Những ghi chép ở tầng thứ 14 (kỳ 3)

Tiểu thuyết Thận Nhiên

CỦA ĐẤT NƯỚC MÌNH

Câu chuyện này do ông nội tôi kể lại. Hình ảnh Việt Nam được tái hiện lại trong tôi qua những câu chuyện như thế này. Tôi biết chúng không hoàn toàn được kể lại một cách chính xác, mà nhiều phần chúng bị ông nội và cha tôi sắp xếp lại theo thiên kiến của họ.

Ông nội tôi căm ghét cộng sản như hầu hết những người Việt trong cộng đồng, những người đã bỏ nước ra đi bằng nhiều cách, nhiều đợt khác nhau, nhưng hầu hết đều có chung tâm trạng thất vọng với cái giá của hòa bình mà họ phải trả, cũng như những kinh nghiệm cay đắng với chế độ cầm quyền khi còn sống trong nước. Ông cho rằng cộng sản là nguyên nhân của mọi thất bát của cuộc đời ông; xa hơn nữa, sự thất bát và xuống dốc của gia tộc; xa hơn nữa, sự đổ vỡ, tan nát của cả đất nước; cộng sản là nguyên do mà ông, và những người như ông, phải bỏ nước ra đi. Ông thấy mình có bổn phận truyền nỗi căm phẫn ấy xuống cho cha tôi, cha tôi truyền xuống tôi, và tôi sẽ truyền xuống các đời sau.

Ông chưa bao giờ kể với tôi về chiều dài lịch sử Việt Nam xa hơn thời điểm 1945. Ông chỉ khuyến khích tôi tự tìm hiểu lấy bằng cuốn Việt Nam Sử Lược của sử gia Trần Trọng Kim, cuốn sách mà có lẽ ông mua lại từ hiệu sách cũ ở Sài Gòn hay đâu đó, rồi đưa cho tôi trong dịp Tết, năm tôi lên mười lăm tuổi, khi mẹ tôi đưa đến thăm ông.

Cuốn sách bìa cứng, dày, được bọc bằng vải xanh, với nhan đề và tên tác giả mạ vàng. Giấy mỏng, màu vàng ngà, cổ kính.

Khi tôi đứng vòng tay kề bên, ông nắn nót viết ở trang đầu, “Tặng Quân, cháu của ông. Đây là câu chuyện của đất nước mình”, rồi ông trao cho tôi.

“Cháu giữ lấy mà đọc. Chuyện đất nước của mình ở trong đó”.

Tôi cảm động và thấy được sự nghiêm trang khác thường ở cử chỉ và giọng nói.

Khi nói “đất nước”, tất nhiên là ông nói đến cái đất nước xa xôi, bé tí, được in trên mô hình quả địa cầu trong phòng ngủ của ông. Những năm trước ông thường đố tôi tìm ra dấu vết của cái đất nước châu Á đó trên quả cầu, một màn đố vui có thưởng. Và “của mình” tức là của ông, và của tôi- của thằng cháu chưa từng đặt chân lên Việt Nam, mảnh đất mà ông gọi là quê hương ấy.

Khi lớn lên, tôi mơ hồ cảm nhận được nỗi mong ước và kỳ vọng mà ông đặt vào tôi- đứa cháu đích tôn- nhiều hơn là lên những đứa cháu khác, qua những trao truyền về dòng dõi và huyết thống, rằng phải bảo tồn những gì đang có và khôi phục những gì đã mất.

Tiếng Việt của tôi phát triển tốt nhờ cuốn sách này và những cuốn sách văn học miền Nam được in lại ở Cali mà tôi tìm mượn ở thư viện, những tạp chí Văn học, Hợp lưu, Thế kỷ 21… mà ông đặt mua hàng tháng, những băng ca nhạc Thúy Nga Paris, những phim bộ Hồng Kông xem ở nhà mấy đứa bạn, những tờ báo mẹ tôi nhặt ở các chợ địa phương, và những buổi học với hai vị sư trụ trì chùa Báo Ân- một ngôi chùa Việt ở trong vùng.

Tôi theo học tiếng Việt ròng rã suốt hơn bốn năm, mỗi tuần hai buổi, mỗi buổi ba giờ. Sau này, khi đã khá, tôi vừa học vừa tham gia vào nhóm giáo viên dạy thiện nguyện cho trẻ em ở đó và ở một nhà thờ Việt khác, như một cách trả lại món nợ mà mình đã vay.

Tiếng Việt có thành ngữ “người mù sờ voi”. Theo ý nghĩa của thành ngữ này thì tôi là một thằng mù đang rị mọ sờ sẫm từng phần cái cội nguồn, cái căn cước văn hoá và chủng tộc của mình, cố gắng tạo dựng những ý niệm về hình hài tổng thể của nó. Ông tôi rất khuyến khích chuyện này. Ông bảo tôi nên làm vậy, vì đó là “về nguồn”, là “tìm về nguồn cội”, để khỏi “mất gốc”. Cội nguồn là những từ có ý nghĩa vô cùng thiêng liêng với ông. Sống ở Mỹ lâu rồi, nhưng tôi thấy ông vẫn tỏ vẻ khinh miệt với những kẻ vì nỗ lực hội nhập vào vùng đất sống mới mà xao lãng với cái nơi mà họ từ đó ra đi. Ông khinh, bất kể kẻ đó thuộc sắc tộc nào: Á hay Phi hay Âu hay Nam Mỹ, bất kể hắn có địa vị gì.

Tôi thì, tôi thấy mình sờ voi.

Tôi không sờ trúng ngà voi.

Tôi không sờ trúng vòi voi.

Tôi không sờ trúng tai voi.

Nhiều khi tôi ngờ rằng mình sờ trúng đít voi.

Một cái đít chỉ đầy cứt là cứt!

***

“Hồi đó ông nội còn là một đứa bé chín tuổi, tham gia trong đội Thiếu niên Tiền phong ở trong làng, còn ông cố chỉ là anh nông dân, không làm một chức vị gì cả, thậm chí dân quân cũng không, vì có cha bị cách mạng thanh trừng. Làng của gia tộc mình nằm bên con sông, ở khúc hẹp, rộng chừng hơn một trăm mét, bên kia là đồn Tây.”

“Vì sao gọi là Tây vậy ông?”.

“Tây là Tây phương. Người ta gọi Pháp là Tây vì họ từ phương Tây tới”.

Qua lời ông kể, tôi cố gắng tưởng tượng mình là ông, nhập vai vào tình huống và bản thân ông, qua những tình tiết của câu chuyện sau đây.

“Tờ mờ sáng, tôi choàng dậy cùng lúc với những người trong nhà khi nghe tiếng mõ bất ngờ vang lên cuối làng. Có tiếng ai la lớn:

“Trâu ăn lúa, trâu ăn lúa…!”.

“Trâu ăn lúa” là quy ước của dân quân để báo rằng lính Tây đi bố ráp. Còn “Bò ăn khoai” là báo lính Bảo an.

Mạ tôi lay, “Dậy mau con, dậy… Tây đi lùng! Tây đi lùng!”.

Tôi choàng dậy. Bà tôi xua tay, nói với cha mẹ tôi, “Hai đứa bây chạy mau đi, ra phía cánh đồng sau làng với họ. Tao lo cho thằng Bái được, cứ yên tâm”.

Bà ra dấu cho cha mẹ tôi chạy thoát thân trước, cùng với vài người hàng xóm, còn mọi việc ở nhà để bà lo.

Cha mẹ tôi vơ vội nón tơi. “Tụi con chạy ra đồng trước, chiều êm thì về, mạ hỉ?”.

Nói xong, hai ông bà bước vội ra ngõ, mưa nhoè nhoẹt con đường làng.

Tiếng mõ đã dứt, có lẽ người ta đã chạy xa rồi, không còn cần báo nữa.

Có tiếng chó nhà ai sủa. Tiếng súng nổ. Con chó ẳng lên một tiếng rồi im bặt.

Bà lôi tôi xuống bếp, dúi ngồi xuống kề bên. Bếp lửa còn cháy âm ỉ dưới cái kiềng, trên bắc nồi cháo nấu từ đêm qua. Bà giở nắp nồi, vơ đũa bếp quậy lên, rồi múc ra lưng một bát cho tôi. Bà bốc nắm tro thả lên đầu tôi, cái đầu húi trọc vì chứng cứt trâu. Bà quẹt lọ nghẹ dưới đít nồi, bôi lên mặt tôi, lên người tôi, để ngụy trang. Tôi đã được dặn bài học này từ trước. Tôi sẽ đóng vai một thằng bé nhem nhuốc, đói ăn, và đang bị bệnh. Cha mẹ đi làm ăn xa không có nhà, không biết họ ở đâu. Chỉ có hai bà cháu sống với nhau. Một thằng bé côi cút bệnh hoạn và một bà già lú lẫn”.

Tôi chỉ có thể dẫn mình theo câu chuyện ông kể tới đây thôi, một cách khó khăn. Tôi không thể hình dung được thêm những chi tiết khác. Những hình ảnh như một đoạn phim bị đứt mất giữa chừng.

Chứng “cứt trâu” là chứng gì mà người ta phải cạo trọc đầu? Có phải do bị ghẻ? Tôi thắc mắc nhưng không dám hỏi vì ngại làm đứt đoạn dòng hồi tưởng của ông.

Hai ông cháu đang ngồi ngoài vườn. Hôm nay thứ Bảy, mọi người đã ra khỏi nhà đi shopping hay đi chợ mua thực phẩm cho tuần sau.

Ông nhả từng bụm khói lớn sau mỗi lần bập bập, rồi gõ cái ống vố vào thành ghế đá cho tàn lửa bên trong rơi ra. Trời vẫn còn ấm trong nắng cuối thu. Một con ong nhỏ cứ bay vo ve lẩn quẩn mãi bên hai ông cháu.

“Rồi sao nữa ông?”.

“Rồi lính Tây được xe tải chở đến đầu làng và tràn vào ruồng bố thật nhanh. Mọi người không kịp chạy trốn. Dù đóng vai thằng bé bẩn thỉu và bệnh hoạn, ông cũng không được chúng tha. Ông bị chúng lùa theo đám trẻ con ra sân làng, bắt đứng một bên. Bên kia là đám người lớn bị bắt khi cố chạy băng qua cánh đồng. Ông không thấy mẹ, nhưng thấy cha đang đứng cùng với số nông dân trong làng. Chúng lùa mọi người ra để nhận diện và phân loại”.

“Nhận diện và phân loại để làm gì vậy ông?”.

“Để quyết định giết hay không. Nếu không giết thì đánh cho sợ để không theo Việt minh nữa. Hoặc bắt vào nội thành giam hay làm tạp dịch cho chúng”.

“Việt minh là ai vậy ông? Ông có theo Việt minh không?”.

“Việt minh là Việt cộng. Lúc đó nhà mình đang sống trong vùng quê, vùng hoạt động của Việt cộng”.

“Cháu hỏi là ông có theo Việt minh không?”.

“Không, ông không theo Việt minh”.

“Vậy ông theo Tây?”.

“Không, ông cũng không theo Tây”.

“Vậy ông theo ai?”.

“Ông không theo ai cả. Lúc đó ông chỉ là một đứa bé, nhỏ hơn cháu bây giờ”.

“Còn cha của ông? Ông ấy theo ai?”.

“Ông ấy cũng không theo ai cả. Ông ấy chỉ là một anh nông dân”.

“Vậy Việt minh với Việt cộng là một hả ông? Có phải Việt cộng là người Việt theo cộng sản không ông?”.

“Ừ, Việt cộng là người Việt theo cộng sản. Việt minh với Việt cộng ban đầu là hai thứ khác nhau, nhưng rồi là một. Việt minh là Việt cộng. Chuyện này dài và phức tạp lắm”.

“Ông có thể giải thích cho cháu không?”.

“Không, ông không thể. Cháu tự tìm đọc tài liệu để hiểu lấy. Cháu muốn nghe ông kể tiếp chuyện Tây đi lùng không?”.

“Muốn chứ. Ông kể tiếp đi”.

“Vậy thì đừng cắt lời ông”.

“Vâng”.

“Sau đó, những người đàn ông bị trói quặt hai tay ra sau lưng, đứng bên nhau sắp thành hàng ngang. Đàn bà thì chạy theo than khóc đứng chung quanh nhìn chồng và con mình đang trong bàn tay may rủi của số mệnh. Ông tuy nhỏ cũng phải đứng chung với đám con nít cùng lứa, nhưng đám này không bị trói.

Một người trùm kín đầu bằng bao bố, chiếc bao có khoét hai cái lỗ cho hai mắt nhìn ra, được bọn lính dắt ra. Nhiệm vụ của hắn là nhận diện và chỉ điểm những ai tham gia cách mạng. Hắn lần lượt đi ngang qua từng người, thỉnh thoảng gật cái đầu trùm bao trước một kẻ xấu số thì kẻ ấy bị lôi đi. Có mấy kẻ bị hắn cho rằng theo Việt minh. Lính Tây lôi những người này ra ngoài đồng bắn bỏ. Một số khác thì chúng nện một trận đòn chí tử bằng báng súng và lưỡi lê, rồi mang vào đồn để tiếp tục điều tra.

Thằng trùm bao bố đứng lại trước mặt cha của ông, ngần ngừ giây lát lâu hơn khi đứng trước những người khác. Rồi bước qua. Nhưng khi qua đám con nít thì hắn lại gật đầu với ông.

Ông nghe tiếng mẹ rú lên kinh hoàng.

Thằng sĩ quan Tây hỏi ông có phải là đội viên thiếu niên hay không. Ông gật đầu. Nó xáng cho ông hai bạt tai xính vính. Ông khóc nức nở. Không hiểu sao nó đứng ngần ngừ một thoáng khi thấy ông khóc dữ quá, rồi móc túi lấy ra một thỏi kẹo sô-cô-la đưa ông, xua tay ra dấu thả cho ông đi. Ông chạy qua với bà rồi đứng lỳ lại không chịu về, dù bà lôi đi. Ông vùng ra, len vào đám đông xúm xít để xem cảnh chúng bắn bốn người theo Việt Minh ở ngoài đồng, cách một khoảng xa.

Không phải Tây bắn. Một gã lính người Việt bắn. Gã xô họ quỳ xuống bờ ruộng rồi bắn vào gáy ở tầm gần. Vừa bắn vừa nốc rượu. Sau mỗi phát đạn, gã bước lại lật xác lên xem nạn nhân đã chết chưa. Máu của họ vấy lên áo lính và mặt gã.

Bọn lính Tây rút về, lôi theo những người tình nghi bị trói lại thành xâu, trong đó có ông Đoàn, dượng của ông. Lúc đó, người ta mới ra mang xác bốn người này về đặt ở sân làng.

Chập choạng tối, ông tham gia cùng đội thiếu niên. Họ tổ chức cuộc mít-tinh đả đảo bọn thực dân xâm lược, rồi lập kế hoạch phản công làm tiêu hao lực lượng và tinh thần bọn Pháp theo lời chỉ dẫn của một anh đoàn viên du kích. Ông cùng đi với người anh bà con là Kiên, tên ở nhà gọi là Chó Anh. Hai anh em đi đâu cũng có nhau, ông là Chó Em, vì nhỏ tuổi hơn Chó Anh. Chó Anh là con trai duy nhất của O Toan và ông Đoàn- người dượng đã bị bắt đưa về đồn.

Mười ba đứa cả thảy, mang theo nồi, thùng sắt, hay bất cứ thứ vật dụng gì mà gõ vào có thể phát ra tiếng kêu. Ông có cái trống múa lân nhỏ. Cả bọn nằm phục trong vạt cỏ rậm và vườn chuối bên bờ sông, quan sát động tĩnh ở đồn Tây bên kia sông trong ánh hoàng hôn mờ mờ hơi sương chiều. Rồi theo hiệu lệnh của anh du kích, cả bọn đồng loạt vừa hò reo vừa gõ nồi, trống… liên hồi. Bọn Tây trong đồn tưởng là bị bộ đội chủ lực của Việt Minh tấn công, bèn hốt hoảng chĩa súng bắn xối xả qua phía làng bên kia sông, chúng bắn suốt cả giờ, cho tới khi trời tối hẳn. Ông và các chiến sĩ cách mạng chạy thục mạng vào làng trốn. Bọn Tây cũng sợ, chúng không dám vượt qua sông để truy kích.

Kết cục, quân ta toàn thắng, vì đã làm tiêu hao một cơ số đạn đáng kể của địch và làm cho chúng sống trong nỗi hoang mang lo sợ, suy sụp tinh thần. Thiệt hại của phe cách mạng trong làng thì chỉ hai con heo, vài con gà, hai cái chuồng heo bị trúng đạn cháy nham nhở nhưng đã được dập tắt sau khi địch ngừng bắn.

Khi lính Tây ngừng bắn, ông không thấy Chó Anh đâu, hỏi trong đám bạn cùng chạy về thì không ai biết. Cả bọn hào hứng kéo nhau vào làng nấu nồi khoai để ăn liên hoan mừng chiến công, rồi ai về nhà nấy. Cho tới khuya vẫn chưa thấy Chó Anh về, cả nhà lo sợ nhưng không thể đốt đuốc đi tìm xa. O Toan vừa lo cho chồng bị bắt chưa có tin tức, vừa lo cho đứa con thất lạc. O đi loanh quanh trong mấy thửa vườn, vừa đi vừa thất thanh gọi con, “Kiên ơi…! Chó Anh ơiiii!”.

Mờ sáng hôm sau, ông theo cha và mấy người làng quay lại bờ sông. Khi đến đoạn cả bọn nằm phục kích chiều hôm qua thì ông thấy Chó Anh nằm bên vồng khoai, tay bíu lấy dây khoai, một viên đạn phá tan lồng ngực. Chắc Chó Anh không chết ngay, anh ấy giẫy giụa, đạp nát cả một khoảng cỏ. Ông thất thần, cúi xuống nhìn vào cái lỗ toang hoác trên ngực người anh mình. Những dẽ xương sườn gãy chìa ra. Máu còn trào ri rỉ. Chó Anh không chịu nhắm mắt, cho dù ai vuốt, cho tới khi được mang về cho chính tay O Toan vuốt mắt. O khóc không thành tiếng, không còn nhận biết gì nữa. O thất thần, trở nên bất bình thường và không có con nữa trong suốt quãng đời còn lại. Người ta mang xác Chó Anh về, đặt nằm kề bên bốn cái xác của những người đã bị lôi ra đồng bắn ngày hôm qua.

Với ông, ngày hôm đó chưa bao giờ hết, vì nó còn nằm mãi và trở lại nhiều lần trong ký ức. Chiều xuống, tiếng mõ thê thiết, rờn rợn trên ngọn lúa cháy.

Người ta thắp đuốc tổ chức truy điệu những người bị giết trong trận càn và Chó Anh, người đội viên tuổi trẻ anh hùng. Rồi những cái xác được mang đi chôn. Ông chưa kịp chia với Chó Anh thanh kẹo sô-cô-la, nó bắt đầu mềm oặt, chảy ra nhão nhoét. Ông ăn nửa thanh kẹo, gói phần còn lại trong miếng lá chuối, rồi bỏ lại ở ngôi mộ mới, cho kiến ăn.

Ông và các bạn nhỏ được chính quyền cách mạng tuyên dương lòng yêu nước. Nhưng sau đó ông lại bị bà và mẹ đánh cho một trận lê lết không phải vì tội yêu nước, mà vì tội đã góp phần làm cho cháu Chó Anh của họ phải chết.

Vài tháng sau, ông Đoan, cha của Chó Anh, được lính Pháp thả về. Ông gầy rộc, xơ xác. Ông và vợ- O Toa- thành một đôi thảm hại, như hai con ma thất thểu, không ra dáng dấp con người. Một ngày nọ, ông bị dân quân phát hiện có giữ một chiếc gương nhỏ và mảnh vải xanh trong túi. Chính quyền cách mạng cho rằng ông giả điên giả tỉnh, nhưng thật ra để giấu tung tích nhận làm gián điệp của Pháp, dùng hai vật này để làm tín hiệu báo tin mật cho chúng. Họ quyết định sẽ khử ông, bất chấp sự việc ông là gia đình liệt sĩ, có con hi sinh cho kháng chiến. May sao tin này lọt đến tai gia đình. Mọi người thấy tình hình quá nguy ngập, lén bàn với nhau rồi quyết định trốn vào nội thành. Chuyến vượt sông vào thành trót lọt. Phải mất một thời gian để phòng Nhì- cơ quan an ninh của Pháp- điều tra, xác minh lại lý lịch. Chuyến đi mở ra một vận mệnh mới cho gia tộc mình.

Sau này, nghiệm lại, ông thấy rằng vận mệnh của con người, hay của cả một đất nước, đều ở những chuyến đi, những cuộc chạy trốn”.

“Như chuyện vượt biển của ông, hả ông?”.

“Ừ, như chuyện vượt biển”.

Ông không kể nữa. Ông nhồi thêm thuốc vào chiếc tẩu, đốt hút. Tôi ngồi im theo, thở thật nhẹ theo từng bụm khói của ông. Tôi không muốn phá cái không khí hoài niệm mà ông đang chìm vào đó.

Tôi thấy mình chìm vào câu chuyện. Vào cái không gian ở một miền Trung Việt nắng gió, nghèo xơ xác. Có Tây đen, Tây trắng, Bảo an. Có trâu ăn lúa, bò ăn khoai. Có Việt minh, Việt cộng. Có Chó Anh, Chó Em. Có vết thương trên ngực đứa trẻ trạc tuổi tôi, mở ra toang hoác lộ những dẽ xương, rỉ máu.

“À, cái mõ là cái gì? Nó kêu như thế nào, ông hả?”.

“Con tra tự điển đi. Ông quên rồi”.

Tôi nói ra thành tiếng. Cố gắng phát âm cho đúng. “Mmmm… oooo… mooo… mõ”. Rồi lắng nghe từng âm thanh của danh từ, của động từ, của tính từ, âm thanh của một thứ ngôn ngữ vừa xa lạ vừa gần gũi mà tôi mới học được ngân vang trong đầu.

Tôi thấy mình đứng trước một con voi. Mắt bị bịt lại bằng một dải khăn đen, hai tay lần mò quờ quạng thân nó. Con voi ngó xuống tôi, cái thằng người nhỏ bé và tội nghiệp.

Tôi không hiểu hết những chuyện được kể, nhưng thấy chúng quá buồn, và thật kỳ cục. Chúng như những chuyện viễn tưởng ở một thế giới xa xôi nào, một thế giới nằm ngoài không gian và thời gian của địa cầu, của trí tưởng tượng. Chúng khác với những cuộc chiến tranh mà tôi được xem trong phim. Khác với cuộc chiến ở chiến trường Trung Đông hàng đêm tôi thấy trên ti-vi. Khác với những cuộc giết chóc man rợ ở châu Phi. Tôi tự nhắc mình rằng chúng là những câu chuyện xảy ra ở Việt Nam. Những câu chuyện có tuổi thọ đã gần một trăm năm. Tính đến bây giờ thì một trăm năm là dài lắm, thuộc về thế kỷ trước, ở một thiên niên kỷ khác.

Thật vậy, Việt Nam là một xứ sở ở một thiên niên kỷ khác.

Ở một thế giới khác.

CHA & CON

Một trong những khiếm khuyết lớn nhất của tôi là không nhớ được tên người. Vừa được giới thiệu với ai xong, hai phút sau tôi đã không thể nhớ được tên của kẻ đó là gì. Khi đọc sách cũng vậy, không những tôi không thể nhớ những cái tên trong đó mà nguy hại hơn thế nữa: tôi lẫn lộn họ với nhau.

Tôi lộn các tổng thống John F. Kennedy với Bill Clinton, George Washington với Thomas Jefferson. Tôi lộn Edgar Allan Poe với Charles Bukowski, Hồ Chí Minh với Ngô Đình Diệm. Và việc lộn các ông bạn của cha tôi với nhau, ông Trãi với ông Du, ông Quát với ông Khiêm, cô Hương với bà Huyện, là chuyện thường.

Cha tôi bày cho một bí quyết: nếu muốn nhớ tên của ai đó thì cách tốt nhất là hãy nhìn thẳng vào mắt họ, chạm vào thân thể họ, bắt tay, vỗ vai họ, xoa đầu họ, hôn họ, hít ngửi cái mùi mồ hôi hay mùi nước hoa của thân thể họ, nếu có thể. Tôi tin vào lời khuyên của ông, nhưng lại có vô số trường hợp không thể áp dụng được phương pháp này. Làm sao có thể vỗ vai, bắt tay hay hôn hít những kẻ làm tôi ngưỡng mộ nhưng họ chỉ từng sống trong quá khứ cơ chứ?

Giá mà tôi có thể hôn lên đôi môi, hay rúc vào nách ngửi mùi, của cô Hương để không bao giờ còn lộn thơ của cô với thơ của bà Huyện nữa.

***

Một trong những kinh nghiệm kỳ cục và rất ấn tượng của tôi về Việt Nam là khi tôi đi với mẹ về Sài Gòn lần đầu năm tôi lên tám tuổi.

Tôi không hiểu vì sao người ta thích sờ tay vào tôi, thích vuốt ve tôi, mà không hiểu rằng tôi rất ghét điều đó. Ai cũng sờ tôi. Không chạm tay vào những bộ phận trên thân thể tôi thì cũng xoa đầu, vuốt tóc. Tôi thấy trong ánh mắt của họ sự ngưỡng mộ thì ít mà sự hiếu kỳ thì nhiều. Tôi có cảm tưởng họ nghĩ rằng da thịt tôi được cấu tạo bởi những chất liệu khác hẳn với da thịt họ. Họ vừa sờ vào các bộ phận trên thân thể tôi vừa trầm trồ, vừa khen ngợi, vừa tỏ vẻ ganh tỵ. “Trời, thằng cu mau lớn quá, tám tuổi mà bự như mười hai tuổi, ngộ ghê!”, “Da thịt gì mà mát rượi vầy nè!”, “Kìa, coi cái cổ tay nó kìa, to mà tròn lẳn như củ khoai lang!”, “Cái má phính chưa kìa, ngó là muốn nựng à!”, “Đẹp trai như vầy lớn lên tha hồ mà gái nó đeo à nghen con!”, “Coi nè, ú na ú nần à. Sao mà để cho muỗi nó chích thằng nhỏ nốt xanh nốt đỏ, te tua như vầy chứ?”.

Thậm chí có lần có một ông nọ còn tính sờ chim tôi nữa! Tôi thét lên, “Fuck you! Don’t you touch me!” [1] rồi giáng vào mặt một ông ta một cú thật mạnh làm văng cái kính cận ra xa khi tôi phát hiện ra bàn tay có đeo chiến nhẫn vàng to sụ đang mơn man trên bắp đùi tôi. Ông ta bàng hoàng ngạc nhiên. Ông không hiểu vì sao mà tôi lại có phản ứng đột ngột và dữ dội như vậy.

Ông la lên, “Bác có làm gì đâu nào. Tao tính sờ chim chút coi có ngon lành không chứ có làm gì đâu mà dữ vậy con?”, rồi loay hoay đi nhặt cái kính.

Lúc đó mẹ tôi đang nói chuyện với những người khác, bà phải ngừng câu chuyện để xuýt xoa xin lỗi ông. Tôi phản đối. Tôi nói với bà, tất nhiên bằng tiếng Anh, rằng bà không việc gì phải xin lỗi ông ấy. Ông ấy không được sờ tôi, và yêu cầu mẹ gọi cảnh sát đến xử lý cái sự lạm dụng trẻ con này. Cha nội đó phải bị nhốt vào tù, phải bị cách ly ra khỏi xã hội, hay ít ra là phải cách ly ra hẳn với trẻ con vì hành vi đó là quá nguy hiểm cho bọn trẻ.

Mẹ tôi nói với tôi rằng mọi người sờ tôi là vì họ muốn bày tỏ lòng yêu quý với tôi, đó là cái cách bày tỏ của họ. Rồi bà khéo léo dịch lại lời tôi nói, nhưng không dịch đúng y như ý của tôi. Mọi người cười xoà, có vẻ xem như tôi hỗn láo vì được nuông chiều quá mức, hay họ không chấp với hành vi quá đáng của tôi.

Mẹ tôi nói, “Ờ, tụi nhỏ ở Mỹ khó chịu vậy đó. Chúng nó không muốn nựng như vậy đâu!”.

“Cha đó bệnh hoạn quá!”. Tôi nói, rồi bỏ vào phòng.

Sờ chim là sờ chim. Sờ chim đâu phải là nựng. Thật là vô lý! Thật là bệnh hoạn! Sao lại có cái kiểu bày tỏ tình cảm một cách man rợ vậy chứ? Họ đâu có quan tâm gì đến cảm xúc của tôi! Vậy, nếu tôi là con gái thì sao? Liệu họ có sờ vào chim luôn không? Tay ông ấy có sạch không? Ông ấy có sờ chim các con của ông ấy hàng ngày như vậy không? Tôi đoán chắc rằng cha nội ấy là một tay bệnh hoạn. Vậy mà sao mọi người lại có vẻ đồng tình với chả, hay ít ra họ không xem sự việc tồi tệ này là nghiêm trọng?

Thật không thể hiểu nổi!

Sau này tôi thấy mình cũng kỳ cục. Lẽ ra một đứa không thích mặc quần như tôi thì có vấn đề gì với việc bị người khác ngó sự trần trụi của mình hay bị sờ chim cơ chứ?

Nhiều năm sau, nhắc lại chuyện này, cả cha và mẹ tôi đều cho rằng ông ấy sai khi làm cái chuyện sờ chim đó, nhưng họ cũng nói rằng tôi không nên có cách hành xử và suy nghĩ như một thứ thực dân, hay phản ứng với ý thức phân biệt như vậy, vì đó chỉ là sự khác biệt về văn hoá, mà sự khác biệt ấy chỉ nên khoan thứ và chấp nhận chứ không nên mang vác nó suốt cả đời. Tuy nhiên, nhiều lần nhìn xuống bắp đùi mình thì tôi lại thấy cái bàn tay đeo nhẫn vàng mân mê trên đó. Lại lợm giọng!

***

Lâu nay, chừng năm năm trở lại đây, hai cha con tôi không thể nói chuyện được với nhau như trước nữa. Lần cuối cùng mà chúng tôi còn thấy thú vị, hào hứng tranh luận với nhau là khi tôi nhận viết một bài luận về cuốn Catcher in the Rye [2] cho lớp, và tôi tham khảo ý kiến của ông, vì ông đọc khá nhiều sách văn học.

Sau khi trò chuyện suốt ngày quanh đề tài cuốn sách, tôi viết được bài viết khá đạt, trong đó phần nhiều ý được nhặt ra từ những nhận xét của ông. Ông bảo rằng tôi đang có nhiều dấu hiệu giống y như thằng nhóc Holden Caulfield trong cuốn sách, có điều ngày nay cách biểu hiện những thái độ “quậy” của tôi khác với nó ở hình thức, phương cách, nhưng nói chung cái tâm lý bạo động, nổi loạn, là không khác, vẫn là cách ứng xử của bọn nhóc tì Mỹ trong lứa tuổi thiếu niên. Ông bảo rằng bọn trẻ Việt Nam, nhất là ở những thế hệ ngày trước, như thế hệ của ông chẳng hạn, không có cái tâm lý đó, hay có nhưng không mạnh mẽ, không xốc nổi. Tôi có cảm giác như ông vừa cố ý làm tổn thương tôi. Nhất là cái ánh mắt nhìn xoáy vào tôi như giễu cợt.

Một đêm nọ cha đi vắng, bỏ tôi ở nhà một mình. Thật ra, ông có rủ tôi cùng đến nhà người bạn ông xem trận bóng đá nhưng tôi không đi. Sau khi xem chán những cuốn phim cũ và chơi chán những trò game online, tôi lên cơn khùng. Lý do là tôi chợt nhận ra, và căm ghét sự giả dối và hư hỏng trong đời sống của ông.

Phải làm một cái gì đó. Đúng rồi, phải làm một cái gì đó cho cha tôi thấy sự hiện diện của tôi trong đời sống của ông là quan trọng như thế nào.

Tôi lấy hết trên kệ và trong tủ đựng rượu vang xuống cả thảy mười hai chai, nhiều loại rượu khác nhau, cả chai còn nguyên lẫn chai uống dở, sắp thành hàng. Tôi lấy cái búa đập nước đá, lần lượt đập vỡ cổ từng chai, đổ vào bồn rửa chén, vất vỏ chai vào thùng rác.

Xong rượu, đến mấy hộp xì-gà. Tôi xử luôn những điếu nằm trong ống bằng thiếc mỏng, cũng bằng búa, chúng có cùng số phận vỡ nát và dúm dó. Rồi đến năm cái tẩu mà ông rất quý, ông tự hào về việc sở hữu chúng, mỗi cái ông mua cả hàng trăm đô-la. Tôi phải thay cái búa đập nước đá bằng cái búa tạ to. Tôi đặt từng chiếc tẩu lên bệ sắt trong ga-ra, rồi giáng búa. Do không tiên liệu được độ cứng của tẩu, những nhát đầu tôi chưa giáng thẳng tay, nên cái búa nảy lên vì không phá vỡ chất gỗ cứng lên nước bóng loáng. Tôi giáng búa điên cuồng. Món cuối cùng là mấy tờ tạp chí có in hình gái cởi truồng, do cha tôi đặt mua hàng tháng. Có nhiều cuốn ông chưa mở xem, chúng vừa còn nguyên trong phong bì. Tôi mang xấp báo ra gốc cây ngoài vườn, xối rượu lên rồi bật quẹt. Lửa bùng lên. Một niềm khoái cảm kỳ dị dâng lên, trào ra thật nhanh, khi tôi thấy những ảnh chụp thân hình đàn bà trần truồng cong lên, từ từ uốn éo vờn trong ánh lửa.

Đêm đó, cha tôi về rất khuya, say khướt. Ông vào phòng, để nguyên áo quần, giầy vớ, nằm vật ra giường, nhưng không ngủ. Từ phòng ngoài, tôi nghe tiếng đập chân đập tay lên nệm, tiếng ông nói lảm nhảm và thỉnh thoảng lại gào lên như đang giận dữ với ai, tiếng nước tiểu đái xè xè vào bồn cầu, tiếng ông vả nước lạnh lên mặt. Ông trằn trọc, giẫy giụa, vật vã. Tôi không chịu đựng nổi những tiếng động đó. Không phải vì cường độ của âm thanh, nhưng vì chúng gợi lên cho tôi hình ảnh thảm hại, khổ sở của một con thú bị dính bẫy.

Tôi rón rén tròng áo khoác vào, lấy chìa khoá treo ở cửa, mở cửa ra đường. Tôi leo vào xe ông đang đậu nép bên đường, nổ máy. Ngoái nhìn lại, thấy ánh đèn trong phòng ông bật sáng, ông chồm ra cửa sổ cố gọi tôi, hốt hoảng hét lên điều gì. Tôi mặc kệ. Tôi lái thẳng ra biển.

Dừng xe lại ở khoảng bãi đỗ bên đường, vắng ngắt, không một ai. Đứng đây lâu có thể bị cảnh sát đi tuần hỏi thăm thì rắc rối to. Tôi nhìn đồng hồ, 3:23 AM. Hàng cây âm u kéo dài tới cuối dốc mờ mờ trong sương mỏng. Bên phải, dưới sâu là biển. Gió lùa lồng lộng qua các ghềnh đá. Tôi quay cửa kính xuống, gió lạnh cóng tạt vào mặt.

Mở hộc xe, tôi thấy khẩu P.38 của ông. Ông thường nhét theo khẩu súng này sau thắt lưng mỗi khi ra ngoài vào ban đêm. Áp nòng súng lên má, chất thép lạnh có mùi tanh tanh. Tôi lấy gói thuốc lá trong hộc, đốt một điếu, rít vài hơi, ho sặc sụa, rồi ném xuống mỏm đá bên dưới. Gió đẩy đốm lửa bay khá ra, xoay xoay rồi biến mất trong bóng tối. Vài con mòng biển lượn quanh trên đầu. Chúng bay thật nhanh, xẹt qua xẹt lại trên nền trời tối. Chúng chỉ lặng lẽ bay, không kêu lên tiếng nào. Mấy đám mây sà thấp ngang đỉnh đồi. Không gian im lắng như trong một đoạn phim câm. Tôi nhấc khẩu súng lên ngang tầm mắt. Tôi muốn bắn một phát. Không dưng tôi nhớ tay tài tử có bộ mặt lạnh tanh Christopher Walken với trò Russian roulette[3] trong phim Deer Hunter[4]. Có điều gì thôi thúc tôi. Man dại và tối ám. Tôi phải làm. Dễ quá, chỉ tháo đạn ra, chừa lại một viên, rồi quay ổ đạn, kê súng lên màng tang, siết cò, là xong.

Không được làm. Được. Không được. Được.

Tôi ra khỏi xe, hai tay ghì chặt khẩu súng. Bắn vào đâu đây? Lũ mòng biển trên đầu ư? Không, sao lại giết chúng? Tôi chĩa súng xuống đám cây lá dưới vực, siết cò. Ánh lửa loé lên thành một vệt sáng trên đầu súng. Tiếng nổ chát chúa, vang ngân, dội trong khoảng không im ắng. Lòng bàn tay tôi đổ mồ hôi nhớp nháp.

Tôi mở cốp sau xe, nhét khẩu súng xuống dưới mớ giẻ lau, nổ máy lái đi. Chạy một đoạn, gặp một trạm xăng vắng, tôi dừng xe lại. Kéo cái trùm đầu của áo khoác lên, tôi đẩy cửa bước vào trạm, nhặt một lon cà phê, chìa tờ $10 cho tay nhân viên ngồi sau quầy kính chống đạn, nói số cột mà xe đang đậu. Gã ngước nhìn, hỏi tôi muốn mua bao nhiêu xăng. Tôi nói muốn mua lon cà phê và hết số tiền còn lại. Gã nói cám ơn, chúc tôi đi bình an. Tôi nói cám ơn. Tôi hi vọng gã không gọi cảnh sát. Tôi hi vọng gã nghĩ rằng tôi là thằng nhóc đi với ai đó đang chờ ngoài xe chứ không lái xe một mình. Tôi đi trở ra, đổ gần đầy bình, lên xe, vọt nhanh ra khỏi trạm, rẽ phải, tìm bảng chỉ đường, định hướng, để lái thẳng về nhà mẹ.

Ra khỏi thành phố, đường trơn, mưa suốt xa lộ. Tôi mở lon cà phê, thỉnh thoảng nhấp một ngụm, rồi bóc kẹo cao su nhai cho đỡ buồn ngủ. Tôi đạp lút chân ga khi gặp những chiếc xe tải chạy cùng chiều. Những ánh đèn đỏ ở đuôi chúng lóe lên loang loáng. Chiếc xe lách qua dòng xe, lướt bay nhẹ nhàng, trong cơn mê. Nửa tiếng sau, lòng tôi lắng lại, không gợn một ý nghĩ nào. Tôi giảm tốc độ, bình tĩnh và chú tâm vào việc lái xe, cẩn trọng tính toán từng động tác, căng mắt nhìn những bảng chỉ đường để khỏi lạc.

Tôi lái thẳng một mạch năm giờ không nghỉ, chỉ dừng lại đi đái hai lần. Trời sáng dần, tôi thoát ra khỏi xa lộ, tạt vào đường nhỏ chạy song song nó để tránh cảnh sát.

Hai bên là rừng, không có đèn đường, con đường là một vệt chỉ kéo dài xa tắp.

Một con nai nhỏ, chỉ bằng con chó, bị xe tông, máu loang ra giữa đường. Chắc nó còn sống, chắc nó đang nằm thở thoi thóp. Ý nghĩ bật ra quá chậm. Không kịp. Tôi tạt hết tay lái sang phải tránh. Không kịp rồi. Bánh xe nảy lụp cụp lên khi cán qua nó ngay dưới ghế tôi ngồi.

Dừng lại, hay chạy luôn? Nhỡ nó còn sống thì sao?

Chạy luôn, chạy luôn, chạy luôn… Kệ mẹ nó, chạy luôn!

Mày giết nó rồi!

Kệ mẹ nó, kệ mẹ nó, kệ mẹ nó!

Chạy luôn, chạy luôn, chạy luôn…!

Tạt qua đường khác. Phải tạt qua đường khác để đừng ai thấy. Để đừng ai biết.

Biết gì?

Biết mày vừa giết!

Đến nhà, tôi đậu xe lại bên vệ đường. Vết máu bám dính trên mâm bánh trước. Tôi mở cốp lấy giẻ chùi, rồi lấy khẩu súng bỏ vào túi áo khoác, mở cửa thật nhẹ vào nhà.

Mẹ không có nhà, chắc bà đi làm ở tiểu bang xa chưa về. Tôi vào phòng mình, tháo giày, cởi hết áo quần ra, nằm vật xuống giường, kéo chăn lên trùm kín đầu. Cơn buồn ngủ tới, nhấn tôi chìm xuống một giấc thật sâu. Tôi ngủ vùi suốt mười tiếng. Nhiều lần chuông điện thoại reo nhưng tôi không bắt máy. Chắc là cha và mẹ gọi. Tôi giật dây điện thoại ra khỏi lỗ cắm.

Hai hôm sau cha tôi bay xuống, ông đi xe buýt rồi thả bộ đến nhà chứ không gọi tôi ra phi trường đón. Ông không vào nhà, có lẽ không muốn gặp mẹ tôi, tuy bà vẫn chưa về.

Hai cha con ngồi trên băng ghế ngoài vườn. Ông không nhắc gì về chuyện đã qua. Hỏi tôi dăm câu như mọi khi, rồi ông chìa tay ra. Tôi móc túi lấy chìa khoá xe đưa ông. Ông vẫn chìa tay, không rút về. Tôi lấy khẩu súng trong áo khoác ra, đặt lên tay ông.

“Con có bắn một phát. Không trúng”.

“Chắc khoảng cách còn xa, và con ngắm chưa kỹ. Và con không thật muốn bắn”.

“Cha có biết con bắn cái gì không?”.

“Biết”.

“Cha không biết!”.

“Ừ, cha không biết.”

“Con đã giết. Một con nai…”.

“Con nai đó đáng chết…”.

Ông nhét vào túi tôi ba tờ bạc một trăm đô.

_________________________

[1 ]“Fuck you! Don’t you touch me!: ĐM ông, đừng có sờ tui như vậy!
[2] Catcher in the Rye, tiểu thuyết của J.D. Salinger, có bản dịch Việt ngữ Bắt trẻ đồng xanh, của dịch giả Phùng Khánh.

[3] Rusian roulette: trò nạp một viên đạn vào súng, rồi xoay ổ đạn, thay phiên nhau dí súng vào đầu bóp cò. Một trò may rủi, xem tay chơi nào gan dạ và may mắn thì thắng cuộc.

[4] Deer Hunter: Kẻ săn nai. Một phim về chiến tranh Việt Nam, do đạo diễn Michael Cimino thực hiện (1978).

GIA TỘC

Cha tôi khẳng định rằng gia tộc của chúng tôi là một gia tộc có bề dày truyền thống, nhiều tiếng tăm, giàu có và quý phái ở Huế, cái kinh đô trăm năm trước của thời phong kiến.

Họ chúng tôi đang mang là một dòng họ lớn. Ông nói, “Chúng ta là danh gia vọng tộc”.

Tính cho tới ngày nay, cái làng mà dòng họ chúng tôi từng sinh sống có đến một ông tiến sĩ, bảy ông thạc sĩ và hai mươi bốn ông cử nhân, còn tú tài thì vô số, không kể hết. Tôi không hiểu rằng cha tôi có kể luôn những người đã bỏ làng, bỏ nước, ra ngoại quốc như gia đình chúng tôi hay không. Vì nếu kể thì phải tính thêm một mớ kha khá nữa. Cha tôi nói với giọng kiêu hãnh rằng, “Kể về học hành, khoa bảng thì làng mình là oách lắm, cứ gọi là một trong những nơi đứng đầu chốn kinh kỳ. Ra ao làng, lấy rổ xúc một cái thì có cả rổ trạng nguyên với bảng nhãn”. Tất nhiên, trong cái rổ ấy không có ông, vì ông bỏ học rất sớm, ông chưa học xong trung học.

Kỳ lạ, chỉ có chừng đó trí thức thôi mà cha đã lấy làm ghê gớm, trong khi cái thành phố bé bằng cái lỗ mũi mà tôi đang sống có một trường đại học, trong đó có hàng ngàn cái học vị mà cha tôi vừa kể. Tôi băn khoăn tự hỏi vì sao trong cái làng của chúng tôi chỉ có các ông vĩ nhân mà không có một bà vĩ nhân nào cả, rồi tôi sinh lòng tự hào với mấy cái bằng cấp của mẹ tôi, vì tuy bà là cháu dâu thì cũng phải tính chứ, cho nó công bằng. Tôi hỏi ông về điều đó thì ông lộ vẻ bối rối trong một thoáng rồi nói lảng ra chuyện khác. Về sau tôi biết có thời người ta không khuyến khích, thậm chí không cho phụ nữ đi học. Đàn ông không cho phép phụ nữ có địa vị và tri thức cao hơn họ. Đó là một thứ phong tục bất biến. Cha tôi nói, tất nhiên chỉ thì thầm với tôi thôi, rằng, tuy ông không có bằng cấp gì, nhưng lẽ ra mẹ tôi phải xé đôi tất cả những văn bằng mà bà có để chia cho ông, mỗi người một nửa, vì ông đã có công nuôi bà đi học. Tôi không đồng ý, phải xé ra để chia ba thì mới công bằng, một phần là của nhà nước Mỹ, vì họ đã cho bà học bổng.

Ông cho tôi xem một tấm hình mờ ố chân dung người cha của ông cố tôi, ông ấy là quan tri phủ. Có lẽ đây là một trong những người được chụp hình chân dung sớm nhất ở Việt Nam, chỉ sau vài vị hoàng đế và quan lại cao cấp trong triều đình thời đó. Điều làm tôi có ấn tượng nhất là một nốt ruồi hay cái bớt sậm màu, to bằng con ong bắp cày, nằm kề bên chòm râu dài ở bên mép phải của ông. Mẹ tôi nói những người có nốt ruồi như thế thì ăn bẳm lắm. Bà nhấn nhá giọng khi nói đến hai từ này. Ăn thì tôi hiểu, nhưng bẳm thì tôi không hiểu. Sau cùng tôi cũng hiểu rằng, với hai từ này, mẹ tôi ám chỉ việc ăn hối lộ hay tham nhũng gì đó. Cha tôi nói ăn như thế đã thấm gì với các ông quan cộng sản thời nay đâu.

Mẹ tôi rất quan tâm đến nhân tướng học. Gặp ai, bà cũng quan sát tướng tá, các chi tiết trên gương mặt, và ngay tức thì rút ra một kết luận về nhân cách và tương lai của kẻ đó, rồi quyết định có nên tiếp tục giao du với nữa không.

Bà cũng nói cô em dâu có cái nốt ruồi ngay dưới mắt phải là nốt ruồi “trích lệ”. Tất nhiên, nghe thì nghe vậy thôi, chứ làm sao tôi hiểu “trích lệ” có nghĩa là gì. Chú tôi thì có nốt ruồi ngay dưới mắt trái.

“Lãng mạn, đa tình lắm đấy. Sẽ khóc và đau khổ vì tình nhiều lắm đấy”. Bà kết luận.

Quả vậy, chẳng bao lâu sau thì chú thím tôi li dị, thím tôi dọn sang tiểu bang khác với anh chồng mới gốc Thuỵ Sĩ, còn chú tôi thì dọn vào sống với cô bồ gốc Mễ. Con bé Liz, con của họ không có cái nốt ruồi dưới mắt nào cả nhưng nó là kẻ khóc nhiều nhất, khóc trong ba ngày, khóc thầm thôi, sau vụ li dị này.

***

Ông quan tri phủ của gia tộc tôi chỉ làm quan trong năm năm. Người ta đồn rằng tài sản của ông để lại rất lớn, ông không thừa nhận cũng không phủ nhận điều này. Cha tôi nói, nếu tính ra vàng thì phải vài chục ký, số vàng này được chôn giấu và cất giữ ở nhiều nơi. Trong nhà, ngoài vườn, ngoài đồng, và cả ở trong những hang động trên núi. Ông tri phủ ghi dấu lại những nơi đó trên tấm bản đồ làm bằng một vuông vải trắng do tự tay ông vẽ và ghi chú cẩn thận, bằng một thứ mật ngôn chỉ duy nhất một mình ông hiểu. Mảnh vải này được ông bỏ vào một cái hộp gỗ nhỏ bằng hộp diêm rồi vùi sâu dưới mớ tro trong cái bát hương để ở đầu giường. Món tài sản lớn thế nhưng con cháu các đời sau lại không thể hưởng được.

Cha còn cho tôi xem một tấm hình khác, nó cũng ố vàng cũ kỹ như tấm chân dung kia, chụp một ngôi nhà trông giống như cái chùa khá to, có đôi sư tử đá ở hai bên thềm và mấy con rồng bay lượn trên mái ngói, một cây cổ thụ to, dây rễ chằng chịt, sừng sững toả bóng ngay trước sân. Cha bảo đó là nhà từ đường lúc các cụ còn sống. Tôi cần được cha giải thích từ đường là gì để không phải kinh ngạc vì làm sao người ta có thể xây dựng một ngôi nhà bằng sugar [1].

Rồi cha lại đưa ra một tấm hình khác, trông mới hơn hai tấm kia, chụp ông ngồi xổm ở một bãi cỏ cao ngang đầu người, bên một ụ mối, nước đọng thành vũng, cái sân gạch có mấy cái gốc cột gãy, nói rằng đây là những gì sót lại của cái nhà từ đường trong chuyến về thăm quê nhà duy nhất và sau cùng của ông.

Cha tôi không muốn về Việt Nam thêm lần nào nữa.

Lý do là ông luôn gặp ác mộng và không thể ngủ được khi ở trong địa phận Việt Nam, mà điều đó hoàn toàn không phải do jet lag [2] hay sự sai biệt về múi giờ, sự lệch đồng hồ sinh học. Hễ cứ máy bay vào địa phận Việt Nam là ông thấy mệt, choáng và có cảm giác bất an liền ngay lập tức. Tình trạng này khác hẳn với khi ông đi du lịch ở các nước châu Á khác. Khi ở Thái Lan hay Mã Lai trong những chuyến du lịch trước đó thì ông vẫn khoẻ khoắn, ăn ngon ngủ yên, thoải mái hưởng thụ kỳ nghỉ. Ở Việt Nam, ông hoàn toàn sống trong một cảm giác bất an thường trực, y như cái cảm giác trên ba mươi năm trước mà ông đã kinh qua.

Ông kể, “Lần đầu tao về thì thấy vẫn ok, chỉ có chút lo lắng ở khâu trình passport di trú và hải quan ở sân bay, cho tới khi về khách sạn. Thậm chí khi ngồi trên taxi, được nhìn lại và nhận ra vài khung cảnh cũ của Sài Gòn thì còn thấy vui và khoẻ nữa. Nhưng sau khi tắm xong ra, không biết trời xui đất khiến sao tao lại cầm cái điều khiển bấm nút mở ti-vi, nhằm đang lúc chương trình tin tức. Nó chiếu cảnh trước bảy lăm, “mùa xuân chiến thắng Mậu Thân” hay cái con mẹ gì đó. Tao mệt và nổi khùng ngay lập tức. Đù má nó chứ, cả nửa thế kỷ rồi mà vẫn hát hò nhảy múa trên vũng máu, hỏi chứ nó chơi vậy có điên không?”.

Ông nói tiếp: “Từ đó, hễ cứ nhắm mắt sắp ngủ là tao mơ hồ lo sợ sẽ nghe tiếng gõ cửa của công an đến soát nhà hay kiểm tra hộ khẩu, rồi chúng sẽ bắt tao đi, y như tao đã từng bị như vậy khi chưa rời khỏi Việt Nam”.

Phải mất một lúc lâu ông mới giải thích được cho tôi hiểu hộ khẩu là gì, và vì sao người ta phải có hộ khẩu, và vì sao phải đăng ký tạm trú với công an địa phương khi đến một nơi khác với nhà mình để trú qua đêm. Những khái niệm này thật xa lạ với tôi. Tôi không thể hình dung ra điều đó vì nó chưa từng có ở nơi tôi sống, và có lẽ ở phần lớn mọi nơi khác trên thế giới trong thời đại này cũng không có. Nó cho tôi cái cảm giác như mình đang sống trong những cuốn phim về thời Đệ nhị Thế chiến, thời dân Do Thái sống dưới chế độ Đức quốc xã, những cuốn phim đen trắng hay chỉ có màu vàng nâu với nhiều vạch chớp cắt rạch ngang màn ảnh và âm thanh rất tệ, rọt rẹt, rột roạt, không rõ tiếng.

***

Về cuối đời, trên bảy mươi tuổi, ông cựu tri phủ được chính quyền cách mạng cho ra làm một chức cán bộ nhỏ trong làng vì ông tình nguyện hiến hết gần hai phần ba tài sản, gồm có ruộng đất và nhà, cho họ, như một nghĩa cử góp phần vào công cuộc cứu nước chống lại thực dân Pháp.

Mỗi chiều, ông dắt một đoàn con nít ra bến sông tắm. Ông là người duy nhất trong vùng sở hữu một cục xà-bông. Ông gói cục xà-bông trong một vuông vải rồi giắt vào lưng quần, chỉ dùng nó cho riêng mình. Ông bắt bọn con nít đứng sắp hàng thành vòng tròn ở khúc sông nước cạn, mỗi đứa cầm một miếng xơ mướp (tất nhiên, cha phải giải thích cho tôi biết trái mướp như thế nào, làm xơ mướp từ trái mướp ra làm sao), rồi đứa đứng sau kỳ lưng cho đứa đứng trước, rồi đứa đứng đầu sẽ quay lại kỳ lưng cho đứa đứng sau cùng. Ông cho đó là một trong những bài học vỡ lòng đầu tiên của ý thức cộng sản mà sau này người ta diễn giải nó như là một lý thuyết về phục vụ và được phục vụ, hay nói nôm na là “một người vì mọi người và mọi người vì một người”.

Một chiều nọ, ông ra bến một mình rồi không trở về. Mọi người đổ xô đi tìm nhưng không thấy ông đâu cả. Có người cho rằng ông đi tòm tèm với nhân tình rồi không về, hay có khi ông đi chơi về khuya và đã bị ma giấu. Trưa hôm sau, đám trẻ chăn trâu phát hiện xác ông ở bãi hoang cuối nguồn sông, nằm sấp, úp mặt xuống nước. Một nhát chém vụng, xả từ sau gáy. Người ta cũng tìm thấy một cây rựa chẻ củi vấy máu ở một lùm cây cách bến đò khá xa. Vài hôm sau có tin đồn rằng kẻ sát nhân là một đứa nhỏ chăn trâu, chừng mười ba tuổi, một đứa trong đám trẻ mà ông thường dắt xuống bến tắm. Thằng nhỏ đã bỏ làng đi từ buổi tối đó. Nó bỏ làng đi biệt. Đi theo cách mạng.

Ông cố tôi mang cây rựa về gói lại trong một vuông vải trắng, để lên bàn thờ, với lời nguyền sẽ rửa thù bằng chính cây rựa này, nhưng vài hôm sau tay đội trưởng du kích thôn đến tịch thu cây rựa, bảo rằng cần giữ nó làm vật chứng. Tin trong hội đồng cứu quốc, hay một tổ chức cách mạng đại loại gần giống như thế, cho rằng cậu bé chăn trâu yêu nước đã được tuyên dương xứng đáng vì có công tiêu diệt tên phản động- cha của ông cố tôi. Ông anh hùng cách mạng trẻ tuổi này về sau trở thành một sát thủ của quân kháng chiến trên núi, lừng danh với thành tích chuyên ám sát, tiêu diệt bọn phản động trong các thôn làng trong tỉnh, phần lớn những chiến công ấy được thực hiện bằng mả tấu. Chưa đến hai mươi tuổi mà ông đã có một danh sách hơn hai mươi mạng phản động do chính tay mình hạ thủ. Đầu ông được treo giá mấy lượng vàng. Ông không hi sinh trong trận đánh nào cả, nhưng bị một đồng chí lụi cho một dao chí tử trong một bữa giỗ, họ giành nhau một món ăn. Ngày nay, không còn ai nhớ đến câu chuyện cũ ngoài những người già còn sống.

Bí mật của những kho tàng cất giữ vàng bạc của ông cựu tri phủ cũng biến mất theo cái chết của ông, cho dù sau này những người trong gia đình tìm được mảnh vải vẽ bản đồ. Không ai đọc ra và hiểu nổi những gì được ghi trên đó. Người ta đoán mò rồi đào xới lung tung khắp mọi nơi mà họ nghi ngờ kho tàng được chôn, nhưng chỉ công cốc, họ không tìm được món gì cả. Có lẽ lúc đó người ta mới tin rằng ông chẳng có chút tài sản nào như lời đồn, ngoài hai cái rương gỗ chứa mớ sách chữ Tàu cũ nát.

Cái chết là một bí mật.

Cái chết mang theo kho tàng, của cải, thì còn ghê gớm hơn thế: nó là bí mật của bí mật.

———————-

[1]su ar: đường để ăn.

[2] jet lag: tình trạng mất quân bình trong chu kỳ thời gian sinh học của cơ thể, thường xảy ra sau một chuyến bay dài với vận tốc cao (trên phản lực cơ) băng qua nhiều múi giờ của trái đất, từ đông sang tây (hay ngược lại).

(Còn tiếp)

Comments are closed.