Lê Hồ Quang
Có thể hình dung về thơ Ý Nhi như một hành trình truy vấn tinh thần mà trong đó, cái tôi nhà thơ, lặng lẽ nhưng quyết liệt và bền bỉ, không ngừng tự ý thức nhằm tìm kiếm cái “bản lai diện mục” của tâm hồn. Dĩ nhiên, đi cùng óc phân tích tỉnh táo ấy còn là một tâm hồn phụ nữ nhạy cảm và giàu lòng trắc ẩn. Chính điều này đã tạo nên chất “duy lí” độc đáo của thơ Ý Nhi giữa một nền thơ Việt hiện đại (nhất là thơ nữ) vốn nặng chất “duy tình”, “duy cảm”. Chất triết lí ấy tạo nên nét riêng trong thơ tác giả: không lạm dụng các mĩ từ kêu vang, nó toát ra từ một cái nhìn nội tâm trầm tĩnh, sâu sắc nhưng đầy khắc khoải của một con người trên hành trình tìm kiếm ý nghĩa của cuộc đời mình.
Trong thơ Ý Nhi, chủ thể trữ tình thường xuất hiện ở ngôi đại từ nhân xưng thứ nhất – Tôi, với một tâm thế đối thoại trực tiếp, tự nhiên và giản dị:
Tôi làm ra bài ca
tự mình tôi hát
tự mình khổ đau
tự mình hạnh phúc
tôi một mình lặng bước tới trùng khơi
(Gửi một người bạn đọc)
Đấy là hình tượng “người đàn bà tìm về kết cục”, với cái nhìn độ lượng về quá khứ, rạch ròi vào hiện tại và khắc khoải, lo âu về tương lai. Không còn những niềm vui bồng bột, những ảo tưởng ngây thơ và dễ dãi thời tuổi trẻ, người đàn bà ấy ý thức rất rõ rằng mình “đang đứng kề bên giới hạn của mình” và do đó, “không còn nhiều thời gian do dự/ không còn nhiều thời gian cho sai lầm”. Chị khao khát sự bình yên, nói chính xác hơn là sự yên tĩnh, như “cái đích sau cùng của mọi lối ta qua”, song, lại vẫn hiểu rằng, trong sâu xa, tâm hồn mình vẫn đang đầy những “xao động cuộc đời”.
Với Ý Nhi, những xúc cảm nồng nhiệt dường như luôn đi cùng ý thức tiết chế, ngọn lửa đam mê luôn song hành cùng niềm kiêu hãnh, sự truy vấn tỉnh táo, rạch ròi được nhìn nhận trong sự thấu đáo và cận nhân tình. Điều này cho phép tác giả dễ dàng khách quan hóa thế giới nội tâm và nhìn thấu sự “giản đơn và rối ren, lớn lao và cạn hẹp” trong chính mình. Nó cũng tạo ra một độ lùi chiêm nghiệm trong cách mô tả đời sống của tác giả, cho dù viết về những vấn đề thời cuộc nóng bỏng hay những tâm sự sâu kín, riêng tư. Song, cũng vì vậy mà thơ Ý Nhi thường nghiêng về những nỗi ưu tư nghiêm trang, đôi khi trĩu nặng nỗi niềm. Nó thiếu vắng một chút tếu táo, hài hước, hay bông lơn như trong thơ của một số tác giả thuộc thế hệ trẻ hơn, chẳng hạn Phan Thị Vàng Anh, Phan Huyền Thư…, điều có thể khiến mọi chuyện đôi khi trở nên giản đơn, nhẹ nhõm.
Cũng giống như người bạn thân thiết, nữ thi sĩ Xuân Quỳnh, Ý Nhi nhận thấy trong tâm hồn mình, những trạng thái cảm xúc đối lập mạnh mẽ luôn song song tồn tại. Nhà thơ từng nói rất hay về điều này qua bài thơ Người đàn bà ngồi đan:
Giữa chiều lạnh
một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ
vẻ vừa nhẫn nại vừa vội vã
nhẫn nại như thể đó là việc phải làm suốt đời
vội vã như thể đó là lần sau chót.
…
Trong mũi đan kia ẩn giấu niềm hân hoan hay nỗi lo âu
trong đôi mắt kia là chán chường hay hy vọng
…
Giữa chiều lạnh
một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ
dưới chân chị
cuộn len như quả cầu xanh
đang lăn những vòng chậm rãi
Với Xuân Quỳnh, việc ví tâm hồn như con sóng “dữ dội và dịu êm/ ồn ào và lặng lẽ” chủ yếu xuất phát từ cái nhu cầu thổ lộ những cảm xúc mãnh liệt nội tâm hơn là mục đích truy cầu một sự phân tích, lí giải thấu tỏ về thế giới đó. Còn với Ý Nhi, cái khát khao được “nghĩ”, được “hiểu” dường như là thường trực và nhu cầu giãi bày cảm xúc thường nhường chỗ cho ý thức tự phân tích. Sự “tự họa” phổ biến trong thơ tác giả này không nhằm để ve vuốt hay tự tô vẽ mà nhiều khi chính là một hành động “tự vấn” lương tri và cuộc đời quyết liệt. Do vậy, nếu Xuân Quỳnh khao khát hướng tới cuộc sống đời thường với điểm tựa bình yên là mái ấm gia đình, thì với Ý Nhi, hướng ngoại dường như chỉ là giải pháp giúp nhìn sâu hơn vào thế giới nội tâm “đơn độc và kiêu hãnh”. Nhà thơ không ngần ngại khi “tự trình bày” bằng những đường nét thẳng thừng, gai góc, không tô vẽ và có thể làm giật mình ai đó bởi tính “đối mặt” dứt khoát và không khoan nhượng của nó:
Tôi không ưa đồ trang sức
kể cả nhẫn, vòng và các chức danh
…
Tôi rất ít bạn
đôi khi tôi mất họ vì một lẽ nào đó
ngoài 30 tuổi tôi không tìm thêm bạn mới
và không thường giao du với các đồng nghiệp
…
Tôi ngại các tiệc vui
nhiều khi tôi khóc vì chính cái khiến những người xung quanh tôi vui sướng
và lại muốn thét lên khi mọi người yên lặng.
(Tiểu dẫn)
Không đơn thuần chỉ là sự khẳng định cá tính, Tiểu dẫn chính là một triết lí sống rõ ràng, sòng phẳng, thậm chí đầy thách thức. Nó thể hiện khát vọng về một cuộc sống lí tưởng mà ở đó, mỗi cá nhân phải có ý thức vượt lên thói quen “đồng phục tinh thần” để suy nghĩ, hành xử một cách độc lập và có trách nhiệm. Với Ý Nhi, nhiều khi, khát vọng ấy đã trở thành một nỗi dày vò cuồng nộ, khiến tác giả chỉ “muốn thét lên khi mọi người yên lặng”.
Nhưng thơ Ý Nhi còn là một thế giới tâm nội tâm hết sức phức tạp mà nổi bật là cảm giác bất an và lo âu. Nỗi niềm “xao xác trước ngày yên” gần như xuyên suốt trong thơ Ý Nhi như một motip chủ đề nổi bật. Có thể “nhặt” ra rất dễ dàng những câu thơ đầy ám ảnh viết về nỗi lo âu, chẳng hạn: Tôi không sao tránh được lo âu trước mỗi độ thu/ Trước chiếc lá chợt ánh vàng/ Trước ngọn gió may/ Và chân trời xám bạc (Mùa thu); Trong mũi đan kia ẩn giấu niềm hân hoan hay nỗi lo âu/ Trong đôi mắt kia là chán chường hay hy vọng (Người đàn bà ngồi đan); Trong ánh rực rỡ của biển chiều/ Chỉ còn lại nỗi lo âu vẫn theo ta như chiếc bóng/ Không thể nắm giữ/ Cũng không thể lìa bỏ (Biển chiều); Thôi từ biệt/ Vầng sáng lo âu của ngọn đèn bàn/ Và gương mặt thân yêu/ Vừa gần gụi/ vừa xa vời/ Trong giấc mơ hạnh phúc (Thơ tặng Êlêna); Tưởng có thể òa vỡ/ Trong sớm thu này/ Nỗi lo âu đã bao ngày dồn chứa (Không đề)…
Trước hết, ấy là nỗi lo âu xuất phát từ một tâm hồn nặng lòng với cái Đẹp, với những giá trị tinh thần cao quý trong cuộc sống; luôn khao khát tìm kiếm và hướng đến “những gì trong sạch/ những gì như mùa thu”, và do đó, đặc biệt nhạy cảm trước sự hiếm hoi, mong manh, “xa xỉ” của chúng trong một môi trường xã hội luôn chỉ chực lật nhào mọi giá trị tinh thần, hoặc bởi lối sống vô cảm, thờ ơ, hoặc bởi những thói quen thời thượng, xô bồ, thực dụng. Vì vậy, thiên nhiên trong thơ Ý Nhi không chỉ gợi nên cảm giác bình yên. Là biểu tượng cho cái đẹp tự nhiên, thuần khiết, trong lành, thiên nhiên cũng đồng thời gợi lên trong nhà thơ nỗi bất an bởi môi trường sinh thái ấy cũng đang bị hủy hoại nghiêm trọng bởi chính lối sống “hiện đại” của con người. Đó là lí do giải thích cho những phản ứng cảm xúc có vẻ “bất thường” và trái ngược trong chủ thể trữ tình khi đối diện với thiên nhiên:
Đôi lần
em nhìn tán cây mà ứa nước mắt
vì màu xanh
Đôi lần
em nghe tiếng chim khuyên mà ứa nước mắt
vì sự trong trẻo
Rồi em khóc vì đốm nắng lan trên vạt cỏ
vì bông hoa trắng như giọt lệ
vì phiến đá dần tan trong ly nước mùa hè
(Vườn)
Nhưng cảm giác bất an ấy còn xuất hiện thường xuyên hơn khi tác giả viết về những người nghệ sĩ mà cuộc đời của họ đã “như một vì sao/ Chợt tắt giữa bao la”. Đấy là những con người mà số phận, nhân cách, hành động, thậm chí cả cái chết của họ cũng có ý nghĩa như một lời kêu gọi thức tỉnh lương tri và khát vọng. Đấy là nhà thơ Nguyễn Du “tóc bạc bơ phờ trước gió/ suốt đời chỉ một mối u hoài”, “một mình khêu ngọn đèn trong đêm đã bắt đầu dài”. Đấy là họa sĩ Dương Bích Liên luôn “thu mình lại/ tránh hết mọi chào mời, đưa đón” để có thể “đến gần cái đẹp/ đến gần các nguyên mẫu/ không ràng buộc/ không tô vẽ”. Đấy là nhà văn Nguyên Hồng như “một kẻ lang thang tìm đất mới/ với giọt lệ lớn nằm dưới đáy đôi mắt nheo cười”. Đấy là nhà văn Nguyễn Minh Châu, với khả năng “tự thức tỉnh”, “tự lìa bỏ”, “tự bước ra khỏi lối mòn” để có thể “bừng sáng/ giữa bao nhiêu ràng buộc tối tăm”… Khao khát Cái đẹp, dũng cảm nói lên tiếng nói của Lương tri và Sự thật, nhưng chung cục, số phận của những cá nhân ưu tú ấy luôn là sự “ngặt nghèo, buồn khổ”, là sự “đơn độc, đau thương, tuyệt vọng”, là “nỗi đau đớn cùng cực”. Nhưng với Ý Nhi, nghịch lí nhân sinh mang sắc thái bi kịch đó là kết quả của một hành động “lựa chọn” đầy can đảm và có ý thức. Vì vậy, trước những cuộc đời và nhân cách ấy, đi cùng cảm giác lo âu hay sự xót thương còn là sự ngưỡng mộ, là niềm tin rằng những giá trị đích thực vẫn tồn tại trong cuộc đời này, bất chấp mọi đọa đày, bất hạnh.
Lo âu và bất an cũng là nỗi ám ảnh của tác giả khi phải chứng kiến cảnh tượng con người đứng trên đỉnh cao của sự nổi tiếng, vinh quang và quyền lực, đặc biệt là những nghệ sĩ hoặc là những vận động viên nổi tiếng như Maradona, Platini, Olek Blokhin… (cũng là một kiểu nghệ sĩ trong cách nhìn của Ý Nhi). Sự tỉnh táo và nhạy cảm thường trực khiến Ý Nhi thấu suốt rất nhanh những tình thế nghịch lí trong thể thao (mà thực chất là của đời sống nói chung) cũng như cái ranh giới mong manh giữa một bên là “nụ cười và giọt lệ”; “cái đẹp và cái phù phiếm”, được và mất, vinh quang và điếm nhục, hạnh phúc và đau khổ dày vò… Chỉ trong/ bằng cái nhìn ấy, Ý Nhi mới có thể nhận ra cái cơn khát tới đích của người vận động viên như là một “nỗi đau”, một sự “dày vò” tinh thần khủng khiếp – khao khát vượt lên chính mình. Chỉ bằng cái nhìn ấy, Ý Nhi mới có thể nhận thấy vinh quang là một gánh nặng. Và cũng chỉ trong cái nhìn ấy, nhà thơ nhận ra cái quy luật đổi thay tàn nhẫn mà tất yếu của cuộc đời: Rồi sẽ có người anh hùng mới/ đỉnh cao mới/ vinh quang mới/ sự chia lìa mới (Trận đấu giã từ của Olek Blokhin)…
Cái cảm giác căng thẳng lo âu trước trạng thái bất trắc, chênh vênh của đời sống, (mà tác giả ví như là cảm giác “người nghệ sĩ trên chiếc dây đàn căng qua khoảng trống”) nhiều khi dường như quá ngưỡng chịu đựng của một trái tim nhạy cảm. Nó trở đi trở lại trong thơ Ý Nhi, thành một ám ảnh “vùi lấp”, “gãy đổ” vừa mơ hồ vừa nặng trĩu. Nhưng cũng chính vì vậy mà tận trong sâu xa, nhà thơ khát khao hướng tới tìm kiếm một sự “cân bằng” tuyệt đối, được diễn tả bằng hình tượng một đứa trẻ thuần khiết, ngây thơ mà đầy mạnh mẽ “đến biển mà không sợ bị vùi lấp/ lên núi mà không sợ bị gãy đổ”. Thực chất, đó là một trạng thái tinh thần cao cả mà con người chỉ có thể đạt tới khi tự mình vượt qua những níu kéo xô bồ của danh vọng, hư vinh cũng như nỗi sợ hãi khi phải đơn độc đối diện trước chính bản ngã. Như vậy cân bằng còn là một sức mạnh, nó giải phóng tâm hồn con người khỏi nỗi sợ hãi, những vướng bận phàm tục, thấp hèn để đạt đến sự Tự do về mặt tinh thần, tư tưởng: Đã vượt qua mối vướng bận đời thường/ đã vượt qua mối vướng bận vinh quang/ đã vượt qua nỗi sợ âm thầm/ khi phải đứng riêng về một phía (Đắc đạo)…
Với một con người mà khát vọng tự do luôn đi cùng ý thức tỉnh táo về những giới hạn tất yếu của cuộc đời như Ý Nhi, chắc chắn hành trình đi đến cái đích đó chưa bao giờ là điều dễ dàng. Và trên hành trình ấy, lo âu vẫn là một hành trang nặng trĩu. Tuy nhiên, nhìn từ một góc độ khác, nỗi lo âu trong thơ Ý Nhi cũng có thể là một trải nghiệm hạnh phúc, bởi nó cho con người biết mình vẫn còn khả năng nhận ra cái đẹp sau những xô bồ của đời sống và biết rằng mình vẫn còn một thứ quý giá nhất của tâm hồn nghệ sĩ: sự nhạy cảm. Như vậy, còn Lo âu, nghĩa là còn Sống. Còn Lo âu có nghĩa là còn Gắn bó. Còn Lo âu có nghĩa là còn Yêu, còn Khắc khoải… Trong thơ Ý Nhi, lo âu đã trở thành một trạng thái sống phổ quát. Nó cũng trở thành một thứ “nhãn quan thẩm mĩ” riêng để nhà thơ soi ngắm về thế giới. Ta cũng có thể nói thêm, ở đây, bóng dáng của cuộc sống hậu chiến đầy gian khó, vất vả, ngặt nghèo với bao nhiêu biến động khốc liệt dù không đi vào thơ Ý Nhi theo lối “tả thực”, nhưng vẫn hiển hiện trong tâm trạng đầy bất an của nhà thơ về một đời sống “giả trá, ồn ào, ác hiểm”.
Như một tất yếu, khi thơ đào sâu đến tận cùng diện mạo của cái tôi, của cái Riêng, cái Cá nhân, bao giờ người ta cũng bắt gặp chủ đề tình yêu. Tình yêu cũng là một chủ đề quan trọng của thơ Ý Nhi, nhưng quả thực, thơ tình của tác giả này rất hiếm bài viết theo kiểu giãi bày cảm xúc nồng nàn mà ta quen gặp trong thơ của Xuân Quỳnh, Lâm Thị Mỹ Dạ, Đoàn Thị Lam Luyến… Thơ Ý Nhi nghiêng về việc mô tả một cảm giác nẩy sinh trong một tình huống cụ thể, thường là một tình huống trữ tình hơn là tả thực và ở đó, con người vừa trọn vẹn đặt mình trong cái khoảnh khắc đầy tâm trạng ấy, mặt khác, lại vừa như đang bình tĩnh tách ra, lặng lẽ nghiêng tai đón đợi tiếng vọng nội tâm từ sâu thẳm:
Thật buồn
khi trở về trên chuyến xe cuối cùng
thành phố đã ngủ yên
Thật buồn trước lá xuân
trước nắng
trước trời mây
Thật buồn khi thơ viết không người đọc
khi gọi không ai đáp lời
khi biết mình đã yêu
(Không đề)
Tình yêu trong thơ Ý Nhi đầy những phức hợp cảm giác, vừa ngóng trông vừa khắc khoải, vừa lo âu vừa hân hoan, vừa sướng vui vừa ngậm ngùi, vừa hạnh phúc vừa buồn khổ… Ngay cả khi viết về sự hòa hợp và gặp gỡ trong tình yêu, những cảm giác đầy mâu thuẫn ấy vẫn không sao rời bỏ chị:
Bấy giờ
em băng qua ngã tư đèn đỏ
để kịp đến nơi anh
Bấy giờ
cây cối
cửa nhà
xe cộ
cuồn cuộn chảy một dòng ngũ sắc
Bấy giờ
những khuôn mặt
thảy đều thơ dại
Bấy giờ
cỏ xanh
trời xanh
áo người rực rỡ
Bấy giờ
em gầy hao, đầy đặn
hân hoan, buồn khổ
dưới một ánh nhìn
(Kí ức)
Ngôn ngữ tình yêu trong thơ Ý Nhi nhiều khi thật trực diện, giản đơn mà sao vẫn đầy u uẩn:
Xin anh
trong niềm vui
nhớ đến em
Xin anh
trong nỗi buồn
chia sẻ cùng em
Xin anh
mãi như em đã gặp
đã yêu
đã luôn chờ đợi
Xin anh
hãy yêu
và tha thứ
(Mùa thu)
Đấy là những vần thơ viết về tình yêu với tất cả độ nồng nàn của xúc cảm và trải nghiệm song đồng thời vẫn được dắt dẫn bởi một sự tự chủ lặng lẽ nào đó. Bởi vậy, tình yêu ấy đã phần nào trở nên trừu tượng hóa và mang sắc thái tinh thần, lí tưởng rất rõ nét. Đến với tình yêu của anh (như một giá trị tinh thần phổ quát chứ không đơn thuần là với một con người cá biệt, cụ thể nào) là đến với “sự bình yên”, đến với “sự trong trẻo”, đến với “bản tình ca cầu ước sum vầy”… Đó là một giấc mơ lớn lao đến đỗi Em chẳng kể cùng ai giấc mơ của mình/ bởi có ai mà hiểu thấu, ngoài anh/ người cũng hòa nhập với cuộc đời này bằng một giấc mơ (Năm lời cho bài hát)… Và đó cũng là một món quà đã được “mang cho” một cách hào phóng, vô tư và không đợi đáp đền: Anh đã đem cho tâm hồn anh/ anh đã đem cho cuộc đời anh/ nhưng mỗi ngày, mỗi giờ, mỗi phút, mỗi giây/ anh còn muốn cho cô, những gì anh có thể có trong đời (Quà tặng)…
Như vậy, tình yêu không chỉ là một trạng thái cảm xúc, tâm lí, mà còn là một phương tiện để con người nhận thức sâu hơn về đời sống. Bản thân tình yêu là một giá trị và ý nghĩa lớn nhất của nó, có lẽ chính là khả năng đánh thức con người khỏi sự thờ ơ và quên lãng, để nhận ra được sự thiếu vắng của khát vọng và xúc cảm trong cuộc đời mình. Và nếu hiểu như vậy thì tự thân nỗi đợi chờ, niềm thất vọng, sự khắc khoải, thậm chí là nỗi đau…, cũng có vẻ đẹp và thứ ánh sáng riêng của nó. Đó là lí do giải thích vì sao nhà thơ lại hình dung và mô tả về tình yêu, một mặt, như là sự “nát tan”, là “phút giây chia biệt”, là “giọt cuối cùng làm tràn cốc cay đắng” nhưng mặt khác, lại là cái “thời khắc huy hoàng” của “phận số”. Bởi vậy, khi nghĩ về tình yêu, về “anh”, có lúc nhân vật trữ tình dường như quên mất sự trầm tĩnh vốn có để thốt lên đầy đắm say, quyết liệt: Cùng anh/ tôi có thể đối chọi/ có thể hòa nhập/ với cả thế gian này (Không đề)… Cách nói hơi “cao giọng” thách thức ấy có thể làm ai đó bất ngờ, nhưng thật ra, đấy cũng là một phản ứng tâm lí thường gặp ở những con người có cá tính mạnh mẽ và dám sống đến tận cùng niềm tin của họ. Nên cũng dễ hiểu vì sao trong thơ Ý Nhi, sự chia ly của tình yêu (thơ chị từng nói rất hay về hình ảnh “người đàn bà đi khỏi mối tình của mình”) thường được mô tả như một sự ra đi đầy “biết ơn” và “hân hoan”, thanh thản: Ra đi mà tràn đầy biết ơn/ ra đi/ mà từ đôi mi đã khép/ còn lăn chảy giọt nước mắt hân hoan (Vườn)… Cũng cần nói thêm rằng, trong thơ Ý Nhi, hình ảnh “nước mắt” (vốn rất quen thuộc trong thơ tình, gắn liền với các motip chủ đề như tan vỡ, chia ly, đau khổ…) cũng đã hàm chứa một sắc thái thẩm mĩ mới. Nó là tượng trưng cho nỗi xúc động lớn lao của con người trước hạnh phúc, trước tình yêu, cho dù hạnh phúc và tình yêu ấy có thể không còn mãi.
Dĩ nhiên, khi nhìn nhận về tình yêu trong độ lắng đọng của những triết lí, suy tư, phần nào đấy thơ tình Ý Nhi sẽ mất đi cái mà người ta thường gọi là độ tươi mát, nồng nàn trong cảm xúc hay sự phong phú, đa dạng trong các cung bậc trạng thái được mô tả. Như đã nói trên, trong thơ tác giả này, những trạng thái tâm lí cụ thể ấy thường được khái quát hóa thành những trạng huống nhân sinh – thẩm mĩ có tính phổ quát. Bởi vậy, ngay niềm vui sướng hay nỗi đắng cay dường như cũng mất đi tính chất “thái quá”, vẫn được hình dung như một đặc tính của tình yêu lứa đôi, vốn không thể giấu che hay kìm giữ.
Với Ý Nhi, thơ là tinh chất gạn lọc “từ bùn bẩn, từ đau thương, cùng quẫn”, nó gắn liền với cuộc sống và nó nhằm phục vụ cho đời sống của con người (đây cũng là một quan niệm thơ phổ biến trong nền thơ Cách mạng). Nhưng làm thơ, làm nghệ thuật cũng chính là hành động tìm kiếm và sáng tạo cái đẹp. Đó là một công việc vinh quang và nhọc nhằn, bởi sáng tạo cũng đồng nghĩa với việc phải biết “tự lìa bỏ/ những giá trị đã một đời xây đắp”, phải biết “tự bước ra khỏi lối mòn/ (cái lối mòn từng dẫn tới vinh quang)”, nó đòi hỏi không chỉ tài năng mà còn là “một lương tâm trong sạch”, một bản lĩnh “mạnh mẽ”. Do đó nghệ thuật đích thực bao giờ cũng hội tụ trong đó một vẻ đẹp phi thường, cao khiết: câu thơ/ lan tỏa như sóng/ quẫy cựa như sóng/ trắng xóa/ và xanh biếc (Tặng một người làm thơ trẻ)… Với tư cách nhà thơ, Ý Nhi luôn có những tâm niệm thiêng liêng về nghề nghiệp. Cho dù, trong cái nhìn “ngày thường”, hành động sáng tạo hình ảnh, ngôn từ, thi tứ… được ví như hình tượng người phụ nữ đi chợ, tính toán, bán mua, pha chế thực phẩm thành những món ăn, bao giờ cái đích nhà thơ hướng tới cũng là “vẻ đẹp thực chất” của bữa ăn – thi ca ấy, đó là “niềm hạnh phúc tôi có thể đem lại cho mọi người”. Đó là những tâm niệm hết sức chân thành, nghiêm trang, mang đậm dấu ấn lí tưởng của một thế hệ nghệ sĩ luôn gắn bó đời mình với sự nghiệp chung của dân tộc. Đồng thời, nó cũng bộc lộ những nhận thức độc lập, mới mẻ của một nhà thơ luôn ý thức về nghệ thuật như một hành động sáng tạo. Quan niệm này rõ ràng đã được hậu thuẫn bởi một bối cảnh lịch sử xã hội Việt Nam thời kì hậu chiến, với những biến động, thay đổi to lớn trên nhiều phương diện kinh tế, văn hóa, cũng là một bối cảnh lịch sử xã hội đã tạo đà cho sự xuất hiện của nhiều quan niệm, tư tưởng nghệ thuật ngày càng cởi mở và toàn diện, sâu sắc hơn.
Thơ Ý Nhi được viết chủ yếu theo thể tự do, với sự kết hợp đa dạng những câu thơ dài ngắn khác nhau, cách ngắt nhịp, gieo vần tự nhiên, linh hoạt. Nhiều bài thơ khá dài, được đánh số thứ tự theo từng phần, mỗi phần thể hiện một tiểu chủ đề nhưng chúng lại gắn kết chặt chẽ trong một hệ chủ đề thống nhất, ví dụ: Thư mùa đông, Hải Phòng, tháng 11 năm 1979, Biển, Cát, Nguyễn Du, 1813, Gửi bạn, Gửi một người bạn đọc, Thơ về Marina Xvetaeva, Dương Bích Liên – mùa đông 1988, Hà Nội, tháng 5.1987, Bóng đá, Kí ức, Năm lời cho bài hát, Không đề… Cùng với thể tự do, ngôn ngữ thơ rất giản dị, kiệm lời, lối nói tu từ bóng bẩy được hạn chế tối đa. Mặc dù trong những sáng tác thời kì đầu của Ý Nhi, độc giả cũng bắt gặp những hình ảnh khá mượt mà như Cây bàng vừa nhuốm lửa/ khóm trúc mới đổ vàng/ lòng suối Đôi rộng quá/ chúng mình đưa nhau sang (Mưa dạo tháng mười)… nhưng càng ngày, nỗ lực lược bỏ những ngôn từ êm ái, ngọt ngào để đạt tới một cách diễn tả nội tâm giản dị và chân thực càng rõ. Thể thơ tự do với những câu thơ thường bị bẻ gãy thành nhiều phần (và đầu câu thường không viết hoa), không chỉ tạo nên tính chất gập ghềnh, trúc trắc, khó đọc, mà còn tạo áp lực buộc nhãn quan của “cái thời lãng mạn” phải thay đổi. Thay cho cái nhìn mơ mộng, trữ tình trước đây là một cái nhìn trực diện, thẳng thừng vào hiện thực – cái hiện thực xã hội bên ngoài vốn xù xì, gai góc và cả cái hiện thực bên trong tâm hồn mà càng dấn sâu, con người càng thấy rõ là không hề đơn giản.
Tự nhiên, giản dị nhưng vẫn rất giàu sức gợi, Ý Nhi đã xây dựng trong thơ mình một hệ thống biểu tượng phong phú. Người đàn bà ngồi đan là một ví dụ tiêu biểu. Bằng lối mô tả như là thuần túy khách quan, bằng việc lược bỏ triệt để những trạng thái cảm xúc cá nhân, bằng việc đặt ra liên tục những câu hỏi nghi vấn…, chân dung “một người đàn bà ngồi đan bên cửa sổ”, “giữa chiều lạnh” và dưới chân, “cuộn len như quả cầu xanh/ đang lăn những vòng chậm rãi” đã bị/ được trừu xuất khỏi cái ý nghĩa tả thực để trở thành một biểu tượng ám ảnh về đời sống tinh thần của người phụ nữ hiện đại. Cũng tương tự, khi viết về những người nghệ sĩ – trí thức, Ý Nhi luôn biết cách “đọc” ra những phẩm chất cao quý trong cuộc đời, tính cách, số phận và thậm chí cả cái chết của họ. Do đó, từ những cá nhân riêng lẻ, bao giờ nhà thơ cũng biết nâng tầm vóc họ lên thành hình ảnh của những giá trị tinh thần cao cả và bất tử. Ngay cả những con người đời thường với những vui buồn đơn giản, hồn nhiên thậm chí thô vụng, qua ngòi bút của Ý Nhi, cũng có thể trở thành những biểu tượng thơ đáng chú ý. Với nhà thơ, sự giản đơn ấy là một biểu hiện của cái Đẹp chân thật, không màu mè gọt giũa, đối lập hoàn toàn với cuộc đời xô bồ, giả trá và “tối tăm ham muốn”.
Rất dễ bắt gặp trong thơ Ý Nhi những bức tranh thiên nhiên tươi tắn, sinh động. Nhưng bằng cách này hay cách khác, bao giờ những hình tượng ấy cũng “biết cách” hé lộ cho người đọc một ý nghĩa sâu xa và bí ẩn hơn ẩn sau bề mặt hấp dẫn và cảm tính của nó. Biển chính là một biểu tượng thơ như vậy. Đó là tượng trưng cho một thời tuổi trẻ “cháy rực”, “niềm khao khát”, “chẳng nguôi yên”…; nhưng cũng lại là hình ảnh của “kết cục”, là cái còn lại sau cùng của “đoạn đường ta đã qua”; đó là hình ảnh của “nỗi đắng cay/ được giấu kín sau màu xanh trầm mặc”, nhưng đồng thời lại luôn gợi lên cảm giác “lớn lao thanh thản vô cùng”… Chính vì vậy, đến với Biển là đến với những giá trị như là vĩnh viễn, cũng là đến với sự hồi sinh của những ước mơ, khát vọng sau bao nhiều đổ vỡ. Cát cũng là một biểu tượng thơ gây nhiều ấn tượng thẩm mĩ. Trong thơ Ý Nhi, Cát là một miền “mênh mông”, “ròng ròng tuôn chảy”, “bỏng khô, chói lọi vô bờ”. Nhưng Cát còn gợi liên tưởng mạnh mẽ đến hình tượng của những con người vô danh, “đã sống và chết/ giản dị và bình tâm/ không ai nhớ mặt đặt tên” (thơ Nguyễn Khoa Điềm). Vì vậy, đến với Cát là đến với những nhận thức sâu sắc về Tổ Quốc, Nhân Dân, đến với những thức tỉnh thiêng liêng: Người ta đứng nghiêm trang trước cát bạt ngàn… Với cách viết giàu tính tượng trưng, nhà thơ đã đem lại cho motip chủ đề vốn dĩ rất quen thuộc của nền thơ chống Mỹ này một sắc thái triết lí – trữ tình mới mẻ.
Mùa thu là một biểu tượng đáng chú ý khác. Không phải mùa thu của những thi liệu đẹp nhưng đã phần nào trở nên mòn cũ với áo mơ phai dệt lá vàng, theo cách mô tả của Ý Nhi, ấy là một mùa thu ở “phía xa kia”, “nơi đầu nguồn sông, nơi tận cùng biển lớn”, và “mùa thu ngủ yên giữa tầng lá thắm”, giữa “gió trong xanh”, “cát vàng” và “bãi vắng”… Mùa thu ấy gợi cảm giác về sự “trong sạch”, cảm giác “hạnh phúc” và linh cảm về “điều lớn lao sẽ xảy ra trong thời khắc ấy”. Nhưng nó cũng gợi nên bao nỗi lo âu, bởi đằng sau “vòm trời xanh dịu kia” có thể chính là “cơn bão lớn”. Vượt ra khỏi ý nghĩa tả thực, mùa thu đẹp, tinh tế, rực rỡ với bao khắc khoải (và càng đẹp hơn bởi chính cảm giác hồ nghi khắc khoải ấy) đã trở thành một biểu tượng đa nghĩa.
Có hẳn một tập thơ Ý Nhi mang tên Vườn. Hình ảnh Vườn gắn liền với màu xanh của tán cây, tiếng chim trong trẻo, “đốm nắng lan trên vạt cỏ”, “bông hoa trắng như hạt lệ”… Từ một khu vườn cụ thể, dưới ngòi bút của Ý Nhi, nó đã chuyển hóa thành khu vườn tượng trưng, khu vườn tinh thần. Chính vì vậy, Vườn có thể gợi ra trong nhà thơ những liên tưởng đầy bất ngờ, trong suốt và ảo diệu:
Rồi một lần
em thấy cơn mưa rắc hạt xuống khoảng sân
nếu hạt nảy mầm
sẽ có lá trong suốt
nếu mầm thành cây
sẽ có nhánh cành trong suốt
nếu cây đơm hoa
sẽ có cành mềm trong suốt
nếu hoa tụ quả
ta sẽ có những hạt trong ngần nước mắt
(Chuyện kể)
Điều đặc biệt là ở đây có một sự đồng nhất đầy ý nghĩa giữa hình ảnh khu vườn bình yên với tình yêu con người: Em tìm đến góc xa nhất của khu vườn/ em muốn trốn vào sự bình yên/ em muốn trốn sâu mãi, sâu mãi vào tình yêu của anh (Vườn)… Phải chăng, tình yêu, trong giá trị và ý nghĩa phổ quát của nó, luôn là khát vọng hướng về sự bình yên bền vững, vĩnh cửu?
Nếu chỉ nhìn qua tên các tập thơ của Ý Nhi, từ Nỗi nhớ con đường đến Người đàn bà ngồi đan, qua Ngày thường, Mưa tuyết, Gương mặt và đến Vườn, ta cũng có thể phần nào hình dung ra cái hành trình nội tâm của tác giả. Đó là một hành trình tinh thần lặng lẽ mà quyết liệt nhằm tìm kiếm cái diện mạo đích thực của bản ngã mà thực chất cũng là nhằm để tìm ra câu trả lời về ý nghĩa và giá trị của cuộc sống. Và càng đến gần cái đích nhận thức ấy, thơ Ý Nhi càng bộc lộ một sự thanh thản, nhẹ nhõm đến “trong suốt”.
Với một nghệ sĩ, hành trình sáng tạo đồng thời cũng chính là hành trình tìm kiếm cái diện mạo chân thật của bản ngã. Đấy là một hành trình dài dặc, không dễ dàng và luôn phải tiếp tục, bởi nó cũng là hành trình truy tìm ý nghĩa của cuộc sống, của khát vọng và lí tưởng. Và một khi tiếng nói nội tâm đã tìm được cách diễn tả thích hợp bằng hình thức thơ ca, khi những tình cảm, tư tưởng dồn nén đã được giải phóng, thăng hoa qua ngôn từ, hình ảnh, có thể nói, đó cũng là khi con người đã tìm được sự cân bằng nội tại, tìm thấy niềm tin và sức mạnh trong chính bản thân mình.
Vinh, 9/12/2009