Học giả Nguyễn Hiến Lê và không khí của Văn hóa VNCH

30 năm ngày mất (22/12/1984 – 22/12/2014)

Hoàng Anh Tuấn

clip_image001Với khoảng 100 tác phẩm phát hành trong thời chiến, cụ Nguyễn Hiến Lê có thể là tác giả viết nhiều, in nhiều, và được đọc nhiều nhất trong thời kỳ 1950-1975 ở miền Nam. Lại có khoảng 20 bản thảo của cụ được in sau ngày thống nhất quốc gia, phần lớn là sau khi cụ qua đời. Nhiều tác phẩm cũ của cụ cũng được phát hành lại từ cuối thập niên 1980 tới nay. Mặc dù đã quá cố gần 30 năm, ảnh hưởng của cụ còn khá lớn lao.

 

Nhưng con số tác phẩm chỉ là một khía cạnh của Nguyễn Hiến Lê. Một khía cạnh khác là cụ viết rất nhiều thể loại: ngôn ngữ, văn chương, lịch sử, địa lý, giáo dục, du ký, tiểu sử, và sách “học làm người”. Đối với chúng ta, hậu duệ của cụ lớn lên trong văn hóa nặng chuyên môn, điều này nghe khá đặc biệt. Nhưng nó không lạ lùng với thế hệ trí thức của cụ Lê.

Họ là thế hệ trưởng thành trong hai thập niên cuối thời thuộc địa, cũng chuyên môn nhưng rộng rãi hơn về đọc, viết, và suy tưởng. Họ lớn lên và hấp thụ không khí văn hóa thành thị sôi nổi như nhóm Tự Lực Văn Đoàn và báo Phụ Nữ Tân Văn trong thập niên ba mươi, hay các nhóm Thanh Nghị, Tri Tân, và Hàn Thuyên trong thập niên bốn mươi. Đây là thời điểm rất nhiều bàn cãi và tranh luận trong nhiều lãnh vực về đường hướng và tương lai Việt Nam. Bầu không khí có nhiều lúc gây cấn, nhưng không eo hẹp hạn chế, mà ngược lại mở mang nhãn quan về xã hội, cá nhân, và đời sống hiện đại.

Rồi họ viết báo in sách trong những năm cuối thập niên bốn mươi và đầu thập niên năm mươi. Thời điểm này nổi bật nhất là cuộc kháng chiến chống Pháp và hình thành hai chế độ Nam Bắc: quân sự và chính trị. Còn văn học, nghệ thuật, và văn hóa thường bị đặt phía dưới. Nhưng thời điểm này có một số người làm văn hóa, nhất là tại Sài Gòn, bắt đầu gây dựng sinh lực mới về văn hóa và xã hội, tiếp nối phát triển của văn hóa tiền chiến.

Họ là những người đã có tiếng tại Hà Nội nhưng vào Nam trong thời kỳ 1945-1954 như Nguyễn Vỹ và Lê Văn Siêu. Họ cũng là người gốc miền Nam và luôn sống trong Nam như Nguyễn Duy Cần và Phạm Văn Tươi. Hòa hợp Nam Bắc thời kỳ này rất ư quan trọng và làm đường cho phát triển văn hóa miền Nam sau 1954.

Về Nguyễn Hiến Lê, thời điểm này quan trọng vì cụ gặp được Ngô Trọng Hiếu và Phạm Văn Tươi. Cụ Hiếu, một nhân vật chính trị trong chính quyền VNCH sau này, trợ giúp tiền bạc in quyển sách đầu tay của cụ Lê tại Long Xuyên. Rồi quyển sách dẫn tác giả đến cụ Tươi trên Sài Gòn. Dưới sự điều khiển của cụ Tươi, một loạt sách nhãn hiệu “học làm người” được phát hành qua những tay viết khá mới mẻ, nhất là Nguyễn Hiến Lê, Hoàng Xuân Việt, Nguyễn Duy Cần, và Phạm Cao Tùng. (Phạm Cao Tùng không phải ai xa lạ, mà là bút danh của Phạm Văn Tươi.) Mặc dù cụ Lê chỉ hợp tác với nhà xuất bản Phạm Văn Tươi vài năm, cụ luôn ngưỡng mộ và mang ơn sự chăm chút của cụ Tươi, một người tiên phong mở mang văn hóa miền Nam trong thời kỳ chuyển tiếp thuộc địa qua độc lập.

Còn về cụ Lê, thành công về sách giáo khoa và học làm người giúp cụ độc lập về tài chánh cũng như nghề nghiệp. Nhưng cụ cũng cần một bàn tựa văn hóa, và cụ kiếm được nó khi hợp tác với tạp chí Bách Khoa, sáng lập và lãnh đạo bởi Huỳnh Văn Lang rồi sau đó Lê Ngộ Châu. Đây là một trong những hợp tác lâu dài và thành công nhất của lịch sử báo chí Việt Nam thế kỷ hai mươi. Chi tiết về Bách Khoa vẫn cần được tìm hiểu thêm. Nhưng một điều chúng ta có thể khẳng định, là nó hỗ trợ cho tính tình độc lập và ham muốn tìm hiểu của cụ qua gần 20 năm.

Nhìn lại Nguyễn Hiến Lê, chúng ta thấy cụ có nhiều tương phản. Cụ là người lớn lên trong miền Bắc, nhưng yêu quý miền Nam và lấy hai người vợ đều người Nam. Cụ viết về nhiều nơi nhiều nước khắp hoàn cầu, nhưng cả đời chỉ đi ra ngoài Việt Nam một hay hai lần. (Ngay cả trong nước, sau 1950 cụ ít ra ngoài Sài Gòn và Long Xuyên.) Cụ đọc nhiều về chủ nghĩa cộng sản và biết không thể chấp nhận nó được. Nhưng vì tình cảm với một số bạn bè kháng chiến chống Pháp cũng như sự hiện diện của quân đội Hoa Kỳ trong miền Nam, cụ nghĩ là chế độ Hà Nội sẽ không tệ sau thống nhất: một ý tưởng cụ hối hận sau này. Cụ không thích chính phủ Sài Gòn lắm, nhưng cụ không thể nghiên cứu và phổ biến nếu không có nền văn hóa tương đối tự do của chế độ này.

Điểm cuối cùng đáng được nhấn mạnh, không phải chỉ vì cụ Lê sẽ mất hết độc lập nếu sống ở miền Bắc. Mà là vì môi trường văn hóa cũng như pháp luật VNCH, dù hạn chế, vẫn tạo nhiều cơ hội cho tầng lớp trí thức phát triển và phổ biến tư tưởng. Một thí dụ là học hỏi hàm thụ. Cụ Lê rất chăm học hàm thụ trong thập niên bốn mươi và năm mươi, và dùng nhiều tài liệu hàm thụ khi viết lúc này. Một phần là vì sở thích của cụ. Nhưng cũng một phần vì chế độ Bảo Đại, Ngô Đình Diệm, và Nguyễn Văn Thiệu cho phép thư từ và bài vở qua lại dễ dàng giữa Sài Gòn và Paris.

Một thí dụ khác là sự thành hình và phát triển các nhóm văn chương, nghệ thuật, và văn học, thường thường là bên một tạp chí. Bên trên chúng ta có nhắc tạp chí Bách Khoa. Nhưng còn nhiều tạp chí với những nhóm khác, như Phổ Thông của Nguyễn Vỹ, Thời Nay của Nguyễn Văn Thái, hay Văn dưới sự lãnh đạo của Nguyễn Đình Vượng, Trần Phong Giao, và Mai Thảo. Những tạp chí và bè nhóm vừa tạo nên và vừa phản ảnh văn hóa đa dạng thành thị bấy giờ.

Vì những lý do trên, khi kỷ niệm sinh nhật 100 năm ngày sinh [bài viết được công bố trên BBC năm 2012 – VV] Nguyễn Hiến Lê, chúng ta cũng nên tưởng niệm môi trường phong phú văn hóa thời VNCH. Không có nó, cụ Lê đã khó mà thành công trên con đường văn hóa cụ đi.

Tác giả Hoàng Anh Tuấn dạy sử Hoa Kỳ và Á Châu bán thời gian tại Palm Desert Campus của California State University, San Bernardino, và nghiên cứu về văn hóa thành thị thời VNCH cũng như lịch sử người Việt tị nạn và di dân qua Hoa Kỳ sau 1975.

Nguồn: BBC

Tác phẩm của học giả Nguyễn Hiến Lê:

VĂN HỌC

Hương sắc trong vườn văn (2 quyển) – 1962

Luyện văn I (1953), II & III (1957)

Đại cương văn học sử Trung Quốc (3 quyển) – 1955

Cổ văn Trung Quốc – 1966

Chiến Quốc sách (viết với Giản Chi) – 1968

Sử Ký Tư Mã Thiên – 1970

Tô Đông Pha – 1970

Nhân sinh quan và thơ văn Trung Hoa (dịch) – 1970

NGỮ PHÁP

Để hiểu văn phạm – 1952

Khảo luận về ngữ pháp VN (viết với TVChình) – 1963

Tôi tập viết tiếng Việt – 1990

TRIẾT HỌC

Nho giáo một triết lý chính trị – 1958

Đại cương triết học TQ (viết với Giản Chi) – 1965

Nhà giáo họ Khổng – 1972

Liệt tử và Dương tử – 1972

Một lương tâm nổi loạn – 1970

Thế giới ngày mai và tương lai nhân loại – 1971

Mạnh tử – 1975

Trang tử – 1994

Hàn Phi tử – 1994

Tuân tử -1994

Mặc học – 1995

Lão tử – 1994

Luận ngữ – 1995

Khổng tử – 1992

Kinh Dịch – 1990

LỊCH SỬ

Lịch sử thế giới (viết với Thiên Giang) – 1955

Đông Kinh nghĩa thục – 1956

Bài học Israel – 1968

Bán đảo Ả Rập – 1969

Lịch sử văn minh Ấn Độ (dịch W. Durant) – 1971

Bài học lịch sử (dịch W. Durant) – 1972

Nguồn gốc văn minh (dịch W. Durant) – 1974

Văn minh Ả Rập (dịch W. Durant) – 1975

Lịch sử văn minh TQ (dịch W. Durant) – 1997

Sử Trung Quốc (2 quyển) – 1997

GIÁO DỤC – GIÁO KHOA

Thế hệ ngày mai – 1953

Thời mới dạy con theo lối mới – 1958

Tìm hiểu con chúng ta – 1966

Săn sóc sự học của con em – 1954

Tự học để thành công – 1954

33 câu chuyện với các bà mẹ – 1971

Thế giới bí mật của trẻ em – 1972

Lời khuyên thanh niên – 1967

Kim chỉ nam của học sinh – 1951

Bí quyết thi đậu – 1956

Muốn giỏi toán hình học phẳng – 1956

Muốn gỏi toán hình học không gian – 1959

Muốn giỏi toán đại số – 1958

TIỂU THUYẾT

Kiếp người (dịch S.Maugham) – 1962

Mưa (tuyển dịch nhiều tác giả) – 1969

Chiến tranh và hoà bình (dịch Tolstoi) – 1968

Khóc lên đi ôi quê hương yêu dấu (dịch Paton) 1969

Quê hương tan rã (dịch C.Acheba) – 1970

Cầu sông Drina (dịch I.Andritch) – 1972

Bí mật dầu lửa (dịch Gaillard) – 1968

Con đường thiên lý – 1990

Mùa hè vắng bóng chim (dịch Hansuyn) –

Những quần đảo thần tiên (dịch Maugham) – 2002

CHÍNH TRỊ – KINH TẾ

Một niềm tin – 1965

Xung đột trong đời sống quốc tế – 1962

Hiệu năng – 1954

Tay trắng làm nên – 1967

Tổ chức công việc theo khoa học – 1949

Tổ chức công việc làm ăn – 1967

Lợi mỗi ngày một giờ – 1971

Những vấn đề của thời đại – 1974

GƯƠNG DANH NHÂN

Gương danh nhân – 1959

Gương hi sinh – 1962

Gương kiên nhẫn – 1964

Gương chiến đấu – 1966

Ý chí sắt đá – 1971

40 gương thành công – 1968

Những cuộc đời ngoại hạng – 1969

15 gương phụ nữ – 1970

Einstein – 1971

Bertrand Russell – 1972

Đời nghệ sĩ – 1993

Gogol – 2000

Tourgueniev – 2000

Tchekhov – 2000

CẢO LUẬN – TUỲ BÚT – DU KÝ

Đế Thiên Đế Thích – 1968

Bảy ngày trong Đồng Tháp Mười – 1954

Nghề viết văn – 1956

Vấn đề xây dựng văn hoá – 1967

Chinh phục hạnh phúc (dịch B. Russell) – 1971

Sống đẹp – 1964

Thư ngỏ tuổi đôi mươi (dịch A. Maurois) – 1968

Chấp nhận cuộc đời (dịch L.Rinser) – 1971

Làm con nên nhớ (viết với Đông Hồ) – 1970

Hoa đào năm trước – 1970

Con đường hoà bình – 1971

Cháu bà nội tội bà ngoại – 1974

Ý cao tình đẹp – 1972

Thư gởi người đàn bà không quen (A.Maurois) – 1970

10 câu chuyện văn chương – 1975

Đời viết văn của tôi – 1996

Hồi ký Nguyễn Hiến Lê – 1992

Để tôi đọc lại –

TỰ LUYỆN ĐỨC TRÍ

Tương lai trong tay ta – 1962

Luyện lý trí – 1965

Rèn nghị lực – 1956

Sống 365 ngày một năm – 1968

Nghệ thuật nói trước công chúng – 1953

Sống 24 giờ một ngày (dịch A.Bennette) – 1955

Luyện tình cảm (dịch F.Thomas) – 1951

Luyện tinh thần (dịch Dorothy Carnegie) – 1957

Đắc nhân tâm (dịch Dale Carnegie) – 1951

Quẳng gánh lo đi (dịch Dale Carnegie) – 1955

Giúp chồng thành công (dịch Dorothy Carnegie) 1956

Bảy bước đến thành công (dịch G.Byron) – 1952

Cách xử thế của người nay (dịch Ingram) – 1965

Xây dựng hạnh phúc (dịch Huxley) – 1966

Sống đời sống mới (dịch Powers) – 1965

Thẳng tiến trên đường đời (dịch Lurton) – 1967

Trút nỗi sợ đi (dịch Coleman) – 1969

Con đường lập thân (dịch Ennever) – 1969

Sống theo sở thích (dịch Steinckrohn) – 1971

Giữ tình yêu của chồng (dịch Kaufmann) – 1971

Tổ chức gia đình – 1953

CÁC BÀI ĐĂNG TRÊN TẠP CHÍ:

242 bài trên tạp chí Bách Khoa, 50 bài trên các tạp chí Mai, Tin Văn, Văn, Giáo Dục Phổ Thông, Giữ Thơm Quê Mẹ. Ngoài ra ông còn viết lời giới thiệu cho 23 quyển sách của văn hữu

Nguồn: https://www.facebook.com/notes/776843905709200/

Comments are closed.