 2009.
Theo nhà thơ Vĩnh Hảo:”Ngôn ngữ thơ Trần Mộng Tú chuẩn mực, nghiêm túc, giống như ngôn ngữ của một nhà giáo, cân nhắc từng lời mình buông ra. Dù vậy, nhà thơ vẫn không giấu được một khối tình cảm đầy ắp ở bên trong. Đầy mà không tràn. Tình yêu cũng chuẩn mực như chính ngôn ngữ của cô hay đúng hơn ngôn ngữ đã được chuẩn mực hóa như tình yêu của cô: vừa phải, chừng mực nhưng không kém vẻ sâu sắc, ý vị” (nguồn đã dẫn). Nhà phê bình Phạm Xuân Đài, khi viết bài điểm sách cho Thơ tuyển 40 năm của Trần mộng Tú đã cho rằng hành trình thơ của bà là “Hành trình của một người đàn bà Việt Nam, đi ra từ đau khổ của chiến tranh, và trải nghiệm đời mình như một chứng tích qua một thời gian dài cầm bút làm thơ”.
Trong khi đó, nói về thơ, về việc làm thơ, Trần Mộng Tú đã có những dòng thơ sâu sắc: “…Tôi làm thơ nghĩa là tôi hát một bài hát mà không cần giọng kim, giọng thổ. Tôi vẽ một cây cầu vồng mà không cần đến những ống màu bảy sắc khác nhau… Tôi làm thơ nghĩa là tôi chúc tụng Hạnh phúc mà không cần phải đi dự tiệc tân hôn, ai điếu lòng người mà không cần phải đến nghĩa trang…” (Luanhoan.net)
Và bà “Mời bạn hãy bước vào cánh đồng thơ tôi, tuy chưa được mênh mông, bát ngát nhưng xin bạn hãy cẩn thận vì cánh đồng thơ tôi không có hàng rào…”
Văn Việt trân trọng mời quý độc giả đọc một số bài thơ của Trần Mộng Tú viết trong thời gian đến và sống tại Mỹ.
Thi sĩ và chiến tranh
Sáng nay bên đường có bụi hoa vàng Daffodil nở
gương mặt hoa trông giống gương mặt trẻ thơ
cánh hoa như con mắt thuôn dài ngơ ngác mở
tôi vừa lái xe ngắm hoa vừa nghe phát thanh
về chiến tranh
Tôi sinh ra từ nơi có chiến tranh
tôi lăn tròn sau chiến tranh như viên đá cuội
cái lăn cuối cùng thật rất đỗi xa
ngoảnh mặt lại quê nhà thăm thẳm
Tôi vừa lái xe vừa nghe nói chiến tranh chỉ còn
hai giờ nữa
cứ tưởng tượng những khuôn mặt như hoa Daffodil vừa nở
mầu vàng tươi sẽ loang lổ đỏ
những con mắt đẹp như cánh hoa
sẽ khép lại không bao giờ mở nữa
Tôi không biết phải làm thế nào cho đúng
có người dậy tôi Muốn có hòa bình phải có
chiến tranh.
người khác rủ tôi làm thơ phản chiến
cả hai cùng đúng cùng sai
Ôi cuộc chiến nào được gọi là cần thiết!
Có trận đánh người ta bảo chỉ hai ba ngày là kết thúc
nhưng nó đã kéo dài gần hai mươi năm
nó biến những cánh đồng hoa vàng thành nghĩa trang liệt sĩ
để an ủi nó dựng thêm bức tường đá đen rồi lại cắm hoa vàng
Tôi đã là nạn nhân của cuộc chiến trên quê hương tôi
và tôi không phải là nạn nhân duy nhất
trên quê tôi mùa chiến tranh kéo dài như vô tận
mầu đỏ nhuộm cánh đồng vàng hoa đến tận chân trời
Những khuôn mặt hoa, những cánh hoa mắt thuôn dài
đã nhắm lại dưới bàn tay mẹ vuốt
Tôi lái xe trở về ngôi nhà trên đồi
ở đó tôi có thể nhìn lên tận đỉnh núi
những đám khói xanh bốc lên rất mơ hồ
tôi nghe lòng mình nặng trĩu.
Tháng3/10/2003
(Ngày cuộc chiến Iraq bắt đầu)
Tiếc thương
Anh ơi!
Đọc hàng chữ Nghĩa Trang Quân đội
trên những trang báo viết bằng tiếngViệt Nam
nhìn tấm hình bức tượng người lính trước nghĩa trang bị kéo xuống
mặt úp vào mặt đất
trái tim em ai xé ra trong ngực
niềm xót thương nghẹn cứng không lời
Ôi người lính miền Nam
anh đã sống hết một đời cho tổ quốc
anh chết chưa kịp yêu cho riêng mình
anh còn bận lòng yêu đất nước
anh chết trước cha già
anh chết trước mẹ già
anh chết trước khi kịp về nhìn cây lựu ra hoa
anh chết trước khi biết là mình chết trẻ.
Ôi những tướng, tá miền Nam
Người nằm trong nghĩa trang này cùng với lính của mình
những huy chương nào gắn trên áo trận
nhành dương liễu nào trên mộ bia
giải khăn tang nào cho con, tặng vợ
ai vuốt mắt Người như khép vì sao khuya
Em đi trong nghĩa trang
em vòng qua mộ chí
làm sao em đếm hết những hàng bia
làm sao em thắp nến
làm sao em đốt nhang
làm sao em chia nước mắt mình thành mười sáu ngàn giọt lệ
nhỏ trên những nấm mồ đổ nát
đã thành những ụ đất hoang
Em gọi mưa trên trời rơi xuống
Trời khóc thương anh khóc thương em
Trời khóc thương cho cả hai miền
Trời khóc thương người mẹ quê miền Bắc
sống cô đơn trong túp lều mục nát
thương những người con đi xẻ Trường Sơn
một ngày, mẹ nhận được mảnh giấy Ghi Ơn
và xác con mất tích
hòa bình rồi, mẹ chống gậy khom lưng
đi hỏi từng người Đài Tổ Quốc Ghi Ơn
Trời khóc thương cho người mẹ miền Nam
con chết trận
con chết tù
cả hai con cùng mất mộ
chiếc nôi cuối của một kiếp người
hiến cả đời cho đất nước
ai nỡ đập vỡ đi
Anh ơi!
Hãy cầu xin bằng ngàn giọt lệ
cho những người đã nằm trong đất
những người lính trận của hai miền
họ sống anh hùng và chết bình yên
đất ôm họ bằng vòng tay người mẹ
Đất nước mình sao buồn bã thế
tiếng súng ngưng lâu lắm rồi
sao khói súng còn bay!
Tháng 6/2007
Vết thương
Anh ạ! tháng tư mềm nắng lụa
hoa táo hoa lê nở trắng vườn
quê nhà thăm thẳm sau trùng núi
em mở lòng xem lại vết thương
Năm tháng trôi qua quên đếm tuổi
soi gương mắt đã rạn chân chim
em nhuộm nỗi buồn như nhuộm tóc
vết thương đóng vẩy nhói trong tim
Tháng tư ngàn cánh hoa đào nở
gió thổi hồng bay một khoảng trời
còn nhớ không anh ngày tháng đó
từng mảnh quê mình lệ máu rơi
Tháng tư mây trắng bay vào cửa
gom mây vá lại những mảnh sầu
vết thương năm đó chưa lành chỉ
hãy còn làm độc đến bao lâu
Anh ạ! tháng tư sương mỏng lắm
sao em nhìn mãi chẳng thấy quê
hay sương thành lệ tra vào mắt,
mờ khuất trong em mọi nẻo về.
1991
Viết trong đêm
Anh ạ
Có những đêm
chợt thức
em thấy anh
là một dòng sông ở quê hương
con nước
vỗ hoài
vỗ hoài
những đợt sóng buồn
làm sụp lở
bờ ngực em còm cõi
Có khi
em thấy anh
là viên sỏi nhỏ ở quê hương
nằm vướng hoài giữa kẽ chân em
để bây giờ
trên bất cứ
một con đương bằng phẳng nào
em đi qua
vẫn chỉ là những bước chân
khập khưỡng
Có khi em thấy
anh là mùa mưa ở quê hương
cứ
giọt gianh hoài
trong trái tim em
làm
soi mòn
một góc hiên hạnh phúc
Có khi em thấy anh
là con chim cuốc cuốc ở quê hương
hót ra rả
từng đêm
từng đêm
trong cuống họng em
để sáng ra
em thấy
cổ mình rớm máu
Anh thân yêu
đêm qua chợt thức
em bỗng
hiểu ra
anh chính là
người tù cải tạo
người chồng H.O
là tất cả quê hương dấu yêu
mà
bấy lâu nay
em hằng thiếu thốn.
Tháng 3/1992
Tháng Tư sừng sững đứng
Tôi thức dậy trong đêm
gió đập ngoài cửa sổ
đồng hồ một giờ sáng
đêm đã bước qua ngày
con số 30 gẫy
Tháng tư từ từ rơi
nốt giọt thời gian cuối
Tôi căng mắt nhìn đêm
đêm như những thước phim
quay rã rời từng khúc
kín mít căn buồng nhỏ
đoàn người như con rối
chạy đâm xầm vào nhau
âm thanh của phim câm
trùng trùng cơn phẫn nộ
máu chẩy trong bóng đêm
bầm một màu đen tím
lửa cháy trong bóng đêm
lan ra từng con hẻm
lửa ghé vào căn nhà
thằng bé như ngọn đuốc
Tôi căng mắt nhìn đêm
bỗng nghe tiếng súng nổ
từng tiếng một lạnh lùng
như có ai đang đếm
mỗi viên đạn bay ra
có cả mẹ cả cha
ngã chồng lên con trẻ
họ chọn chết như thế
giữa một ngày tháng tư
Tôi căng mắt nhìn đêm
đêm như cánh buồm đen
kéo người ta ra biển
biển nhận họ chìm lỉm
biển hắt họ lên bờ
họ tan như ốc vỡ
sóng như giải khăn sô
Tôi căng mắt nhìn đêm
Tháng Tư sừng sững đứng
với tất cả oan khiên.
1 giờ sáng ngày 30/4/2012
Thơ viết trên một phần thân thể
tôi viết những câu thơ trên
trái tim mình
trái tim tôi là một ngôi làng ngoài tổ quốc
ngôi làng bị nổ tung bởi những mảnh chữ bắn ra từ quê nhà
những tin tức như hỏa tiễn của thời huynh đệ tương tàn
trái hỏa tiễn một buổi chiều rơi xuống
giữa mâm cơm
thịt em trộn lẫn vào những miếng thịt trên đĩa
máu mẹ thêm vào cùng với bát canh
anh cúi xuống chan canh gắp thịt
trái tim tôi là một thửa ruộng ngoài tổ quốc
thửa ruộng bị cầy nát bằng những chữ …..cướp nhà, chiếm đất, tước đoạt tự do của con người
mỗi con chữ trông cong như một lưỡi cầy
trái tim tôi là một vùng biển ngoài tổ quốc
dòng nước biển đổi mầu từng khúc một
như máu đỏ máu đen chảy qua tim
như khi kẻ cướp đem cờ cắm trên từng khoang biển để đoạt bến chiếm thuyền
người bị mất vẫn cúi đầu im lặng
trái tim tôi là một trái tim Việt Nam tự do
bên ngoài tổ quốc
đang đi tìm nhặt tự do của dân tôi bên trong tổ quốc
trên khung điện toán mỗi ngày
tôi nhìn thấy một mảnh tự do
đang bị kéo lê trên phố
một mảnh tự do viết trên biển ngữ
bị xé rách làm đôi vứt ở vỉa hè
chữ tự và chữ do lăn về hai phía khác nhau
tôi nhìn thấy năm ba mảnh tự do lẫn trong tóc xanh tóc bạc
đang bị một đám người hung hãn cuốn lôi đi
cuốn đi đâu trái tim tôi không đuổi kịp
tự do trên quê tôi là một điều không bắt được
tôi đứng bên này vọng nhìn tổ quốc bên kia
cây thánh giá trên ngực tôi đeo
nghiêng về một phía
về phía nào cũng làm chảy máu trái tim.
Vết thương nội chiến
Trên chiếc xe ca đó
nhồi nhét bao con người
đi tìm vùng đất hứa
có đàn ông đàn bà
có người già em bé
xác thân đã nẫu chín
thành nước và bốc hơi
ứa ra cùng hy vọng
nhỏ giọt xuống mặt đường
giọt chảy như giọt lệ
ướt sũng thềm lưu vong
Như những tảng băng đen
Lênh đênh Địa Trung Hải
gần năm trăm con người
và năm mươi xác thối
ôm nhau kéo lên bờ
Em bé Syria
Em chết như cá chết
xác nằm như cá ươn
tôi nghe mà nhỏ lệ
tôi nghe mà xót thương
những thân xác da đen
nhuộm đen vùng biển mặn
cánh tay nào giơ lên
vẫy vào bờ tuyệt vọng
Tôi cũng có lịch sử
của dân tộc lưu vong
có trăm ngàn xác trôi
theo con tàu đã đắm
tôi cũng có mẹ cha
kéo lê đường biên giới
tôi cũng có người con
sống biệt tăm dấu vết
Tôi cũng có nội chiến
đồng chủng bắn giết nhau
đạn bom như đồ chơi
chiến tranh như hoạt họa
bốn mươi năm đã qua
tiếng đạn bom đã ngưng
máu vẫn còn rỉ rả
em chết như cá chết
nằm ươn trên bến người
Ôi bà mẹ Syria
bà chết như gia xúc
nằm toi trong xe ca
Ôi tất cả chúng ta
người chết và kẻ sống
mang một kiếp lưu vong
trừng mắt trong đêm đen
nhìn vết thương nội chiến.
Tháng 8/30/2015
(*) Nguồn trên mạng – Syria bước vào năm thứ năm của cuộc nội chiến.Từ tháng 3-2011 đến tháng 1-2015, Liên Hiệp Quốc phỏng định có 220,000 người bị giết.
Hãy tưởng tượng ra em
Hãy tưởng tượng ra em
ở một căn nhà lạ
mình em một ngôn ngữ
mình em một mầu da
mình em một mầu mắt
mình em một lệ nhòa
Hãy tưởng tượng ra em
ở nơi không định tới
em tủi như chim khuyên
khóc trong lồng son mới
Hãy tưởng tượng ra em
ở một vùng đất mới
em như hoa sầu đông
khóc mùa xuân không tới
Hãy tưởng tượng ra em
ở một thành phố khác
em buồn như nước sông
khóc chia dòng tan tác
Hãy tưởng tượng ra em
một đời sông cát lở
một cuộc tình hư hao
một hồn đầy mảnh vỡ
Em không còn là em
xin chàng đừng yêu nữa.
6/ 1975
Bỏ Cuộc
Gã da vàng xuống phố
Đi tìm nhặt mặt trời
Mặt trời trốn cao ốc
Không có mảnh nào rơi
Gã da vàng xuống phố
Đi tìm nhặt tiếng cười
Gã moi gan rao bán
Không ai nhập cuộc chơi
Gã da vàng xuống phố
Đi tìm nhặt tình yêu
Gã moi tim rao tặng
Người quay mặt, lắc đầu
Gã da vàng xuống phố
Đi tìm một mái nhà
Gã gõ từng cánh cửa
Người mở khác màu da
Gã da vàng bỏ cuộc
Trở về giòng sông xưa
Giòng sông con nước cạn
Gã chết đuối trên bờ
(Thơ Trần Mộng Tú, Người Việt 1990)
Về một địa chỉ mới
Gửi Mai Thảo
Anh đi à
Ừ đi
Anh đi thật à
Ừ đi thật
Sao anh hay đi thế
Đâu có hay đi từ năm 1982 đến nay anh vẫn ở đây
Không em nói từ năm 1954 cơ từ khi dọn vào trong Nam
anh dời đổi biết bao nhiêu chỗ khác nhau rồi
Lần này thì khác chỗ này là chỗ cuối
Có xa không anh
Cũng chưa biết rõ nữa
Chưa biết rõ sao lại đến
Thì cũng phải đến chứ chỗ cuối mà xa gần gì
mình cũng đến được
Em tiễn anh một quãng được không
Được nhưng khi nào anh rẽ ở khúc quành em chỉ nên đứng nhìntheo
đừng gọi với để anh đi khỏi bận lòng
Anh có chắc là về chỗ ở mới anh vui hơn ở đây không
Anh không biết rõ sẽ hỏi những người bạn đã dọn đến trước anh
Thế liệu anh có nhớ những người bạn còn ở địa chỉ cũ không
Đến một lúc nào đó có thể chúng ta sẽ quên hẳn nhau
làm sao mà giữ mãi được một liên hệ không còn hiện hữu nữa.
Anh nói nghe buồn quá!
Em biết rồi mà người ta chỉ giữ được những vật cổ ở trong BảoTàng Viện
không giữ được tình cảm ở trong một cái hộp kín rồi đem cấtvào đó
Tình cảm như hơi nước theo thời gian sẽ bốc hơi và bay đi
Thế người ta có cất văn chương vào Bảo Tàng Viện không
Có sau khi đã gạn đục khơi trong
Người ta chỉ cất đi những viên ngọc chứ không ai giữ nhữnghòn sạn
Anh à chỗ anh sắp đến có rộng hơn căn phố một buồng của anhbây giờ không
Có bao giờ anh cần một chỗ rộng hơn đâu
Có vườn cỏ non không anh
Tháng Giêng thì bao giờ cũng ở ngay trong tâm mình
Ở đó có rượu cho anh uống không
Bạn bè chắc sẽ thỉnh thoảng rưới lên anh
Anh à
Thôi em đừng hỏi nữa anh đi đây
anh sẽ rẽ ở khúc quành đằng kia
Và em không được gọi anh quay lại phải không
Khá lắm! Thôi anh đi nghe
Vâng, anh đi em sẽ không gọi với
theo anh.
Người đàn ông quay lưng lại đi về phía trước dáng ông caothẳng
hai tay buông xuôi
Ông đi thung dung về một địa chỉ mới.
Jan 10, 1998
Chia nhau Hà Nội
Em gửi cho anh
chiếc lá bàng cuối thu Hà nội
hồi chuông giáo đường
buổi sớm tinh mơ
góc phố Nhà Chung có bầy sẻ nhỏ
một con rất gầy
đứng hót ngu ngơ
Em gửi cho anh
tơ tầm mới dệt
giăng từ Hàng Đào đến phố Hàng Bông
khúc lụa trắng ngả sang
mầu nguyệt bạch
sợi dệt ngang như mây vắt
trăng rằm
Em gửi cho anh
ly cà phê buổi tối
mùi ngô non
nướng dưới cột đèn
mảnh than nhỏ sưởi mùa thu
sắp hết
hơ gót chân ai
hồng giữa phố đêm
Em gửi cho anh
chiếc kiềng bạc trạm
đang khoe mình
làm mới phố Hàng Gai
ảnh mẹ chụp mấy mươi năm về trước
cổ có đeo
một chiếc giống thế này
Em gửi cho anh
đất trời Hà nội
để anh nhớ về thành phố
tuổi thơ
nơi hạnh phúc là một viên kẹo bột
được bạn chia cho trong một lúc
không ngờ
Em chỉ giữ cho em
những con ngõ hẹp
những bàn chân vội vã
dẫm lên nhau
những cánh cửa bàn tay ai quên mở
rặng sấu già nua
đứng lặng lẽ cúi đầu.
Em gửi cho anh cả
trái tim Hà nội
Xin anh cất vào chỗ giấu
trái tim em.
Hà Nội, cuối thu 2000
Hạt bụi
Tôi đón xuân một mình
căn nhà bỗng rộng quá
căn nhà rộng mênh mông
tôi thấy tôi bé tí
Tôi bé như hạt bụi
bay quanh những cánh hoa
tôi bé như hạt bụi
rơi vào trong tách trà
Ôi hạt bụi bé tí
dính vào chiếc bánh chưng
hạt bụi dạo một mình
trên thảo nguyên xanh ngát
Ôi hạt bụi khờ khạo
trốn trong đĩa dưa hành
đợi đũa ai đến gắp
một miếng tình còn xanh
Ôi hạt bụi ngơ ngác
lạc trong đĩa cá kho
theo cá vào muôn sóng
bơi mãi không tới bờ
Ôi hạt bụi thầm lặng
nằm trong đáy lư hương
hạt bụi hóa đâu mất
sợi khói nào còn vương
Tôi đón xuân một mình
biết tôi là hạt bụi.
2007
Mẹ mở lòng ra
Cho con gái Khả Tú
Trong trái tim mẹ có ngăn nhỏ
Vừa khít khao đủ chỗ con nằm
Những khi con chán khung trời rộng
Mẹ mở lòng ra một góc chăn
Trong trái tim mẹ có đốm lửa
Cháy liu riu một mảnh than hồng
Mẹ gom tóc trắng như gom củi
Dự trữ cho con những ngày đông
Mẹ có đôi tay đủ một vòng
Ôm con như một sợi giây cung
Mũi tên con bay vào khoảng trống
Lòng mẹ rung theo sợi giây chùng
Mẹ có đôi chân gầy theo tuổi
Không thể cùng con chạy điền kinh
Mẹ đi dẫm trước dùm con nhé
Những cành gai viên sỏi vô tình
Những áng mây bay qua trí nhớ
Tuổi đời như lá quét trong vườn
Mẹ nghiêng thân mỏng nghe hướng gió
Tà áo con bay lộng mười phương.
Trong suốt
Tôi bắt đầu tháo bỏ chàng
như tháo đôi hoa ra khỏi tai
tháo từng chiếc
từng chiếc một
hai tai đã khỏa thân
Tháo sợi dây chuyền ra khỏi cổ
chiếc cổ gầy chàng đã cúi xuống hôn
sợi dây chuyền lấy ra nụ hôn vướng lại
Chàng bảo hãy cởi anh ra khỏi em
như cởi áo
tôi mở từng chiếc khuy
tôi treo chàng lên mắc
tôi đi tới đi lui trong phòng
ngực lạnh
vai lạnh
hai tay lạnh
tôi lại mặc chàng vào
Anh đang ở trong đôi giầy
em bỏ giầy ra
tôi quăng giầy thật xa
còn hai bàn chân nhỏ
hai bàn chân trần
đặt trên mặt đất
mỗi ngón chân như một câu thơ
làm sao vứt
Anh nằm trong thỏi son
em đừng tô môi nữa
tôi chạm ngón tay mình lên môi
nụ hôn chàng còn đó
Tôi đi rót cốc nước
nâng chiếc ly lên nhìn
thủy tinh
trong suốt
ngửa mặt uống cạn chàng
ném chiếc ly qua cửa
tình bay vào không gian
Tháng 7/2006
Bốn mươi năm đợi
Trên biển mặt trời chết chiều nay
mai từ biển mặt trời sống lại
bốn mươi năm em ở nơi này
nhìn mặt trời chết đi sống lại
mỗi một năm thay đổi thịt da
em theo thời gian về phía trước
bỏ lại sau lưng những ngôi nhà
ghép từng mảnh những điều mơ ước
khu vườn mới tìm viên sỏi cũ
nhặt giữa xanh rêu tiếng thở dài
em hỏi bàn tay còn vết xước
bốn mươi năm da đóng vảy chưa
người về quê trách song bội bạc
thiếu nữ trôi theo đám lục bình
tắp ở khúc nào không ai biết
hỏi bờ, bờ giấu mặt lặng thinh
bốn mươi năm người thân sót lại
mỗi năm nằm xuống một đôi người
như bàn tay mất dần từng ngón
còn ngón nào che mặt hổ ngươi
bao lần vừa đi vừa ngoảnh lại
bàn chân phía trước vẫn bước đều
em đi hoài không biết đi đâu
những con đường mưa như mắt đỏ
những hàng thông lá như lệ xanh
trái tim em mỗi ngày vẫn đập
có lúc bi ai lúc nồng nàn
thành phố đã một phần da thịt
như con bò trên đồng cỏ mới
em nằm nhai lạinắm rơm khô
nắm rơm giấu bốn mươi năm cũ
vừa nhai vừa khóc nhớ quê xưa
như những người du mục tha phương
tìm nơi khuất gió gửi bàn chân
những ngón chân một thời rất lạnh
tình ai đã mở một góc chăn
bốn mươi năm em đợi tiếng chuông
ở một ngôi chùa nào xa lắm
ở một giáo đường không hình bóng
tiếng chuông khua thức những cơn mê
bốn mươi năm em chờ tiếng gọi
như sóng ngàn đêm gọi thuyền về
cả thuyền cả sóng tan như bọt
bãi nằm thấm mãi nỗi đau tê
bốn mươi năm trên miền đất này
đời luôn đẩy em về phía trước
nắng bao dung và gió nhân từ
sợi tóc xanh một ngày bỗng trắng
bốn mươi năm trên miền đất này
mặt trời chết không ai đau đớn
trên những cánh đồng vẫn nở hoa
đón sáng mai mặt trời sống lại
bốn mươi năm ngày em bỏ đi
mặt trời cũng chết chiều hôm đó
những vốc lệ trời như máu nhỏ
những tiếng cười nhuộm đỏ vết thương
bốn mươi năm em đứng nơi này
chờ mặt trời trên quê sống lại
em sẽ về đánh luống yêu thương
trồng xuống những trái tim nhân ái
Viết cho tháng 4/2015