Tiểu thuyết
Đặng Văn Sinh
PHẦN BA
Chương 12
1
Lê Văn Khải đi khỏi làng Cùa được ba hôm thì Trương Đình Tái, quyền Trưởng công an đem hai dân quân đến Trại Cá bảo mẹ con bà Hai:
– Anh Nghiên theo chúng tôi ra ủy ban.
Khúc Thị Hài chột dạ bảo:
– Nó làm gì mà các ông bắt?
– Có chuyện đấy, đến ủy ban khắc rõ.
Bà Hai lắc đầu:
– Chắc lại chuyện thằng Khải.
Nghiên bị dẫn ra trụ sở. Bùi Quốc Tầm đã ngồi chỡ sẵn.
– Thằng Khải đi đâu?
Quả nhiên không ngoài dự đoán. Thấy thái độ hách dịch của Chủ tịch xã, Nghiên ngứa mắt muốn quại cho hắn một phát vào mặt nhưng bắt buộc phải tỏ thái độ lễ phép một cách giả tạo:
– Thưa ông Chủ tịch, nhà tôi không có ruộng mà những bốn miệng ăn nên anh ấy phải đi kiếm việc làm.
Tầm lại hỏi:
– Làm ở đâu? Lúc đi sao không ra xã trình báo?
– Anh ấy bảo chỉ đi ít hôm rồi lại về nên chúng tôi chưa kịp báo với ông Tái.
Tầm hắt hơi liền mấy cái, khạc đờm nhổ xuống đất rồi sẵng giọng :
– Những đối tượng như các anh ra khỏi làng nửa ngày cũng phải xin phép. Đấy là quy định của chính quyền.Thế mà anh Khải vắng nhà đã ba ngày không lý do. Yêu cầu anh khai thật ra.
– Tôi đã bảo là anh ấy đi tìm việc làm, khi chưa tìm được thì không thể nào có nơi cư trú để trình báo với các ông.
– Anh cũng lắm lý luận gớm nhỉ? – Tầm châm chọc – Vậy tôi hỏi anh, tại sao trước khi đi anh Khải không xin phép?
Nghiên cười nửa miệng, nhìn vị Chủ tịch cố nông như nhìn một con lừa:
– Anh ấy biết trước, có xin các ông cũng chẳng cho đi. Đói bụng đầu gối phải bò. Chẳng lẽ cứ ngồi nhà chờ chết đói?
– Thế là rõ. – Tầm cười đắc thắng – Vậy thì anh hãy tạm xuống buồng giam dưới kia, đợi đến khi nào thằng Khải về sẽ được ra.
Ngày thứ tám, Trương Đình Tái mang lệnh của Chủ tịch ủy ban hành chính xã Đoàn Kết đọc cho mẹ con bà Hai nghe:
– Từ ngày hai mươi bốn tháng ba năm…, vợ hai địa chủ Khúc Đàm là Phùng Thị Thoả, con gái là Khúc Thị Hài, vợ tên Quốc dân đảng Lê Văn Vận, có nợ máu với bà con bần cố nông, lập tức phải rời xóm Trại Cá ra đồng Chó Đá ở, nếu cố tình trái lệnh sẽ bị tống giam. Chủ tịch Bùi Quốc Tầm đã ký.
Sáng sớm ngày hai mươi nhăm, mẹ con bà Hai cho tất cả đồ đạc tuỳ thân vào đôi quang thúng. Khúc Thị Hài gánh, còn bà mẹ khoác chiếc bị cói thập thững theo sau. Từ xóm Trại Cá đến đồng Chó Đá không xa lắm nhưng phải qua khu ruộng trũng hàng năm chỉ cấy một vụ còn một vụ bỏ hoá vì ngập nước. Khu đất mà xã Đoàn Kết bố trí cho các hộ địa chủ ở cách bãi tha ma chưa đầy trăm thước. Nơi đây mười lăm năm trước, sau trận huyết chiến giữa quân Áo đen của Khúc Kiệt với lính Nhật của Hirosi, làng Cùa đã phải chôn liền một lúc hơn bẩy chục người vô tội. Xương thịt của họ đã tan vào lòng đất làm xanh tốt hàng ngàn thế hệ cỏ cây nhưng linh hồn họ chắc gì đã được siêu thoát về nơi tịnh thổ.
Trịnh Doãng, lão Mộc điếc cùng Đoàn Văn Đáp, cháu họ gọi Phó lý Kiền bằng bác vào xóm Trại Cá dỡ ngôi nhà cũ dựng lại cho mẹ con bà Hai. Ba người vừa trèo lên mái lột được mấy hàng rạ đã thấy Trương Đình Tái khoác súng đến sừng sộ:
– Ngôi nhà này ủy ban đã trưng dụng không được dỡ. Các anh xuống ngay .
Đoàn Văn Đáp bảo:
– Mẹ con bà Hai giờ không có lấy một cây tre dựng lều, xin các ông làm ơn cho người ta.
– Không nói lôi thôi. – Quyền Trưởng công an quát – Các anh cố tình phá nhà là tôi hô quân dân trói lại.
Tối hôm ấy mẹ con bà Hai phải trải rạ nằm trên nền đất ẩm đắp tạm tấm chăn đụp. Phải mất gần ba hôm kiếm vật liệu bọn Trịnh Doãng mới dựng xong căn lều. Nó chỉ vừa đủ kê chiếc chõng và để đôi quang thúng, mỗi khi ra vào đều phải khom người nhưng dù sao cũng còn hơn phải phơi nắng phơi sương giữa trời.
Cũng vào thời gian ấy, Lê Văn Nghiên bị giải lên huyện để công an tiếp tục điều tra về sự mất tích của Lê Văn Khải mà lãnh đạo xã Đoàn Kết nghi là anh ta đã trốn vào Nam theo địch. Ở huyện người ta đối xử với Nghiên khác hẳn với Bùi Quốc Tầm và Trương Đình Tái. Họ không tát tai hoặc thích cùi chỏ vào ngực, thậm chí không lên giọng quát tháo nhưng thực sự Nghiên thấy sợ. Đó là nỗi sợ hãi cố hữu bởi anh ta luôn biết thân phận mình chỉ là con sâu cái kiến, đang đối mặt với một thế lực có sức mạnh tập thể vô cùng lớn được duy trì bằng nguồn năng lượng đặc biệt đó là chuyên chính vô sản. Họ mở miệng ra là nhân danh đảng và giai cấp vô sản, có khi chưa cần dùng đến biện pháp cứng rắn những công dân hạng hai như anh ta đã rúm người lại như con chuột nhìn thấy lão mèo già đang lặng lẽ vuốt râu .
Ông công an mặc áo đại cán, tay đeo đồng hồ Nikles có cái cằm nhọn, ria đen nhánh nhưng thưa, thái độ rất nhã nhặn:
– Anh cứ bình tĩnh kể lại cho chúng tôi nghe từ đầu đến cuối việc anh Khải đi khỏi làng Cùa như thế nào. Nhớ là phải thật tỉ mỉ, chính xác .
Người thư ký ngồi bên cạnh đã chuẩn bị sẵn giấy bút. Anh ta ghi rất nhanh khi Lê Văn Nghiên bắt đầu nói. Trong nửa giờ, người cằm nhọn vừa nghe vừa ghi sổ tay. Ông ta viết khá xấu nhất là các chữ s, m, và đặc biệt chữ k chẳng khác gì cái chân gà. Nghiên trình bày một cách ngắn gọn, có phương pháp làm ông công an bất giác nheo mắt hỏi:
– Anh có biết chữ không?
– Thưa ông, có biết chút ít.
– Chắc là học bình dân?
Nghiên ngẫm nghĩ một lát rồi gật đầu:
– Thưa ông, vâng.
Ông công an khoảng trên ba mươi, trán rộng, mũi nở, mắt sáng trông có dáng của một lãnh đạo quốc gia trừ cái cằm nhọn. Thỉnh thoảng ông ta nhìn Nghiên như kiểu mèo vờn chuột. Cái nhìn tưởng là vô cảm, bất chợt thoảng qua nhưng nếu để ý sẽ thấy những tia sắc lạnh như mũi khoan thép làm ý chí đối phương tê liệt, mất hẳn khả năng phòng thủ cuối cùng phải bộc lộ bản chất. Nghĩ đến đây, Nghiên tự bảo mình: Ta nguy mất rồi.
– Anh nghĩ gì thế? – Người cằm nhọn lại phóng một tia nhìn làm Nghiên cồn cào ruột gan.
– Tôi đang nghĩ giá mà anh Khải viết thư về cho biết đang làm việc ở đâu.
Ông ta gật gù:
– Nếu thế thì còn nói làm gì. Mà này, anh có viết được không?
– Dạ, cũng võ vẽ đôi chút…
– Vậy hãy viết bản tường trình. – Ông công an đẩy xấp giấy, cây bút sắt cùng lọ mực tím mà người thư ký đã chuẩn bị sẵn về phía anh – Cứ bình tĩnh mà trình bày. Nhớ dùng chữ nhỏ và đừng để mất nét. Tôi bận họp, chiều ta lại gặp nhau.
Bản tự khai của Nghiên chỉ chừng năm trăm chữ viết gọn trong hai mặt giấy, nét đẹp như cắt làm tay thư ký há hốc mồm không tin ở mắt mình. Nội dung hoàn toàn giống với lời khai, chỉ có điều cốt yếu mà người ta đang muốn biết là Lê Văn Khải đang ở đâu thì Nghiên không viết vào. Chiều hôm ấy, Nghiên ngồi trong trại tạm giam. Ông công an điều tra không đến. Chắc vẫn bận họp. Sáng hôm sau, ông Thẩm, Nghiên nghe thấy người thư ký gọi như vậy, đến rất sớm. Vừa bước vào phòng anh ta đã thấy vị cán bộ điều tra cầm trong tay bản tự khai của mình đọc rất chăm chú hoặc đang làm ra vẻ chăm chú. Thời gian đọc khá lâu gần như ông ta đánh vần từng chữ làm Nghiên sinh nghi, ông ta đang đóng kịch hay cũng mới thoát nạn mù chữ?
– Anh ngồi đi. – Ông Thẩm đặt tờ giấy xuống mặt bàn rồi khẽ gật đầu – Chữ anh viết đẹp lại đúng mẹo luật nữa.
– Ông quá khen.
– Hình như trước đây anh cũng được học hành tử tế chứ không phải chỉ ở trình độ bình dân học vụ?
Nghiên thoáng nghĩ, chuyện này không thể giấu, nếu giấu lập tức ông ta sẽ liên hệ ngay đến việc mình lừa dối chính quyền, tội không nhỏ.
– Thưa vâng, tôi đã tốt nghiệp trung học đệ nhất cấp.
– Có thế chứ. Bọn trí thức tiểu tư sản các anh nói chung là thuộc thành phần bóc lột, ăn bám vào bà con bần cố nông. – Ông Thẩm vừa bẻ đốt ngón tay khùng khục vừa phân tích – Cải cách ruộng đất là một cuộc đấu tranh giai cấp lớn nhằm xoá bỏ sự áp bức bóc lột, thực hiện khẩu hiệu người cày có ruộng. Chính sách của nhà nước không nhằm đánh vào thân thể các anh mà để cải tạo tư tưởng cổ hủ lạc hậu trong đầu các anh. Một trong những yêu cầu tối thiểu để giảm nhẹ hình thức xử phạt là phải thành khẩn. Vậy mà từ hôm qua đến giờ anh vẫn cứ loanh quanh không cho nhà chức trách biết hiện giờ anh Khải ở đâu?
– Ông nói rất có lý. Tôi cũng nóng lòng muốn được ra khỏi đây về nhà giúp đỡ gia đình nhưng ngặt một nỗi từ khi đi khỏi làng đến giờ anh Khải chẳng có tin tức gì.
– Thế này vậy. – Ông Thẩm vẫn rất bình tĩnh bảo – Tôi để anh suy nghĩ thêm từ giờ đến sáng mai, nếu ngày mai vẫn cố tình không chịu khai ra tên Khải đi đâu, chúng tôi bắt buộc phải đưa anh lên tỉnh.
Ngày hôm sau, ông Thẩm hoàn toàn thất vọng nhưng vẫn giữ được thái độ bình tĩnh cần thiết của người cán bộ điều tra chính trị. Trước khi Lê Văn Nghiên bị hai công an dẫn đi, ông ta còn dặn:
– Cái chính là phải thành khẩn nói hết những điều mình biết. Pháp luật tuy nghiêm khắc nhưng vẫn có phần giảm nhẹ nếu các đối tượng thực sự hối cải. Anh nhớ lấy.
Thường thì những đối tượng có lý lịch phức tạp như Lê Văn Nghiên mà công an huyện đã chuyển tỉnh thì hiếm khi được về ngay. Anh ta vừa đến ty công an đã được đưa ngay vào trại tạm giam K4. Trong trại, sau Cải cách ruộng đất vẫn còn khoảng hơn trăm người, phần lớn là con em địa chủ cường hào, tay sai Quốc dân đảng đang chờ xử lý.
Cũng vào thời gian ấy, mẹ con bà Hai không còn thứ gì có thể ăn để sống, đành phải tính đến việc đi xin. Chuyện ăn mày vào những năm giữa thập kỷ năm mươi không có gì lạ. Cái lạ là hầu hết số người lang thang khất thực trên khắp các nẻo đường đều có nguồn gốc địa chủ, cường hào hoặc phú nông đã bị tịch thu điền sản .
Tất cả bọn họ đều mang một đặc điểm chung khi hành nghề là nón mê kéo sụp xuống che mặt, giọng nói lí nhí và không bao giờ dám nói rõ thân phận. Khúc Thị Hài trong bộ váy áo vá chằng vá đụp, vai khoác bị, cánh tay lành dắt bà mẹ lưng còng ngót nghét sáu mươi chẳng khác gì hình ảnh nàng Cúc Hoa dắt mẹ Tống Trân hành khất thời xưa. Bà Hai mệt thỉnh thoảng phải ngồi nghỉ lấy sức.
Lúc ấy hai mẹ con trên đường vào làng Rào. Con đường hẹp lát gạch nghiêng, ở giữa gồ lên như mai rùa. Nắng tháng tư trong suốt không đến nỗi gay gắt như trưa tháng sáu nhưng vì là nắng mới nên rất khó chịu với những người đi bộ đường trường. Trời trong xanh, thỉnh thoảng mới có gợn mây trông như hình mạng nhện đan bằng những sợi trắng như bông. Mặt trời lên cao, mạng nhện càng nở phình ra cho đến lúc giống hệt tấm lưới khổng lồ choán nửa bầu trời rồi mờ dần. Một đàn sếu lông xám nhịp nhàng vỗ cánh bay về phía đầm Ma theo hình mũi tên. Con đầu đàn hơi tách ra khỏi đội hình rồi bất ngờ hạ dần độ cao. Chúng bay quanh làng vài vòng kêu lên những tếng rất lạ tai sau đó tiếp tục cuộc hành trình. Qua cổng làng, mẹ con bà Hai rẽ vào một ngôi nhà ngói trông bề ngoài thì gia chủ có vẻ khá giả. Khúc Thị Hài kéo tấm khăn đen che mặt, cố ý để người ta nhìn thấy cánh tay tật nguyền.Con chó vện bằng nắm đấm cắn dai nhanh nhách. Người ra mở cổng là một bà già.
– Bà ơi! Bà làm ơn cho con xin chút ít. Quê con mất mùa đói lắm.
Bà cụ già lúng búng nhai trầu hỏi:
– Sao dạo này lắm ăn mày thế không biết? Mẹ con nhà chị ở mạn nào đến?
– Quê con mãi làng Vạn, Thái Bình cơ. – Khúc Thị Hài nói dối – Cùng đường mới phải ngửa tay đi xin, mong bà mở lòng từ bi, một nắm khi đói bằng một gói khi no.
Bà cụ vào nhà xúc bơ gạo đưa cho Khúc Thị Hài bảo:
– Nhà này cũng sắp hết ăn rồi nhưng nhìn thấy mẹ con nhà chị nhếch nhác quá không đành.
Bà Hai cảm động khẽ nói:
– Đội ơn bà!
Hai người lại thất thểu trên con đường trục giữa làng, từ xa nhìn thấy ngôi nhà gạch năm gian lợp ngói âm dương, Khúc Thị Hài chỉ tay hỏi mẹ:
– Mình cứ liều vào trong ấy xem có được gì không?
Bà Hai bảo:
– Mẹ đoán nhà ấy là nhà cố nông mới được chia chẳng ăn thua gì đâu.
Trước cửa, một người đàn ông mặt dẹt, trán thấp, cởi trần, những dẻ xương sườn hình nan quạt trồi lên dưới lớp da vàng ệch đang húp xoàn xoạt bát cháo khoai vẫn còn bốc khói, vừa nhìn thấy ăn mày vào sân đã xua như xua tà:
– Không có gì đâu, nhà này cũng phải húp cháo khoai trừ bữa đây.
Khúc Thị Hài nhăn nhó:
– Bác nhón tay làm phúc giúp kẻ cơ nhỡ một chút gọi là.
– Về quê làm lấy mà ăn. – Người đàn ông vẫn xịt xoạt húp thứ nước lõng bõng trong chiếc bát chiết yêu, giọng rồm rộp như bị bỏng lưỡi – Đây mấy đời cố nông mà không thèm ngửa tay xin xỏ ai bao giờ nhé!
– Bác nói thế thì chúng tôi đành chịu.
– Không chịu cũng không được. Nhà này sáng qua đã phải đem ra chợ bán mấy cái ghế quả thực mua được thúng khoai khô, hôm nay mới có cháo húp. Mà thôi, chị chờ một tí, tôi mang cho nắm khoai. Nếu đói quá thì có thể ăn tạm. Khoai phơi được nắng, thơm lắm.
Xế chưa mẹ con bà Hai ra nghỉ dưới gốc đa làng giở khoai khô ra nhai. Ăn xong, khát quá, Khúc Thị Hài lội xuống giếng ngắt lá sen múc nước mang lên cho bà Hai uống. Đêm ấy, về đến căn lều của mình bà Hai nằm thiêm thiếp bụng sôi òng ọc. Hôm sau, lúc sắp đi, Khúc Thị Hài bảo mẹ:
– Hôm nay bà mệt cứ ở nhà.
Bà Hai lắc đầu :
– Tôi già thế này ngửa tay xin người ta mới thương, một mình chị sợ rằng khó.
– U cứ lo không đâu. Cái tay khoèo của tôi thế này mà lắm lúc cũng được việc.
– Thời buổi thóc cao gạo kém, ăn xin như rươi, người cụt cả hai chân còn chưa ăn ai huống hồ cái tay khoèo của chị.
Hai mẹ con sang vùng Mễ Tây. Dọc đường 228 thỉnh thoảng lại gặp một toán bị gậy, người nào cũng mặt xanh nanh vàng, áo quần nhếch nhác trông như quỷ nhập tràng. Khúc Thị Hài hỏi một ông mặt choắt, rậm râu, già nhất trong đám, dáng bước lòng khòng:
– Các bác ở đâu ta?
– Dưới Cổ Trai.
– Sao không vào chợ La?
– Vào thế đếch nào được. – Ông già buột miệng chửi – Mẹ cha chúng nó chứ! Lão vừa mon men đến cổng mấy thằng khán thị đầu trâu mặt ngựa đã vác gậy đuổi như đuổi tà. Có tay mặt rỗ còn trẻ bị câm cứ liều xông vào bị nó nện dập ống chân.
– Ở nhà có còn ruộng vườn không?
– Các ông bà nông dân tịch thu hết rồi, giờ chỉ còn trơ hai cái thân già thay nhau đi xin của bố thí đây.
Qua chợ La được một thôi đường, mặt trời đã lên đến đỉnh đầu. Hai mẹ con vào ngồi quán đá dưới gốc cây đa cổ thụ tránh nắng. Được một lúc có ba phụ nữ ăn mặc kiểu nửa quê nửa tỉnh đạp xe ngang qua. Người lớn tuổi bảo hai chị bạn:
– Ta vào quán này nghỉ uống chén nước.
Trên chiếc chõng tre nức mây đen sì như dính bồ hóng, ngoài nải chuối tây đã chín vàng chỉ có ấm nước vối, một lọ thuỷ tinh kẹo bột xanh đỏ với chiếc điếu cày ghếch bên cạnh. Người phụ nữ đứng tuổi mặc áo cổ bẻ xanh sĩ lâm([1]) chiết ly, quần láng đen, đội nón bài thơ, vai quàng chiếc túi vải, ngồi xuống ghế bảo bà chủ quán:
– Bà cho ba bát nước vối với đĩa kẹo.
– Các bác về đâu thế?
– Về tỉnh bà ạ.
– Nước đây mời ba bác. Từ đây về tỉnh đi xe lết([2]) chả mấy, cứ thong thả cho mát .
Nhìn thấy hai mẹ con người ăn mày, chị phụ nữ đứng tuổi thoáng giật mình, nhưng rồi chị ta lấy lại bình tĩnh rất nhanh, thái độ thản nhiên như không bảo bà chủ quán:
– Bà mang nải chuối này với hai bát nước đưa cho mẹ con người ăn mày kia, tôi sẽ trả tiền.
Bà Hai mắt kém lại bị quáng nắng không nhận ra người phụ nữ nhưng Khúc Thị Hài đã ngờ ngợ ngay từ khi chị ta bước vào quán. Khi người ấy đến gần hai mẹ con, bỏ khăn ra thì Khúc Thị Hài khẽ kêu lên :
– Dì Ba!
Người phụ nữ đặt tay lên môi ra hiệu nói khẽ rồi hỏi:
– Sao lại đến nông nỗi này?
– Chúng tôi bị xã đuổi khỏi làng phải ra đồng Chó Đá ở vì thằng Khải bỏ nhà đi tìm việc, thằng Nghiên thì đang nằm trong trại tạm giam.
Chị ta cắn môi ngẫm nghĩ một lát rồi dặn:
– Nói chuyện ở đây không tiện. Nghe tôi dặn. Nếu có gì cần giúp đỡ chị hãy sang thị xã đến nhà số 15 phố Đông Sơn, hỏi bà Dương Thị Xuân.
Trên đường về, bà Hai bảo con gái:
– Cái người mang quan tài về liệm cho chồng mày hôm nó bị bắn đúng là cô ấy.
– Con cứ nghĩ là dì ấy chết rồi.
Bà Hai gật đầu:
– Tao cũng nghĩ thế, mà… sao lại phải thay tên đổi họ nhỉ?
– Chắc là phần đời sau này của dì ấy có những uẩn khúc.
– Tao chẳng biết được mà chỉ thấy cô ấy khác trước nhiều lắm.
– Có khi người ta làm cán bộ bà ạ. Nay mai con phải lên tỉnh một chuyến may ra cứu được thằng Nghiên.
*
* *
Ông công an điều tra cấp tỉnh xem ra còn có văn hoá và khả năng nhẫn nại hơn nhiều so với người đồng nghiệp dưới huyện. Ông này không thuyết lý dài dòng mà đi ngay vào bản chất của sự việc:
– Thực ra, trong thời gian qua chúng tôi đã có đầy đủ hồ sơ về anh. Việc anh Khải đi khỏi làng không báo cáo chính quyền hẳn là đã có một kế hoạch được sắp đặt từ trước. Ở huyện công an, anh có ý định giấu trình độ học vấn nhằm mục đích gì?
Nghiên im lặng. Ông công an tiếp tục, giọng đều đều vô cảm:
– Các anh được đào tạo rất bài bản trong hệ thống nhà trường thực dân, bị nhồi nhét toàn những tư tưởng phản động và hệ ý thức nô dịch, trong thâm tâm rất bất mãn với chính quyền mới và luôn chờ dịp để chống lại.
Nghiên thấy đã đến lúc phải chứng tỏ thái độ của mình:
– Lập luận của ông không đúng vì nó xuất phát từ nhận định chủ quan, mang tính áp đặt.
– Anh dám…
– Ông cứ bình tĩnh.- Nghiên xua tay cắt lời. – Trước hết chúng tôi cùng giai cấp với ông. Bố tôi là đảng viên đảng Lao động, hoạt động cách mạng nhiều năm và đã bị đế quốc cầm tù. Cách mạng thành công, ông ấy được cử làm Chủ tịch huyện, vậy mà hồi Cải cách bị đem ra xử bắn với tội danh rất mơ hồ là tay sai Quốc dân đảng. Từ cái chết oan ức của cha tôi, các ông nhân danh bần cố nông, tước hết số tài ít ỏi, đuổi chúng tôi ra khỏi làng, thử hỏi đấy là thứ đấu tranh giai cấp gì?
– Anh không được láo! Nói xấu chính quyền cách mạng là tù mọt gông. – Ông cán bộ thẩm vấn vứt ngay cái mặt nạ đạo đức giả nhìn xoáy vào Lê Văn Nghiên như muốn ăn tươi nuốt sống anh ta – Biết điều thì khai ra, thằng anh mày trốn ở đâu?
– Tôi đã nói rồi, tôi không biết.
Cái kiểu khiêu khích của Lê Văn Nghiên rất khó chịu. Đó là thứ châm chọc mang mầu sắc văn hoá hơn hẳn đối phương một bậc làm ông công an phát khùng, không kìm được liền giáng cho anh ta mấy cái bạt tai. Mấy cái tát có nghề làm Nghiên nổ đom đóm mắt, máu cam chảy ra làm rớt xuống ngực áo. Anh ta cười như mếu:
– Thì ra chuyên chính của nhà nước dân chủ là thế này đây.
– Đúng đấy. – Ông cán bộ điều tra cười nhạt, giọng khinh khỉnh – Nếu không biết điều thì sẽ còn rất lâu mới được nhìn thấy ánh mặt trời anh bạn ạ.
Chiều hôm ấy, ông công an điều tra trả Nghiên về trại K4 với mệnh lệnh:
– Tống vào phòng biệt giam, cắt khẩu phần ăn hai ngày.
Trên đường về, ông cán bộ điều tra vẫn còn hậm hực vì gần một năm làm công việc thẩm vấn tội phạm chưa bao giờ gặp một thằng nhãi ranh miệng còn hơi sữa mà thở ra toàn lý sự như Lê Văn Nghiên.
Hai mẹ con bà Hai lên trại thăm Nghiên nhưng không được gặp. Trên đường về họ phải rẽ vào làng Tảo An xin ăn. Bà Hai sẵn có bệnh tim, bụng đang đói, trời vừa nắng gắt lại đổ mưa, bị cảm ngã xuống ruộng. Khúc Thị Hài phải khó khăn lắm mới kéo được mẹ lên thì bà đã hôn mê. Giữa đồng không mông quạnh, chẳng biết làm thế nào, chị ta đành chạy vào làng nhờ người giúp. Ông Xã đội trưởng hỏi:
– Mẹ con nhà chị ở đâu? Làm sao phải đi ăn mày?
Lúc này không thể nói dối. Chị ta đành kể về thân phận mình. Nghe xong, vị Xã đội trưởng lạnh lùng phán:
– Uỷ ban đã có lệnh, thân nhân các gia đình địa chủ phản động có nợ máu với nhân dân chết không được để chung ở nghĩa địa khu dân cư. Nếu mẹ chị chết chúng tôi sẽ cử mấy dân quân ra đào huyệt chôn.
Khúc Thị Hài tức tưởi chạy ra đến nơi thì bà Hai đã tắt thở. Chị ta nằm phục bên xác mẹ, người cứ rung lên bần bật. Tiếng khóc bị nghẹn lại bởi trong người hầu như đã cạn kiệt sức lực. Có cảm giác như chẳng còn bao lâu nữa chị cũng đi theo mẹ.
Mấy dân quân bó bà Hai trong chiếc chiếu từ thiện rồi đào huyệt chôn ngay cạnh đường gần một bụi dứa gai. Vài tháng sau ngôi mộ cứ to dần, thỉnh thoảng lại có người thắp hương. Đó là các bà vùng Ba Tổng đi chợ Cháy mang đất đá đắp vào mong hồn người chết phù hộ cho mua rẻ, bán đắt.
Mẹ chết đường, con vào trại, Khúc Thị Hài bị đột quỵ nằm liệt giường gần nửa tháng mới dậy được. Cũng may trong túi vẫn còn ít tiền dì Ba cho hôm gặp ở quán nước làng Cự Khê nếu không thì chết đói. Lê Văn Khải vẫn không có tin tức gì. Chị ta định sang tỉnh một chuyến xem có hy vọng gì không, nhưng hễ cứ đứng dậy là đầu choáng mắt hoa không bước được.
Nhịp sống của cư dân đồng Chó Đá vẫn cứ diễn ra đều đều trong nỗi nơm nớp lo sợ lúc nào đó đến lượt mình sẽ vào trại giam. Con cái địa chủ, cường hào, Quốc dân đảng thường bị dân quân làng Cùa đến bắt đi bất cứ lúc nào. Có đứa vừa lang thang xin ăn về, chưa kịp bước chân vào lều đã bị trói giật cánh khuỷu điệu xuống trụ sở Uỷ ban chỉ vì đêm qua nhà ông Chủ tịch Nông hội bị chặt mất buồng chuối. Cộng đồng những kẻ ăn mày bất đắc dĩ này cũng chẳng tử tế gì vói nhau mà ngược lại luôn rình rập đề phòng nhau. Kinh nghiệm cho biết, không nên đặt hết niềm tin vào bất cứ người nào dù họ có tốt đến mấy. Phương châm hành xử khôn ngoan là chỉ có thể tin vào chính mình, vì ở đây tai vách mạch rừng. Trong hoạn nạn rất nhiều trường hợp không những không cưu mang nhau mà còn sẵn sàng bán đứng nhau để có được sự thương hại của bần cố nông. Chuyện các bà cô cạnh khoé, xoi mói nhau xảy ra như cơm bữa ở khu lều ổ chuột. Ông Phó lý cựu Trương Đình Hàm, không phải đi tù nhưng bị tịch biên gia sản là một trong những hộ cư trú sớm nhất đồng Chó Đá. Bà Phó lý mắc chứng kinh giật, tay chân lúc nào cũng run bắn, cầm bát cơm không vững. Nhà đông người, đói triền miên nhưng ông Hàm nhất quyết không đi ăn xin mà bắt lũ con bắt cua, mò ốc, tát cá bán lấy tiền đong gạo. Những ngày đầu rất khổ. Con cái địa chủ ngồi bán hàng ở chợ Rồng, chợ Từ Đường, chợ Đình không ai thèm mua. Bà con bần cố nông sợ ăn tôm cá của họ sẽ bị lây thói áp bức bóc lột, rất nhiều hôm chị em cô Xuyến phải mang về.
Xuyến là con cả ông Hàm, xinh nhất nhà, trước Cải cách đã hứa gả cho con trai Đồ Sách là anh Thiệp. Hai người quyến luyến nhau lắm, nhưng đến khi ông Phó lý cựu bị quy lên địa chủ, mà Đồ Sách chỉ ở mức bần nông thế là ông ta tuyên bố huỷ bỏ hôn ước. Anh Thiệp cưới cô La thành phần cố nông, gia đình cơ bản chỉ phải tội toét mắt. Có một người làng Cùa rất mê Xuyến là Nguỵ Văn Thành. Anh ta đã ngoài ba mươi mà vẫn chưa có con trai trong khi cô vợ lùn tịt đẻ liền một mạch năm ả vịt giời. Thành khá đẹp trai, tán gái thành thần nhưng cô vợ sẵn máu Hoạn Thư, nghe phong phanh ông chồng léng phéng ở đâu là lồng đến đánh ghen. Tuy nhiên, Thành cũng có trăm phương ngàn kế lừa vợ để chim chuột đám chị em quá lứa nhỡ thì, ngứa nghề. Hồi ấy gia đình ông Hàm vẫn ở xóm Đình, một lần gặp Xuyến ngoài ngòi Mác, anh ta hỏi:
– Tình hình bên nhà thế nào ?
Xuyến vốn ghét thói trai lơ của tay trưởng ban thông tin xã, chẳng thèm nhìn anh ta, nói trống không:
– Hỏi làm gì ?
Nguỵ Văn Thành lim dim mắt bảo:
– Có cần đây giúp cho.
Con gái ông Phó lý cựu cũng không vừa liền đổi giọng:
– Có hạ được thành phần cho nhà tôi không?
Thành lắc đầu:
– Nói thật nhá, ông cụ đã có tên trong danh sách năm người bị xử bắn đợt này, cô mà đồng ý… tôi có thể nói với ông Lạc miễn tội chết.
-Chỉ phải đi tù phải không?
– May ra thì thoát đi tù, nếu vận động thêm được bà Sót. Bà này xem ra lập trường cứng rắn lắm.
– Thôi thì trăm sự nhờ anh, tôi chẳng có gì ngoài tấm thân anh muốn làm sao thì làm…
Mấy hôm sau Thành hẹn Xuyến ra chiếc lều vó của ông Khích ở ngòi Mác. Từ nửa tháng nay ông ta nghỉ việc để tham gia biểu tình đấu tranh vạch mặt địa chủ. Vừa gặp Xuyến, anh trưởng ban thông tin đã thông báo:
– Việc nhà cô xong rồi. Tôi đã vận động mấy cốt cán chỉ giữ ở mức địa chủ thường, không có thêm cái đuôi cường hào hoặc Quốc dân đảng nhưng phải tịch thu tài sản. Chốc nữa về bảo với ông cụ có tiền nong vàng bạc gì thì giấu đi, hai ba hôm nữa là họ đuổi ra đồng Chó Đá.
Xuyến vào trong lều, đầu tiên cô cởi tấm áo cánh gụ, cởi yếm rồi bất ngờ tụt nhanh chiếc váy để lộ ra tấm thân nõn nà làm Nguỵ Văn Thành run bắn người. Trăng đầu tháng chênh chếch rọi vào cửa lều có thể thấy rõ cặp vú mịn màng trắng toát choán cả khuôn ngực đang phập phồng. Cô gái co chân, nhích người nằm dịch vào một bên rồi bảo anh thông tin:
– Nào anh còn đợi gì nữa. Tôi còn trinh đấy.
Thành vẫn đứng trước lều, mặt ngẩng lên nhìn trăng, im lặng.
Xuyến lại giục:
– Chả lẽ tôi đem sự trinh tiết đổi lấy mạng sống của thày tôi mà anh còn chưa bằng lòng hay sao?
Người đàn ông ngồi xuống cửa lều cầm chiếc áo đặt xuống ngực cô gái khẽ bảo:
– Em mặc váy áo vào đi.
– Sao thế, hay là anh nghĩ lại không giúp gia đình tôi nữa?
Thành lắc đầu:
– Tiếc là không hạ được thành phần nhà em xuống nữa. Tôi biết ông cụ bị oan.
Xuyến ngồi dậy mặc váy áo xong lưỡng lự một lúc rồi bảo:
– Gia đình em chẳng biết lấy gì tạ ơn anh. Bao giờ em phải ra đây nữa?
– Thôi đừng ra nữa. Giờ em phải về đường tắt qua miếu Si, đừng đi cổng chính, bọn thằng Phong đang canh ở đấy.
Chuyện hai người trong lều vó không giấu được ông cựu Phó lý. Xuyến không ngờ đêm ấy, lúc cô ra khỏi nhà ông Hàm đã cử cô em bám theo. Biết nhưng ông bố vẫn âm thầm chịu đựng cho đến khi phải ra đồng Chó Đá. Một hôm cả nhà đi tát cá ở thùng Đấu, ông Phó lý cựu mang dây thừng ra cây đa giữa đồng treo cổ tự tử, may mà có Trịnh Doãng và Nguyễn Đình Phán đi chao giậm châu chấu phát hiện ra, chậm chút nữa thì không cứu được.
2
Nghiên bị tạm giam đã hơn hai tháng. Thời gian trôi đi, cuối cùng Khúc Thị Hài thấy rõ một điều, nếu cứ chần chừ việc đi gặp dì Ba thì con trai bà ta khó mà được về. Hai chục năm qua, người đàn bà tật nguyền vẫn ôm mối hận bị cướp chồng mà không có cách nào hoá giải được. Nó như căn bệnh trầm kha, ăn sâu vào lục phủ ngũ tạng, cứ mỗi ngày lại làm hình hài một héo hon. Khúc Thị Hài từ lúc sinh ra đã quặt quẹo, bản tính nhu nhược, chỉ muốn an phận, biết mình không phải là đối thủ của Mạc Thị Lánh. Bà Ba là người không chịu sự ràng buộc của khuôn phép, luôn khát khao hướng tới một cái gì đó tốt đẹp hơn hoàn cảnh hiện tại cho dù chỉ là ảo tưởng. Cô ta dám sống hết mình, sẵn sàng đập phá, nhổ toẹt vào mớ giáo lý phong kiến cổ hủ, vô nhân đạo ràng buộc thân phận người phụ nữ. Đứng trước Mạc Thị Lánh, KhúcThị Hài chỉ là cái bóng mờ nhạt, nhiều khi còn bị thần khí của cô ta làm cho biến dạng nên rất ngại giáp mặt.
Khúc Thị Hài đến nhà 15 Đông Sơn vào buổi chiều. Lúc ấy đã tan tầm. Các công sở hết giờ làm việc. Bà Ba trong bộ quần áo cánh nhuộm nâu non, tóc búi buộc túm bằng chiếc khăn mùi xoa, chạy ra mở cổng. Nhìn thấy bà Hài, bà Ba hỏi ngay:
– Sao lâu thế mới đến? Tôi cứ chờ mãi.
Khúc Thị Hài chớp chớp mắt:
– Mẹ tôi mất rồi.
Bà Lánh hỏi dồn:
– Mất khi nào? Bệnh gì?
Khúc Thị Hài lấy ống tay áo quệt nước mắt:
– Bị cảm nắng chết trên đường đi ăn xin.
– Còn thằng Nghiên?
– Vẫn chưa được thả. Tôi lên gặp dì Ba hôm nay cũng vì việc ấy. Thôi thì trăm sự nhờ dì, mẹ con tôi không bao giờ dám quên.
Bà Ba đứng dậy khép cửa buồng, kéo rèm che phía trong rồi ngồi xuống bên cạnh Khúc Thị Hài bảo:
– Từ nay chị đừng gọi dì Ba hay bà Ba nữa. Tôi bây giờ là Dương Thị Xuân, đang làm Bí thư phụ nữ tỉnh. Nhà tôi là Phó chủ tịch. Chiều nay bên Uỷ ban tỉnh có cuộc họp quan trọng nên giờ ông ấy vẫn chưa về.
Khúc Thị Hài thấy nhà vắng vẻ nên hỏi:
– Dì Ba được mấy em?
– Được hai. Thằng lớn đang đá bóng với lũ trẻ ngoài phố, còn con em về quê thăm bà nội từ đầu tháng chưa ra.
– Mừng cho dì.
Mạc Thị Lánh cau mặt:
– Đã bảo cứ gọi là chị cho thân mật.
– Vâng, thưa chị!
Được rồi, việc thằng Nghiên cứ để tôi lo. Ông nhà tôi phụ trách khối nội chính có ý kiến của ông ấy là bên công an phải thả thôi. Nhưng mà nghe tôi dặn đây, không được nói với bất cứ ai ở vùng Ba Tổng về tôi. Đời tôi cũng ba chìm bảy nổi khốn khổ lắm mới có được ngày hôm nay.
– Có phải vì thế mà hồi ông lái bị xử chị cũng không dám về làng Bòng?
– Hoàn cảnh lúc ấy bắt buộc phải nhẫn nhục. – Bà Bí thư phụ nữ thở dài bảo – Cũng may ông Quảng kịp thời giữ lại, tôi mà về là bị bắt ngay.
– Nửa đêm hôm ấy chị qua sông mang quan tài về chôn cất ông cụ phải không?
– Nói thực với chị, làm thế là rất mạo hiểm nhưng nghĩa tử là nghĩa tận, huống hồ đấy lại là người sinh ra mình.
Khúc Thị Hài gật đầu:
– Cảm ơn chị cũng đã lo cho anh Vận tấm áo.
Bà Ba cầm tay Khúc Thị Hài, giọng ngập ngừng:
– Trước đây còn trẻ dại tôi có lỗi với chị và hai cháu nhiều lắm, giờ nghĩ lại thật xấu hổ.
Khúc Thị Hài bảo:
– Chuyện cũ qua rồi, người chết cũng đã yên phận, đừng nhắc lại thêm đau lòng.
(Xem tiếp kỳ sau)
Chú thích:
(1): Một loại vải sợi bông do Trung Quốc sản xuất vào những năm năm mươi, sáu mươi
(2): Xe đạp
[1] Một loại vải sợi bông do Trung Quốc sản xuất vào những năm năm mươi, sáu mươi
[2] Xe đạp