Trong thoáng xuân Hà Nội (thư từ, ghi chép, 1986-1991) (kỳ 1)

Lại Nguyên Ân

Những năm 1986-1991 là thời kỳ đầu của công cuộc “Đổi mới” ở Việt Nam. Bước ngoặt của nền kinh tế trong nước từ tập trung bao cấp chuyển sang thị trường, trong bối cảnh tan rã của hệ thống “xã hội chủ nghĩa” Đông Âu và Liên Xô, không thể không đưa đến sự “cởi trói” về tư tưởng. Một giai đoạn mới mở ra đầy phấn chấn đối với giới cầm bút “được giải phóng” sau 30 năm chỉ biết cắm cúi “phục vụ chính trị” trong khuôn khổ “hiện thực xã hội chủ nghĩa”, và văn chương nước nhà đã có một số thành quả đáng kể trước khi bị siết chặt trở lại. Nhà nghiên cứu Lại Nguyên Ân có lợi thế của “người trong cuộc” với rất nhiều mối quan hệ thân thiết, một nhà quan sát tinh tường và chăm chú với thiên bẩm khảo cứu, sưu tra và ý thức của người làm tư liệu lịch sử, đã công phu ghi chép tỉ mỉ mọi chuyện lớn nhỏ của “làng Văn” những ngày ấy. Trong thoáng xuân Hà Nội, cuốn sách của ông xuất bản dưới hình thức ebook (NXB Hội Nhà văn) công bố một phần những thư từ, những ghi chép từ sổ tay của tác giả, là một kho tư liệu quý giá về cái “thoáng xuân” từng bừng lên của văn chương Việt Nam quốc nội trên 20 năm trước qua các chi tiết người thật việc thật. Văn Việt xin cảm ơn tác giả đã cung cấp bản điện tử của cuốn sách và cho phép công bố toàn văn theo nhiều kỳ.

Xin trân trọng giới thiệu cùng bạn đọc.
Văn Việt

image

Có thể mua bản e-book theo địa chỉ: http://komo.vn/product/view?pid=1771

 

LỜI DẪN

Trong tập sách nhỏ này, soạn ra nhân ghi nhớ 35 năm thành lập Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới (tháng 5/1976), – nơi mà người viết những dòng này từng làm việc suốt 30 năm liền (1977-2007), – thay vì viết mới một số hồi ức, tôi xin đưa ra một vài tài liệu riêng có gắn với quãng thời gian làm việc tại đây. Ấy là những năm 1986 – 1990, khi đời sống văn nghệ trở nên sôi động với công cuộc Đổi Mới do Đại hội Đảng lần thứ VI khởi động.

Cuốn sách gồm ba chùm tài liệu, tạo thành ba phần:

Phần 1, đặt tiêu đề THƯ HÀ NỘI. Phần này gồm trên 20 bức thư tôi viết trong những năm ấy, gửi cho các bạn văn khi đó đang làm việc, học tập tại các nơi xa Hà Nội (như Vương Trí Nhàn, Lê Ngọc Trà đang ở Moskva, Ý Nhi đang ở Tp.HCM) kể về các sự việc và con người trong đời sống văn nghệ ở Hà Nội đương thời mà mình được tham dự hoặc chứng kiến, nhất là các việc tại báo “Văn nghệ” (nơi tôi tham gia nhóm cộng tác viên đặc biệt tại tổ biên tập lý luận phê bình, những năm 1987-88), tại Hội đồng lý luận phê bình của Hội nhà văn Việt Nam (nơi tôi là thư ký từ 1982), tại Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới (nơi tôi làm việc thường xuyên như một biên tập viên). Đây có lẽ chỉ là một phần trong số thư từ tôi viết gửi cho bạn bè thời gian ấy, nhưng hầu như lại là số thư duy nhất hiện còn thấy lại. Những bức thư này giữ lại được, tìm lại được là do công sức các bạn văn Vương Trí Nhàn, Ý Nhi, Lê Ngọc Trà, – chính các bạn đã tìm lại được và tặng lại tác giả các bức thư ấy. Nhân đây xin tỏ lời cảm ơn chân thành tới các bạn.

Phần 2, đặt tiêu đề NHỮNG TRANG GHI CHÉP RÚT TỪ SỔ TAY, bao gồm những ghi chép còn lại trong sổ tay công tác của tôi những năm kể trên (từ 1986 đến 1988); đây thường là ghi chép khi tham dự các cuộc hội họp, thảo luận, tranh luận trong giới văn nghệ đương thời. Thói quen ghi chép kiểu “tốc ký” từ những năm học đại học đã từng giúp tôi ghi được những điều mà trí nhớ không thể nào nhớ được; nhưng khi nhặt lại trong sổ tay lần này, nhiều lúc tôi phải tiếc ngẩn ngơ vì chính ngòi bút mình đã bỏ qua rất nhiều sự việc, rất nhiều lời nói đặc sắc ở một thời kỳ bộc phát sự giải phóng tư tưởng. Lại cũng khá buồn là thường khi ngòi bút mình chỉ ghi tóm tắt được những ý người ta nói chứ ít khi ghi được đặc sắc ngôn từ của từng người nói… Tuy vậy, với thời gian, đây có thể lại là những dấu tích hiếm hoi về những sự việc đã từng diễn ra, những sự việc mà ngoài những ghi chép riêng trong sổ tay như sổ tay của tôi và của một số người khác từng trải qua thì may ra chúng ta chỉ còn tìm thấy trên báo chí đương thời đôi dòng tường thuật ngắn ngủi. Nghĩ như vậy, tôi khai thác lại những ghi chép này, không ngại tính chất rời rạc của lối ghi sổ tay riêng, dù đây hầu hết là ghi công việc chứ không phải những suy nghĩ riêng. Điều tôi tự thấy ít nhiều khả thủ là còn tìm được qua những ghi chép này một số cuộc thảo luận, tranh luận khá thẳng thắn những năm đầu cao trào đổi mới trong văn nghệ.

Phần 3, đặt tiêu đề VĂN HỌC VIỆT NAM THỜI KỲ ĐỔI MỚI, chính là tên một đề cương tôi soạn từ năm 1998, dùng để hướng dẫn một số thực tập sinh, nghiên cứu sinh nước ngoài khi đó được giới thiệu đến Việt Nam để nghiên cứu tìm hiểu văn hóa, văn học Việt Nam thời đổi mới. Do tính đến đối tượng là những người tuy nghe hiểu được tiếng Việt nhưng thiếu thốn rất nhiều hiểu biết về văn hóa, lịch sử Việt Nam hiện đại và đương đại nên đề cương soạn theo những cách khái lược hoặc tỉ mỉ không đồng đều, chủ yếu là tính đến việc cần thuyết minh về các sự kiện, hiện tượng lịch sử, văn hóa, nhân sự cụ thể ở Việt Nam. Đề cương cũng thể hiện một cách nhìn của người soạn ở thời điểm 1998 về tiến trình văn học Việt Nam. Nếu hôm nay trở lại đề tài này, chắc chắn tôi sẽ soạn khác viết khác. Chính vì thế, đề cương này đối với chính người viết ra nó cũng đã trở thành một loại tư liệu ghi dấu cách nghĩ, cách “sơ kết” của mình với tư cách người nghiên cứu, lại cũng với tư cách người trong cuộc về giai đoạn văn học đổi mới.

Ngoài văn bản các tư liệu cũ, tôi có làm thêm một số chú thích giúp người đọc biết rõ hơn về những người hoặc việc được nhắc văn tắt tới trong đó.

Nói chung, đây là một tập tư liệu cá nhân; tác giả không phải là một quan chức có quy chế đại diện chính thức nào để phát ngôn về các sự việc; tác giả chỉ là một người làm nghiên cứu có hoạt động trong giới văn nghệ; những ghi chép của tác giả chỉ là tư liệu của những trải nghiệm riêng về những hoạt động văn hóa xã hội ở một thời gian cụ thể. Chúng bị giới hạn khá nhiều, do quy mô cá nhân của sự nắm bắt các sự việc, hiện tượng, con người, … Tuy vậy, với thời gian, những tư liệu do cá nhân ghi chép và lưu giữ này, thiết tưởng cũng có ý nghĩa như những quan sát của một nhân chứng, một người trong cuộc. Tác giả công bố các ghi chép này chính là với ý nghĩa như vậy.

Hà Nội, tháng 4 – tháng 5/2012

LẠI NGUYÊN ÂN

 

 

 

MỤC LỤC

Lời dẫn

Phần Một: THƯ HÀ NỘI

– Thư 25. 12. 1986, gửi Vương Trí Nhàn

– Thư 15. 2. 1987, gửi Vương Trí Nhàn

– Thư 17. 6. 1987, gửi Vương Trí Nhàn

– Thư 14. 7. 1987, gửi Vương Trí Nhàn và Lê Ngọc Trà

– Thư 10. 9. 1987, gửi Vương Trí Nhàn và Lê Ngọc Trà

– Thư 28. 9. 1987, gửi Vương Trí Nhàn

– Thư 12. 12. 1987, gửi Vương Trí Nhàn và Lê Ngọc Trà

– Thư 14. 1. 1988, gửi Vương Trí Nhàn, Lê Ngọc Trà, Trần Đình Sử

– Thư 27. 1. 1988, gửi Vương Trí Nhàn

– Thư 5. 2. 1988, gửi Vương Trí Nhàn

– Thư 14. 2. 1988, gửi Vương Trí Nhàn, Lê Ngọc Trà, Trần Đình Sử

– Thư 9. 3. 1988, gửi Vương Trí Nhàn

– Thư 14. 3. 1988, gửi Vương Trí Nhàn

– Thư 14. 4. 1988, gửi Vương Trí Nhàn

– Thư 2. 5. 1988, gửi Vương Trí Nhàn

– Thư 27. 5. 1988, gửi Vương Trí Nhàn

– Thư 1. 7. 1988, gửi Vương Trí Nhàn

– Thư 15. 9. 1988, gửi Vương Trí Nhàn

– Thư 31. 5. 1990, gửi Ý Nhi

– Thư 16. 11. 1991, gửi Ý Nhi

Phần Hai. NHỮNG TRANG GHI CHÉP RÚT TỪ SỔ TAY

– 1986

Các trang ghi chép

Chú thích

– 1987

Các trang ghi chép

Chú thích

– 1988

Các trang ghi chép

Chú thích

Phần Ba. VĂN HỌC VIỆT NAM TRONG THỜI KỲ ĐỔI MỚI

I. Vài nét về 10 năm trước đổi mới (1975-85)

1. Xã hội, chính trị, kinh tế

2. Văn học và một vài ngành nghệ thuật

A/ Những nét nổi lên như sự kiện

B/ Mấy nhận xét chung

II. Bùng nổ đổi mới. Cao trào và thoái trào đổi mới trong văn học

1. Xã hội-chính trị

2. Văn nghệ và đổi mới

A/ Ban Văn hóa văn nghệ trung ương Đảng

B/ Văn nghệ

C/ Thoái trào

III. Khép lại. “Đổi mới” bị quy phạm hóa. Mô hình “đổi mới” Việt Nam

1. Xã hội – chính trị

2. Văn hóa văn nghệ

IV. Mấy nhận xét chung

1. Những thành quả của văn nghệ đổi mới

2. Nhận xét mở rộng

A. Thử so sánh với vụ Nhân văn – Giai phẩm

B. Nhược điểm trong sự chuẩn bị

C. Nhược điểm từ truyền thống trí thức

 

 

 

PHẦN MỘT

THƯ HÀ NỘI

 

Hà Nội, 25. 12. 1986

Nhàn thân mến,

Mình định viết thư cho Nhàn luôn, nhưng tính lười thế nào ấy, rồi công việc và bận bịu hàng ngày cứ cuốn đi, chẳng làm sao ngồi viết cho được. Hôm nay, đọc lại “thư chung” Nhàn gửi, để ở chỗ chị Mến, [1] mình thấy cần phải viết, nhưng gởi ai, cầm đi lúc nào thì chưa biết được. Mong rằng thư sẽ tới vào Tết ta, góp với Nhàn một niềm vui nho nhỏ trong cảnh xa nhà. Cái “không gian lữ thứ” ấy, mình chỉ có thể hình dung, nhưng cũng có thể chia sẻ.

Hà Nội thế nào ư? Thì cũng vẫn như thế. “Nhà” ta, “Hội” ta thế nào ư? [2] Thì cũng vẫn vậy. Có vẻ chộn rộn hơn mà cũng có vẻ thưa vắng hơn.

Mình sẽ kể lộn xộn ít điều.

Thứ nhất là cái tin (về sau không thành sự thật) về việc ông Nguyễn Khải sẽ vào TW khóa này.

Ông Nguyễn Minh Châu đưa tin đến Tác Phẩm Mới một buổi sáng trước ĐH [3] một tuần, với một vẻ hứng khởi đặc biệt. Ông Châu giải thích là ông ấy không hình dung được ông Khải sẽ ra sao khi tới cơ quan Hội hoặc “nhà số 4” [4] bằng xe Volga! Mà ông ấy bảo tự Châu đánh giá Khải rất cao, như một nhà văn có được ở mức cao nhất ý thức về thiên chức của mình, con người mình. “Mấy năm gần đây, qua sáng tác, có thể thấy ông Khải hư vô nhiều hơn, hoài nghitrừu tượng nhiều hơn. Sở dĩ tôi nói thế vì tôi (NMC) cũng tự thấy mình hư vô hoài nghi và trừu tượng nhiều hơn. Nó khiến ta trở về là người Á châu nhiều hơn: Chỉ người Á châu, anh trí thức nào cũng có một chút Thiền. Và cũng thấy những nét đó ở Bondarev, Aitmatov, [5] những nhà văn của cùng một thế giới XHCN. Con người nghệ sĩ ấy sẽ đặt ra sao cho vừa vào cái khuôn politique, [6] một vị trí khác hẳn, mà lại là một miếng rất to!”…

Lê Lựu thì bảo: “Tôi đang hí hửng sẽ được một cái giường. Ông Khải gửi ở chỗ tôi một cái giường và một cái tủ do cơ quan sắm cho ông đại tá, cứ giục tôi gửi vào Sài Gòn cho. Kỳ này ông ấy được nhà cửa rộng rãi hàng trăm mét vuông, chắc mình được lộc là cái giường ấy”.

Cái “lo” của Nguyễn Minh Châu và cái mừng của Lê Lựu đều hụt cả!

Ngô Thảo có vẻ đang vào lúc hết sức hứng khởi. Bây giờ Thảo là tay chức việc hàng số 1 của giới sân khấu: Phó giám đốc kiêm Tổng biên tập Nhà xuất bản SK mới thành lập; Phó tổng biên tập Tạp chí SK, đều dưới quyền trực tiếp của Xuân Trình. Nay Hà Nội mai Sài Gòn, lại có cuốn ghi chép: Nguyễn Thi Năm tháng chưa xa, [7] trên 600 trang vừa ra, Thảo đi tặng khắp, bảo là đáng việc hơn cả một ban “truyền thống” của Hội! May là Thảo đang lúc hứng, cho nên mình cứ lo Thảo ở Tiệp về sẽ cho mình một trận về “tội” chữa tàn bạo bài viết chung trong tập sách chung của bọn ta. [8] Mình đưa ông Mạnh và Sử xem, các vị chỉ nhận xét, rồi giao cho mình chữa. Chữa nát ra, gạch bỏ, rồi có khi lợi dụng chữ nghĩa của Thảo, xoay ngược ý của hắn ta lại. Nhưng đến giờ Thảo vẫn chưa kịp xem, đã tuyên bố là chấp nhận tất. Thảo dọa sẽ tống cho mình 1.000 trang các loại bài để soạn một quyển phê bình tiểu luận mình định giành cho Thảo ở Tác Phẩm Mới năm 88! [9]

À, Thảo bảo có nhận được thư Minh Thái, than phiền mất cắp ở Leningrad (ở Hà Nội không mất, lại mất ở Petersburg cơ đấy!) và nói buồn. Thảo bảo: Cô mình cứ bắt bồ với vài thằng Tây, rồi sẽ tìm được niềm vui sống thôi, dễ hơn cánh đàn ông chúng tôi nhiều! Không biết có dám viết như vậy cho người đẹp không?

Nhân nói thế, lại nói đến PHZ. Mới trông, hắn có vẻ một công chức lười ngồi lỳ ở bàn làm việc. Nhưng có ngồi nói chuyện mới thấy hắn quan tâm đến thời sự tỉ mỉ lắm. Thỉnh thoảng ra vào bên nhà Văn học, mình mới có dịp tiếp xúc nhiều hơn với hắn. Có cảm tưởng là khoa nghiên cứu văn học Xô-viết chẳng vào hắn ta mấy tí, vì hắn coi thường nó lắm. Hắn là “con của bố hắn” cả về phương diện văn học. Có lần nhắc tới Sử và món thi pháp khét tiếng của anh bạn chúng ta, Hân pha một mẩu này: Tại một cuộc họp ở Italia, một nhà nghiên cứu Xô-viết bảo phải nghiên cứu hình thức thì một tay nghiên cứu tư bản bảo phải chú trọng tìm hiểu nội dung! Mình bắt đầu nhận ra cái ý nhận xét của Nhàn trước đây về cái chất khinh bỉ người khác ở chàng này. Hắn kể về một nhà văn say rượu, cách một ngày lại tới phòng làm việc của bọn hắn một lần, lè nhè méo cả giọng mà cứ hết lời chê bai Thời xa vắng của Lựu. Hắn nhại tài lắm kia. Nhưng nói chung, nói chuyện với hắn có nhiều điều lý thú, bổ ích. Một đồng nghiệp tốt lắm mà chưa biết nên rủ hắn làm gì, vì có vẻ hắn chả muốn làm gì ngoài việc dịch. Hắn đã dịch xong Обмен và một số truyện ngắn của Trifonov để làm lại tập Nửa đời nhìn lại ở Tác Phẩm Mới. [10]

Quân thì mình ít gặp thôi, mà dù có gặp ngoài đường thì cũng không phải một mình Quân. Y thường cặp kè với bạn ủy viên thư ký Hội Mỹ thuật kiêm đại biểu QH. Một lần, xách bị đi chợ chiều, mình túm được hắn khi hắn đang trông xe cho cô bạn vào chợ. Hắn bảo hắn đang đói lắm, nghĩa là thiếu tiền lắm. Sách của hắn, năm nay hoặc năm sau cũng có vài quyển sẽ ra, cả cuốn Ngôn ngữ tạo hình lẫn cuốn Ghi chú về nghệ thuật. Đến đám cưới N.T. Oanh, bọn mình đang ngồi ở nhà Oanh, thì hắn và K. cùng đến và cùng về. Có cảm tưởng là hắn sống nhiều, ham vui nhiều, sống với tốc độ cao hơn hẳn bọn ta, nên cũng đã có dấu hiệu hao mòn, tiều tụy. Hắn mà “cháy” quá sớm thì cũng tiếc.

Gần như từ hôm Nhàn đi, mình chưa hề gặp B. Việt. Quan chức bận việc công nhiều quá mà.

À, Thời xa vắng của Lựu càng gây dư luận tợn. Hôm lớp phê bình (trên gác 3, của ông Đệ ấy mà) [11] thảo luận, Lựu có cuộc đối thoại rất lý thú với anh em. Có cảm tưởng là giới phê bình “đụt” quá, ý kiến vớ vẩn quá nhiều. Tại trường Nguyễn Du cũng có mấy cuộc trao đổi, mình có dự. Anh Hiến định biến nơi đây thành một trong những Цeнтр [szentr = trung tâm] của giới kia đấy.

Hôm vừa rồi, có lẽ là nhân sách 40 năm văn học [12] ra, ông Đệ rủ mình cùng vài đứa “trẻ” (Bùi Việt Thắng, Lê Quang Trang, Tôn Phương Lan) đi ăn phở. Đúng lúc mình đau răng, vừa đi khám về, gần như đang lên cơn sốt nhức răng. Thật là tình cảnh bi hài cho mình.

Trần Đình Sử nhiều việc. Anh Mạnh càng nhiều việc hơn. À, cuốn sách chung, chuyển cho Quang Huy biên tập đã xong, đang đọc duyệt. 300 trang đánh máy, độ 400 trang in. Sơ bộ là các nhận xét tốt. Nhưng chưa hoàn toàn xong xuôi, vì sau duyệt xuống in mới yên tâm hẳn. Mình định bàn với anh Mạnh và Sử triển khai đề tài gì đấy, vì hợp tác vừa qua là tốt, nên tiếp tục. Riêng Thảo thì có lẽ sẽ là nhà quản lý, không còn là критик [= nhà phê bình] nữa, nếu còn thì lại là критик театр [= nhà phê bình sân khấu] – một cách từ biệt đúng lúc chăng?

Mấy bạn Ngô Vĩnh Bình, Lê Quang Trang, Trần Bảo Hưng đang làm tập “Văn học 1975-85, tác phẩm & dư luận”, [13] có lẽ chỉ có Bình và Trang là hăng thôi.

Tìm người làm việc thật khó. Hơi mừng vì La Khắc Hòa xuất hiện trên báo chí nhiều hơn và chắc hơn.

Mình thì tự thấy làm việc hơi linh tinh. Lại là “specialiste” [= chuyên gia] viết các lời nói đầu – cho cuốn của H. Bazin ở nhà Phụ nữ, và V. Q. Phương bảo viết cho tuyển tập Chu Văn ở nhà Văn học. [14] Cảm giác càng ngày viết càng khó và mệt. Dịch thì chán, vì thảng hoặc mới gặp được ý hay. Vừa rồi, mình viết và dịch liên hồi chung quanh Trăm năm cô đơn, có đến gần 100 trang (viết 20 trang, dịch 60 trang), có vẻ chẳng để làm gì, chỉ để cho mình, để thỏa mãn một cái cơn tò mò và cũng để tự thỏa mãn cái nhu cầu “giải mã” tác phẩm khó. Một trò chơi thôi.

Nghĩ lại, mình thấy lâu nay trong nước dịch sách nhiều, nhưng chỉ hay dịch văn học loại 2, loại 3 của nước ngoài thôi, còn văn học loại 1 thì ít quá. Nhà Tác Phẩm Mới của ta mắc bệnh ấy đấy. “Phân xưởng sản xuất” của T.B. Tân hóa ra là làm như vậy, mà cái đà của nó thì từ BV. đã định sẵn như thế. Cái này góp ý khó lắm. Nhàn có suy nghĩ gì trùng với mình, nên gửi thư gợi ý với các anh trong BZĐ [= ban giám đốc] hỗ trợ thêm.

Sách tổ mình, 1986 ra hết rồi (40 năm văn học, Nhà văn nói về văn II đã ra cả, cuốn sau bị Xuân Tùng cho sang sách 87). Sách trong kế hoạch 87 cũng nộp in hết rồi (cuốn anh Nam, cuốn Xuân Diệu), còn cuốn Trần Thanh Địch thì bị lùi vào 88! [15] Có chuyện không vui này: Từ trong di sản, [16] bọn ta tưởng nằm đâu Sài Gòn, đến hôm bà M. Hạnh sang xin tạm ứng, mới vỡ lẽ là các vị quản lý in vẫn xếp nó trong hòm ông Hợp, đến lúc ấy mới lôi ra, rồi gửi gấp đi Sài Gòn, đến nỗi mình định xem lại chút ít, bỏ bài Chế Lan Viên ở đầu (vì ông Tấn nhắc: chuyện thời sự với Tàu có thể đổi, nên xem lại!) mà cũng không kịp. Thái Bá Tân còn than phiền là 2 vị đi Liên Xô đã bỏ lại số sách mà 2 nhà xuất bản ИХЛ và CTT [17] gửi cho ta theo yêu cầu, không đem về, người nọ đổ lỗi cho người kia, thật chán quá.

Một lần, V.Đ. Bình nhắc lời Nhàn: không biết 3 năm sau Nhàn về, cơ quan còn thế này không? Biết làm sao hở bạn, vì cơ quan không chỉ là một chỗ làm văn chương nghèo rớt nữa, mà còn là một chỗ ở Hà Nội, một chỗ cũng có đôi chút lợi lộc so với chỗ khác. Chưa nói các yếu tố khác nữa, nhưng chỉ thế cũng đã đủ thấy lo ngại rồi. Anh Nam càng được tín nhiệm thêm, nay kiêm chức bí thư đảng ủy cơ quan Hội. Anh Mãi sang hẳn cơ quan Hội. Anh Kiên phải làm việc cơ quan mình nhiều hơn. Anh ấy yếu đi nhiều, nhưng sự tỉnh táo của anh ấy thì đáng phục thật. Bùi Hòa được cử trưởng phòng tái bản, có cô Thư giúp việc. Thư được đăng truyện đầu tay trên Văn nghệ quân đội, được thưởng năm 86 của tạp chí ấy, vui lắm, nhưng cũng bắt đầu sợ văn học rồi.

Mình định lấy tất cả các sách trong năm 86 cho Nhàn, một thứ một cuốn. [18] Sang 87 trở đi, nếu Nhàn định lấy (mà nên lấy, để về có dịp xem lại văn học 3 năm ấy ra sao) thì mình sẽ nói với các vị hành chính.

Nhàn khỏe chứ? Cảm tưởng công việc ra sao? Liệu có lọt qua cái bộ máy quan liêu Xô-viết của Радуга [Raduga = Cầu Vồng] để “dạy cho bọn họ biết làm sách như thế nào cho người Việt Nam hiện nay” không – như ý định hăng hái lúc ở nhà? Mình cổ vũ đấy, vì các loại sách như của Bakhtin, Zatonsky… hoặc sách chỉ dẫn về văn học Xô-viết mà qua Raduga thì còn hay hơn nhiều.

Chúc Nhàn một năm mới vui vẻ, phấn chấn. Định làm cái gì dài dài, thông báo cho mình biết nhé.

Rất thân

ÂN

– Ví thử có bạn quen nào Nhàn cho đọc thư mình thì cứ bảo họ là các chuyện mình nói là thuần túy интимный [intimnyj = riêng tư] nhé. Kẻo lời đi lời về, gây sự nọ sự kia thì buồn lắm!

– Bây giờ mình thấy rất khó cộng tác với “Văn nghệ”. Họ cứ nhè tên mình mà bỏ bài. Trên “Văn nghệ”, Nhàn sẽ thấy người ta in ảnh G. Marquez chẳng qua vì có ông Q. Tổng biên tập ngồi cạnh. Người ta điểm sách Con đường mòn ấy trong khi có hàng chục tác phẩm như thế được in lại. Thế thì vô phương rồi! Tạp chí của Hội thì chưa ra, mà cũng có vẻ không muốn ra. “Đất làm ăn” chật hẹp quá chừng. Nhàn ạ.

– Quyển của Nhàn, chưa có bài nào điểm đâu. Sử muốn viết, nhưng chưa tìm được chỗ. Có lẽ cậu Nguyên An sẽ viết cho “Văn nghệ”. Nhưng cứ tin rằng dư luận các đồng nghiệp không cổ vũ bọn ta lắm đâu. Thà nghĩ thế còn yên tâm hơn. Riêng mình, mình lại nghĩ một cách tuyệt vọng đến sách vòng 2 cho bọn mình. [19] Sức thì còn, vốn cũng còn. Nhàn cũng vậy. Nhưng khó lắm.

– Ở nhà, “Văn nghệ” đã đăng bài về D.Th. Hương và về Kim Lân [20] của Nhàn. Mình kịp đọc bài về D. Th. Hương. Rất thích, có vẻ автор [avtor = tác giả] tự bộc lộ là критик [kritik = nhà phê bình] nhiều hơn. Sử thì chê mấy chữ “chất lượng…” ở đầu đề, vì ngay về phương diện báo chí cũng không nên dùng hai chữ ấy, như một thông báo đột xuất, không nên. Hương ở Nha Trang ra, bảo mình: có người bảo Hương: thằng Nhàn viết một bài chửi cô tàn tệ thế, cô thấy thế nào? Hương bảo Hương cười trả lời: “Bảo là chửi cũng được, nhưng không phải thế đâu”. Kể ra ở ta người ta hiểu phê bình cũng tồi thật, bọn ta dễ oan lắm. Nếu gặp ông nhà văn nào “bẩn tính” thì còn mệt hơn nữa kia. Hương bảo: đã là bạn bè trong văn học, cứ để bạn viết thỏa sức. Cũng rộng rãi đấy chứ. (Ở Nha Trang ra, Hương cũng vừa thoát khỏi một cuộc đam mê vớ vấn. Năm nay Hương có một tiểu thuyết ra ở nhà Phụ nữ. Một cây viết khỏe ra trò mà cũng là một kẻ bị trời đày).

Chú thích

[1] “thư chung” ở đây ý nói thư Vương Trí Nhàn gửi chung nhà xuất bản Tác Phẩm Mới khi anh vừa từ Hà Nội sang Moskva, làm việc biên tập sách hợp tác Xô-Việt (sách Liên Xô dịch sang tiếng Việt, in tại Moskva, mỗi cuốn đều đứng tên một nhà xuất bản VN và nhà xuất bản Cầu Vồng /Raduga/ của Liên Xô; bản dịch đã được biên tập sơ bộ tại VN gửi sang Nxb. Cầu Vồng, tại đây bản dịch được biên tập lại một lần nữa bởi 2 biên tập viên của phía LX. và phía Việt Nam). “Chị Mến”: bà Trần Thị Mến, khi ấy là cán bộ phòng hành chính Nxb. Tác Phẩm Mới.

[2] “Nhà” ta, “Hội” ta: Nhà xuất bản Tác Phẩm Mới; Hội nhà văn VN.

[3] ĐH: đây ý nói đại hội Đảng CSVN lần thứ VI, họp từ 15 đến 18/12/1986.

[4] “nhà số 4”: từ nói tắt quen thuộc trong giới văn nghệ, trỏ tạp chí “Văn nghệ quân đội”, trụ sở ở nhà số 4 phố Lý Nam Đế, Hà Nội.

[5] Chỗ này nhắc tên Yuri Bondarev (s. 1924) và Chinghiz Aitmatov (1928-2008) hai nhà văn Xô-viết.

[6] “politique” (chữ Pháp): chính trị.

[7] Nguyễn Thi: “Năm tháng chưa xa”, rút từ số tay ghi chép của Nguyễn Thi tức Nguyễn Ngọc Tấn (1928-68), Ngô Thảo sưu tầm chỉnh lý giới thiệu; Nxb. Văn nghệ Tp. HCM., 1985.

[8] Cuốn sách viết chung nói đây là cuốn chuyên luận về thành tựu và các vấn đề của nền văn học Việt Nam dân chủ cộng hòa và Cộng hòa XHCN Việt Nam từ 1945 đến 1985, do nhà xuất bản Văn học đặt 5 tác giả Nguyễn Đăng Mạnh, Lại Nguyên Ân, Vương Trí Nhàn, Ngô Thảo, Trần Đình Sử; sách in lần thứ nhất nhan đề “Một thời đại văn học mới” (in xong tháng 12/1987 tại Tp. HCM., 284 trang 13×19 cm), in lần thứ hai với nhan đề “Một thời đại mới trong văn học” (in xong trong quý I/1996, tại Hà Nội, 332 trang 13x19cm).

[9] Đây là nói về cách làm sách thời trước 1990: từng tổ biên tập trong từng nhà xuất bản phải tìm đề tài, dự kiến trước và làm thành các bản kế hoạch các sách định in trong một vài năm sắp tới.

[10] Đây là nói truyện vừa Đổi chác (tiếng Nga, Обмен / Obmen), 1969, của Yuri Trifonov, 1925-81; bản dịch truyện này sẽ đưa vào tập Nửa đời nhìn lại, Nxb. Tác Phẩm Mới tái bản có sửa chữa và bổ sung, H., 1987 (Phan Hồng Giang, Trần Thọ Chính dịch, Lại Nguyên Ân giới thiệu). Lưu ý: từ sau đây các trường hợp dùng từ nước ngoài hay viết tắt sẽ ghi chú trong ngoặc vuông [ ] ngay trong văn bản.

[11] Đây là nói Lớp lý luận phê bình trẻ, do Ban thư ký Hội nhà văn mở từ tháng 11/1986, gồm 48 người, sinh hoạt hàng tuần tại phòng họp ở gác 3 nhà 65 Nguyễn Du; nhà giáo, nhà phê bình Phan Cự Đệ (1933-2007) là một trong những người tích cực giúp chủ tịch Hội đồng LLPB của Hội là Hà Xuân Trường mở lớp này, nhiều nhà phê bình tham dự lớp này vốn là sinh viên từng học với nhà giáo Phan Cự Đệ nên cũng thường đùa nhau gọi đây là “lớp của ông Đệ”.

[12] Sách 40 năm văn học (do Nxb. Tác Phẩm Mới đặt bài các tác giả Xuân Diệu, Bùi Hiển, Phong Lê, Hà Minh Đức, Phan Cự Đệ,…) nói về quá trình văn học cách mạng VN 1945-85; Lại Nguyên Ân là biên tập viên được giao tổ chức bản thảo cuốn sách này.

[13] Sách này tuy do 4 người cùng làm, nhưng khi đưa in chỉ có 3 người đồng ý để bút danh trong nhóm soạn; đó là cuốn: Văn học 1975-1985, tác phẩm và dư luận /Vân Trang, Ngô Hoàng, Bảo Hưng sưu tầm biên soạn/ Hà Nội: Nxb. Hội Nhà Văn, 1997, 516 trang 14,5 x 20,5 cm. (Vân Trang = Lại Nguyên Ân; Ngô Hoàng = Ngô Vĩnh Bình; Bảo Hưng = Trần Bảo Hưng)

[14] Đây là nói tới cuốn Rồi lửa sẽ dập lửa (1978) tiểu thuyết Hervé Bazin (1911-96), bản dịch Đoàn Chấn, lời giới thiệu Lại Nguyên Ân, Nxb. Phụ nữ, 1987. Cùng thời gian này L.N.Â. nhận lời viết lời nói đầu cho một tuyển tập Chu Văn, bài viết sau đó không được dùng và bản thảo bị thất lạc, gần đây, 2011 mới tìm lại được.

[15] Ở đây nhắc tới các cuốn do tổ biên tập lý luận phê bình Nxb. TPM. thực hiện: Những năm tháng ấy (hồi ức, Vũ Tú Nam), Xuân Diệu, con người và tác phẩm (tiểu luận, tưởng niệm, nhiều tác giả), Tìm hiểu truyện ngắn (kinh nghiệm sáng tác, của Trần Thanh Địch).

[16] Đây là nói đến việc gửi đi in tái bản cuốn Từ trong di sản… (Những ý kiến về văn học từ thế kỷ X đến đầu thế kỷ XX ở nước ta), do nhóm Nguyễn Minh Tấn, Trần Lê Sáng, Hồ Tuấn Niêm thực hiện, đã in lần đầu vào năm 1981 tại Hà Nội, đến 1986 in lần thứ hai, đưa vào in tại Tp. HCM.

[17] ИХЛ và CTT (chữ Nga): viết tắt tên 2 nhà xuất bản nước ngoài; ИХЛ (chữ Nga, viết tắt tên Издательство Художественной Литературы = Izdatel’stvo Khudozhestvennoj Literatury = Nhà xuất bản văn học); CTT: không còn nhớ là viết tắt tên một cơ quan xuất bản nào đó.

[18] Từ lúc tái lập đến lúc này, nhà xuất bản Tác Phẩm Mới có quy định mỗi tên sách do Nxb. TPM in ra, cán bộ nhân viên trong cơ quan đều được nhận (không phải trả tiền) mỗi tên sách 1 cuốn; khi số tên sách mỗi năm ra nhiều hơn thì quy định mỗi người mỗi năm được 10 cuốn.

[19] “Quyển của Nhàn”: đây là nói đến cuốn “Bước đầu đến với văn học”, tập tiểu luận phê bình đầu tay của Vương Trí Nhàn (Nxb. Tác Phẩm Mới, 1986); “sách vòng 2”: ý nói tập tiểu luận phê bình thứ hai của mỗi nhà phê bình. Thời kỳ này vẫn trong tập quán bao cấp, khi làm các cuốn sách đầu tay cho mỗi cây bút, dù thuộc thể loại nào (thơ, văn xuôi, tiểu luận phê bình), phải in lần lượt đến hết số người được cho là thuộc cùng một “lứa” (tất nhiên rất tương đối) rồi mới có thể nghĩ đến lần thứ hai.

[20] Đó là các bài của Vương Trí Nhàn: Chất lượng những sáng tác gần đây của Dương Thu Hương (V.N. s. 41, ngày 11. 10. 1986); Nhà văn Kim Lân (V.N. s. 51, ngày 20. 12. 1986).

Comments are closed.