VĂN HỌC MIỀN NAM 1954-1975 (19): Trần Thái Đỉnh (1922-2005) (tiếp theo)

Thụy Khuê

 

II- Triết Học Hiện Sinh

(Giới thiệu cuốn Triết học hiện sinh của Trần Thái Đỉnh)

Ngay ở Pháp hiện nay cũng khó tìm được một cuốn sách viết về triết học Hiện Sinh vừa đầy đủ, vừa dễ hiểu như cuốn Triết học hiện sinh của Trần Thái Đỉnh, do nhà Thời Mới in năm 1967 tại Sài Gòn.

 Võ Phiến, lúc đó là chủ nhà xuất bản Thời Mới, ghi lại: “Hai cuốn sách bán được nhanh nhất và nhiều nhất (thời ấy) là hai cuốn liên quan đến triết học tức là cuốn “Triết học hiện sinh” của Trần Thái Đỉnh và cuốn “Những trào lưu lớn của tư tưởng hiện đại, dịch của André Maurois” (Văn học miền Nam tổng quan, Nxb Văn Nghệ, 1986).

Tại sao cuốn sách best sellers năm 1967 không phải là tiểu thuyết mà lại là sách về triết học? Đó là câu hỏi cần được đặt ra. Hiện tượng này mang nhiều ý nghĩa:

Phải chăng thập niên 1960-70, ở miền Nam triết học đã đi vào đời sống hàng ngày?

Phải chăng các giáo sư thời ấy đã thành công ít nhiều trong việc giảng dậy môn triết ở nhà trường và đại học?

Họ đã bình dân hóa triết học hơn các thời kỳ khác và đó có thể cũng là một trong những lý do khiến miền Nam, sau 54, đã có những thành tựu đáng kể trong việc đổi mới văn học, với những tác giả đào sâu vào nỗi đau nội tâm, vào bi kịch phi lý của cuộc hiện sinh con người như Mai Thảo, Thanh Tâm Tuyền, Vũ Khắc Khoan, Nguyên Sa, Dương Nghiễm Mậu, Bùi Giáng, Trịnh Công Sơn, Huỳnh Phan Anh, Nguyễn Đình Toàn, Trần Thị NgH. v.v…

Tác dụng triết học vào sáng tác thời ấy, đem lại cho văn học một chiều sâu mới. Điểm này đã được giáo sư Nguyễn Khắc Hoạch, cựu Khoa trưởng Đại học Văn khoa, Sài Gòn, tức nhà thơ Trần Hồng Châu nhắc đến bằng những lời sau đây:

“Thời 60-70, triết học phương Tây tương đối phát triển mạnh ở miền Nam […] Triết lý này phát triển mạnh ở đại học Pháp [sau thế chiến], sau đó bước hẳn vào đời sống, đặc biệt ở thị thành với giới trí thức và thanh niên. Dĩ nhiên sang Việt Nam, cũng đồng hoàn cảnh chiến tranh, đồng tâm lý hoang mang, chán nản và mất hướng, những hạt giống hiện sinh tha hồ nẩy nở. Nhất là lúc đó, từ nửa sau thập niên 50, có một số trí thức Việt Nam du học ở Pháp và Bỉ, về nước đã phổ biến các triết thuyết Hiện Sinh, hình thái Sartre và Merleau Ponty. Cộng thêm vào đó là lý thuyết phi lý (théorie de l’absurde) của Camus, rồi tới trào lưu nhân vị, personnalisme, của E. Mounier, một hệ tư tưởng được bồi đắp và đề cao ở Việt Nam bởi những người cầm quyền đương thời, đồng tôn giáo với tác giả.” (Phát biểu trên RFI, chương trình Văn Học Nghệ Thuật tháng 3/1998, đăng lại trên Văn Học, Cali, số 147, tháng 7/98 và trong Dăm Ba Điều Nghĩ Về Văn Học Nghệ Thuật, Trần Hồng Châu, Văn Nghệ Cali, 2001).

*

Trong thế kỷ XX, Hiện Sinh là triết học chủ yếu, đã đưa con người trở lại với con người. Con người của thế kỷ XX, từ chối vai trò Thượng Đế, cho nên nhà văn cũng từ chối vai trò sáng tạo theo phong cách Thượng Đế của các thế kỷ trước, nghĩa là “biết tất cả”. Nhà văn trong thế kỷ XX, nhũn nhặn trở lại địa vị con người, sáng tác bằng những gì thuộc khả năng của mình, họ viết với tri giác, với trí tưởng tượnghồi ức của họ.

Về mặt hình thức, Hiện tượng luận của Husserl đưa ra cách mô tả mới. Đó là cách nhìn sự vật từ nhiều hướng khác nhau, giúp các tiểu thuyết gia có những phương tiện mới để nhận thức về sự vật. Cho nên khi chúng ta than phiền là văn học Việt Nam khô cứng, truyện ngắn, tiểu thuyết Việt Nam không phát triển được, thơ ca của chúng ta bế tắc, thì đó là bởi chúng ta vẫn còn nhìn sự vật theo lối nhìn của thế kỷ XIX, viết theo kiểu viết của thế kỷ XIX và có lẽ đó là cơ nguyên sâu xa của sự khô cứng hiện nay.

Cuốn Triết học Hiện Sinh của Trần Thái Đỉnh là một trong những cuốn sách mở cửa cho chúng ta vào nền tư tưởng chủ yếu của thế kỷ XX, vào sự tìm hiểu con người.

Sách được chia làm 10 chương. Ba chương đầu nói về lập trường của triết học Hiện Sinh, những đề tài chính của triết học Hiện Sinh và hai ngành của triết học Hiện Sinh. Bẩy chương sau vết về bẩy triết gia hiện sinh: Kierkergaard, ông tổ hiện sinh chính thực, Nietzsche, ông tổ hiện sinh vô thần, Husserl, ông tổ văn chương triết lý Hiện tượng luận, Jasper, hiện sinh hướng về siêu việt, Marcel, hiện sinh và huyền nhiệm, Sartre, hiện sinh hư vô, Heidegger, hiện sinh và hiện hữu.

Trong phần đầu, trình bầy lập trường của triết học Hiện Sinh, Trần Thái Đỉnh lược kể mục đích của triết học cổ điển từ Aristote đến Hegel, để người đọc có thể so sánh sự khác biệt giữa triết học cổ điển với triết học Hiện Sinh và đó cũng là mấu chốt sâu xa của sự khác biệt giữa văn học cổ điển và hiện đại.

Triết học cổ truyền Tây phương, thay vì giúp con người suy nghĩ về thân phận và định mệnh mình, lại chỉ khuyến khích con người quên mình để tìm hiểu những lẽ huyền vi của tạo hóa.

Câu định nghĩa của triết học kinh viện là: Triết học là khoa học về vạn vật, lấy những nguyên nhân tối cao để giải nghĩa chúng. Như thế, con người không có chỗ đứng riêng, con người cũng bị coi là trong hàng vạn vật.

Trong cả bộ triết học Aristote, không dành phần nào cho con người hiện sinh hết, không bàn đến tự do, không bàn đến nhân vị, không bàn đến định mệnh và những gì đợi chúng ta sau khi chết. Vũ trụ to quá, át tất cả. Con người bị bỏ quên. (Trang 11, 12).

Vũ trụ quan của Aristote cho ta thấy một con người bị chìm trong vũ trụ.

Descartes với sự khám phá ra chủ thể tính con người và tự do mang nặng chất hiện sinh, đã hé nhìn thấy đường đi của triết học. Đối với Descartes, không thể có triết học về vũ trụ mà chỉ có khoa học về vũ trụ và triết học về tinh thần. (Trang 15)

Đáng tiếc là Descartes đã chỉ dừng lại ở tinh thần con người mà không tìm hiểu con người như một thực thể sinh tồn, có thần, có xác.

Kant và Hegel còn đẩy xa tinh thần hơn nữa, thành thử triết học vẫn luẩn quẩn trong thái độ ý niệm, coi con người là một vật thể, cho con người là thế này, thế kia. Trong khi con người có thể thế này mà cũng có thế thế kia, có thể là quỷ hay là thánh, có thể sống làm thân trâu ngựa, sướng đời con vật, hay trái lại cũng có thể chọn đời tù ngục, miễn là nói được sự thực và sống xứng đáng tự do. (Trang 15)

Như vậy, nội dung của triết học Hiện Sinh không phải là con người phổ quát, con người viết hoa của Aristote, mà là sự khảo sát con người có xương có thịt đang sinh hoạt hàng ngày trong xã hội. Con người đó là tôi, là anh, là chúng ta hết thẩy và từng người một. (Trang 15)

con người sinh hoạt, tôi là một chủ thể và tôi là một nhân vị tự do.

Chủ thể tínhnhân vị tự do là hai đề tài chủ yếu của triết học Hiện Sinh.

Triết học Hiện Sinh xây dựng trên chủ thể tính, không coi con người là một sự vật của toàn bộ vũ trụ như trong triết học cổ điển nữa mà coi con người như một hữu thể đứng trên vũ trụ và có quyền gán cho vũ trụ một giá trị tùy quan điểm của mỗi người. (Trang 19)

Khi con người đã ý thức được chủ thể tính của mình thì vũ trụ liền mất vẻ thần thánh của nó: những sấm sét, những tinh tú, mặt trời, mặt trăng không còn là những thần linh cao quang nữa … Con người nhận định một cách sáng suốt rằng: Không có sự vật gì có giá trị tuyệt đối.

Vậy, con người hiện sinh là con người tỉnh ngộ, dám nhìn thẳng vào sự thật với nhãn quan, với khả năng của mình. Nhãn quan này không phải là nhãn quan của Thượng Đế, cũng chẳng phải là nhãn quan của thần linh, của các bề trên, của vua chúa đời xưa, của lãnh đạo, lãnh tụ đời nay, của ông thầy hay của bất cứ ai ban bảo. Mà là nhãn quan của cá nhân mình.

Tự do ở đây không phải là cái tự do của thế giới tự do. Tự do ở đây là tự do hiện sinh, tức là tự do bên trong, tự do phát xuất từ bản thể. Tự do lựa chọn, tự do quyết định. Tự do ở đây là dám là mình.

Nếu tôi cứ sống như cái máy, ở trên bảo sao tôi làm vậy, người ta bảo sao mình làm vậy, thì tôi mới chỉ sống như một sinh vật, chưa sống cái kiếp người của tôi.

Cuộc sống ù lì đó, sống chỉ để sinh tồn, sống như cây cỏ đó, Sartre gọi là buồn nôn, Camus cho là phi lý, Heidegger gọi là tầm thường, và con người muốn vượt khỏi cuộc sống tầm thường, buồn nôn, phi lý, thì phải vượt lên trên mình, phải sống một cách độc đáo (unique), phải là một chủ thể độc đáo (sujet unique). Độc đáo ở đây không có nghĩa lập dị mà chỉ có nghĩa là tự do chọn lấy một lối sống riêng, không bắt chước người khác và cũng không chịu sự sai bảo, kiềm chế của người khác. Độc đáo là tự xác định nhân vị của mình. Nhân vị và tự do là nội dung của Hiện Sinh.

*

Về mặt hình thức, tri thức của triết gia cổ truyền là tìm biết bản tính sự vật và cả bản tính con người nữa. Thí dụ, triết học cổ truyền cho biết: bản tính con người là “một con vật có lý trí”. Vì có lý trí nên có suy luận, có suy luận thì biết chọn điều thiện, bỏ điều ác v.v… (Trang 29)

Văn chương cổ điển rập theo khuôn khổ triết học cổ điển ấy, cũng tìm hiểu tâm lý nhân vật, giải thích tại sao người này làm thế này, tại sao lại làm thế kia, nhân vật này nghĩ thế này, nhân vật kia nghĩ thế kia v.v…

 Tóm lại, triết học cổ truyền chủ trương rằng con người có thể biết được bản tính của sự vật và con người. Triết học Hiện Sinh, ngược lại, cho rằng chỉ có Thượng Đế mới biết được bản tính của muôn loài, còn chúng ta, con người, chỉ có cái nhìn phiến diện về sự vật.

 Vì chúng ta chỉ có cái nhìn phiến diện về sự vật nên đã phát sinh Trường phái Cái nhìn (Ecole du Regard) trong tiểu thuyết mới: tức là nhà văn phải nhìn nhiều lần sự vật trong nhiều chiều hướng khác nhau, mỗi lần nhìn, nhà văn biết rõ thêm một chút về sự vật.

Bởi vậy, nhà văn hiện sinh mô tả sự vật, đặt sự vật dưới nhiều ống kính khác nhau. Lối mô tả này phát xuất từ Hiện tượng luận của Husserl, khác hẳn với lối mô tả trong văn hiện thực cổ điển.

Tóm lại, triết học Hiện Sinh là triết học chỉ cho ta những suy nghĩ về thân phận làm người, văn hiện sinh là văn mô tả, chủ ý của triết học Hiện Sinh là làm sao cho con người thấy sự buồn nôn của lối sống tầm thường, bảo sao nghe vậy, sống để sinh tồn giống như sinh vật, để vươn lên một đời sống độc đáo, có nhân vị của con người tự do. (Trang 30)

*

Triết học Hiện Sinh có hai gốc đối lập nhau:

– Gốc Kierkergaard -bắt nguồn từ những truyền thống Hy Lạp (Socrate) và Thiên Chúa Giáo- hướng về Thượng Đế.

– Gốc Nietzsche -bắt nguồn từ những tư tưởng ngược chiều với truyền thống Hy Lạp- Nietzsche chủ trương tiêu diệt Thượng Đế để tiến tới con người, con người siêu nhân (surhomme).

Kierkergaard

Kierkergaard là ông tổ Hiện Sinh đích thực (authentique).

Kierkergaard sinh ngày 5/5/1813 tại Copenhague, Đan Mạch.

Ông là triết gia đầu tiên đã đem đời mình, đời cha mình ra để suy nghiệm về nỗi thống khổ của con người.

Với ông, con người không phải là con người trừu tượng, con người phổ quát, con người được đem ra làm vật thể để lý luận như trong triết học duy lý của Hegel, con người mà ông khảo sát ở đây là chính bản thân ông, với những giai đoạn trong đường đời. Đó là lý do khiến ông trở thành ông tổ đích thực của triết học Hiện Sinh.

Sau này, Sartre, Camus, Simone de Beauvoir và những tác giả có khuynh hướng hiện sinh khác, như các nhà văn trong phong trào tiểu thuyết mới v.v… hầu như tất cả đều viết về mình, đều tra khảo chính mình, để tìm hiểu sự thật dưới các dạng thức khác nhau. Triết học của Kierkergaard là triết học nghiệm sinh trên cá nhân tác giả.

Kierkergaard nhìn thấy trong kinh nghiệm sống của mình, ba giai đoạn hiện sinh:

Giai đoạn đầu là giai đoạn hiếu mỹ: thời còn sinh viên, chìm đắm trong sắc dục, bị cám dỗ. Kierkergaard bắt đầu suy nghĩ về tội lỗi, về buồn chán, về khổ đau. Những tội lỗi mà Kierkergaard luôn luôn nhắc đến, có thể chỉ là trụy lạc trong trí tưởng tượng, trụy lạc của cảm giác thẩm mỹ.

Giai đoạn thứ nhì là giai đoạn đạo hạnh: Kierkergaard yêu người con gái tên Régine Olsen, ông chấm dứt thời kỳ phiêu đãng, ăn chơi. Ông muốn người yêu cùng với mình vươn lên tới giai đoạn thứ ba.

Giai đoạn thứ ba là giai đoạn tôn giáo. Đặc tính của đời sống tôn giáo gồm hai chữ độc đáo và tin yêu.

Theo Kierkergaard, con người tôn giáo là con người đã tìm được nhân vị của mình, không còn bị trói buộc bởi những luật lệ phổ quát của luân lý nữa. Nếu hỏi: Tại đâu con người có thể biết mình là một nhân vị độc đáo? Kierkergaard trả lời: Tự ý thức về tội lỗi. Chính tội lỗi là cái làm cho con người tự cảm thấy đơn độc. Tội lỗi làm cho con người có tương quan với tuyệt đối, dám tiếp xúc với thực tại cao cả nhất là Thượng Đế. (Trang 92)

Kierkergaard vạch mặt, chỉ tên những người như Hegel chỉ lấy lý luận để mong giải nghĩa tất cả. Ông trình bầy một tâm hồn hiện sinh luôn luôn bị dằn vặt, vật lộn với chính mình để vượt qua những chặng đường đời. Kierkergaard đã thật sự mang triết học về với con người. Là một linh mục, Trần Thái Đỉnh đã dành cho Kierkergaard những trang phân tích tràn ngập ưu ái và đồng cảm.

Nietzsche

Viết về Nietzsche, Trần Thái Đỉnh phê bình có khắc nghiệt hơn, nhưng đồng thời ông cũng cho người đọc thấu nhận những giá trị chân xác của Nietzsche.

“Hãy là mình”, câu nói của Nietzsche trở thành châm ngôn sống cho nhiều thế hệ ở phương Tây. Ngay từ cuối thế kỷ XIX, Nietzsche đã tiên đoán rằng phải đến rạng đông của thiên niên kỷ thứ ba, ông mới được thật sự đọc và hiểu một cách thấu đáo.

Nhắc lại lời tiên tri này, nguyệt san văn học có tiếng của Pháp, Le magazine littéraire ra một số đặc biệt về Nietzsche trong tháng 10/2001. Vẫn trong tờ Le magazine littéraire này, số tháng 11/2001 có chủ đề Hiện tượng luận. Như thế, triết học của Nietzsche cũng như Hiện tượng luận của Husserl vẫn còn là những trào lưu tư tưởng đang được khám phá và những áp dụng vào văn học, nghệ thuật, vào đời sống hàng ngày của con người sẽ còn được kéo dài trong thế kỷ XXI.

Trong cuốn Triết học Hiện Sinh, Trần Thái Đỉnh dành chương năm và chương sáu để viết về hai triết gia Nietzsche và Husserl. Nietzsche được coi là ông tổ Hiện Sinh vô thần và Husserl là ông tổ văn chương triết lý hiện tượng luận.

Frédéric Nietzsche sinh ngày 15 tháng 10 năm 1844 tại Roecken, miền trung nước Đức; cha là mục sư. Từ hồi nhỏ, Nietzsche đã say mê âm nhạc, soạn nhiều bài thơ và bản nhạc để ca tụng thiên chúa. Năm 20 tuổi, Nietzsche theo học ngành triết học và thần học tại đại học Bonn, rồi chuyển sang đại học Leipzig. Những năm ở đại học đã khiến Nietzsche xa dần tôn giáo. Ông say mê học thuyết của Schopenhauer và âm nhạc Wagner. Từ năm 1869, Nietzsche giảng dậy ở đại học Bâle. Ba năm sau, ông cho in tác phẩm đầu tiên, tựa đề Nguồn gốc của bi kịch (La naissance de la tragédie).

Sau mười năm dậy học Nietzsche từ chức giáo sư đại học và bắt đầu cuộc đời phiêu bạt, nay đây mai đó giữa Đức, Pháp, Ý. Từ 1889 trở đi, hoạt động tinh thần của Nietzsche ngày càng phong phú. Ông viết không ngừng. Hầu như mỗi năm đều có sách phát hành. Từ 1879, mang bệnh nhức đầu kinh niên, nhức mắt, buồn nôn. Nietzsche mất năm 1900, trong điên loạn và tê liệt hoàn toàn tại Weimar ở tuổi 56.

Trần Thái Đỉnh viết: Tư chất của Nietzsche thực là họa hiếm. Nietzsche đã nhằm một cuộc cách mạng tinh thần như chưa từng thấy: Ông nhằm đổi lại cái bảng giá trị luân lý và xã hội. Những gì người ta vẫn tôn trọng tự trước đến nay sẽ bị ông thóa mạ và lên án; tóm lại ông sẽ đặt lại và tạo ra những nhận định hoàn toàn mới về thiện và ác. Cho nên triết học của ông có thể mệnh danh là “Đảo lại tất cả các giá trị”. Thay vào những giá trị tư tưởng hoàn toàn duy niệm của truyền thống Socrate, Nietzsche đã đề cao những giá trị của Hiện Sinh, và thay vào những giá trị “yếm thế” của các tôn giáo, Nietzsche đã thay vào cái lý tưởng của người hùng (le surhomme) và ý chí hùng cường (volonté de puissance). (Trang 114)

Nietzsche chịu ảnh hưởng sâu sắc tư tưởng của Schopenhauer, triết gia Đức đầu thế kỷ XIX. Tư tưởng Schopenhauer có ba điểm chính:

1- Vai trò vô cùng quan trọng của chủ thể. Schopehauer chủ trương: Vũ trụ là cái nhìn của tôi. Câu này chứng tỏ không có một vũ trụ bất biến cho tất cả mọi người mà chỉ có những cái nhìn từ những quan điểm nhất định nào đó về vũ trụ. Schopenhauer xác định chủ thể tính là một trong những tính chất cơ bản của triết học Hiện Sinh.

2- Vai trò quan trọng gán cho ý chí. Các triết gia trước Schopenhauer đều coi trí tuệ là thành phần chủ lực trong con người. Nhưng Schopenhauer chủ trương và chứng minh rằng: “Ý chí mới là yếu tố căn nguyên và nền tảng trong con người; chính ý chí hướng dẫn và cai trị trí tuệ và tiềm năng”.

Theo ông, chân lý bao giờ cũng là một thái độ của một người đối với một hoàn cảnh nhất định. Cho nên chỉ có chân lý khi có tôi và đối tượng của tôi. Không có chân lý viết sẵn cho tất cả mọi người. Thành thử các chân lý của các triết gia cổ điển chỉ là một mớ sáo ngữ, và ông viết: “Mớ tri thức khổng lồ của người học giả thường chỉ là một thứ tri thức chết, một tri thức trừu tượng, sáo ngữ”.

3- Vai trò quan trọng của thân xác nhân vị. Schopenhauer cho rằng: “Chủ thể tri thức là một người sống thực, một nhân vị với thân xác nhất định. Sở dĩ tôi nghĩ thế này mà không nghĩ như anh Ất, anh Giáp và tất cả mọi người khác vì tôi là một nhân vị độc đáo.” (Trang 117)

Tóm lại, ba yếu tố chủ thể, ý chíthân xác trong triết học Schopenhauer sau này sẽ là những thành tố quan trọng của triết học Hiện Sinh.

 Từ ảnh hưởng Schopenhauer, Nietzsche xây dựng nền triết học của mình trên hai cơ sở:

1- Phê bình các giá trị cổ truyền và dựng thuyết siêu nhân tức thuyết con người mới của Nietzsche. Ngay từ những tác phẩm đầu tay như Nguồn gốc của bi kịch (La naissance de la tragédie) Sự phát sinh của triết học (La naissance de la philosophie), Nietzsche đã đả phá triệt để triết học duy niệm mà ông coi Socrate là tổ phụ.

Theo ông, Socrate đã mắc tội giết chết tinh thần hùng cường và sức sống mãnh liệt của Hy Lạp thời nguyên thủy, thời kỳ mà hai thần Apollon, thần của ánh sáng và mực thước, và Dionysos, thần của sức sống và say sưa, luôn luôn thay phiên nhau xuất hiện để chung đúc nên nền văn minh Hy Lạp với những thiên trường ca bất hủ của Homère.

 Nietzsche đem tinh thần sảng khoái, nghệ sĩ của Dionysos để đối lập với tính chất thuần lý của siêu hình học Socrate, và theo ông, chính cái tinh thần phóng khoáng, say mê, bất chấp thiện ác ấy là cái sức sống chưa tự ý thức về mình, là hiện sinh chưa bị trừu tượng hóa bởi những quan niệm và những ngôn ngữ khái quát, chưa bị mớ lý thuyết luận lý của Socrate triệt hạ. Và đó chính là lý tưởng nghệ thuật đối với Nietzsche. (Trang 121)

2- Không thể có chân lý trừu tượng, theo Nietzsche. Chân lý trừu tượng chỉ là một thứ tri thức do người khác dạy và ta chấp nhận mà không xem lại. Cái hợp lý là cái trừu tượng, nó lạnh lùng như xác chết nên nó vô bổ cho cuộc hiện sinh.

 Nietzsche tranh đấu cho một tri thức mới: tri thức cụ thể gắn liền với thực tế sống động. Tri thức cụ thể nằm trong cuộc sống hiện sinh của mỗi người và nó có những thước đo khác nhau tùy theo quan điểm của từng người.

Để phê bình nền luân lý cổ truyền, Nietzsche chia nền luân lý này làm hai loại: Luân lý chủ ôngluân lý nô lệ.

Luân lý chủ ông là luân lý của giai cấp thống trị. Cái gì liên lạc tới bọn quý tộc, thống trị là tốt. Quý tộc thống trị có bản tính ngang tàng, kiêu hãnh, cho nên luân lý chủ ông xây dựng trên lòng tự tín, tự đại, kẻ hào hùng.

Luân lý nô lệ thì ngược lại, người nô lệ bị đàn áp, yếu hèn, cho nên họ lập ra bảng giá trị riêng của họ, họ lập ra đức nhẫn nại, khiêm tốn, từ bi … đó là đức của những người bất lực.

 Nietzsche khinh bỉ các tôn giáo như Do Thái, Ki Tô và Phật giáo, ông cho rằng tôn giáo là sản phẩm của những kẻ bệnh tật, hèn yếu, không có can đảm để đấu tranh, sống cuộc sống hiện sinh ở đời này nên mới tạo ra những giá trị yếm thế, chối bỏ cuộc hiện sinh để mưu cầu cuộc sống hạnh phúc ở đời sau. (Trang 126)

Trong cuốn Zarathoustra đã nói như thế (Ainsi parlait Zarathoustra) một trong những tác phẩm nòng cốt của ông, Nietzsche mượn miệng Zarathoustra để nói ra những mặc khải mới của ông về con người. Zarathoustra là một bậc thánh hiền, có dòng máu Arya đã sống trên đất Ba Tư hồi thế kỷ thứ VI trước Tây lịch, và đã rao giảng một thứ đạo gần giống Bà La Môn ở Ấn Độ. Nietzsche mượn miệng Zarathoustra để nói lên tư tưởng hiện đại của mình.

Đối với những hình thức luân lý hoặc tôn giáo cổ truyền khinh chê thân xác, Nietzsche bảo: thế thì đừng sống nữa, sống để chờ chết như thế là sống thừa, và ông tuyên bố: “Tôi là xác và hồn”. Hoặc: “Tôi chỉ là thân xác mà thôi”, câu này dẫn tới quan niệm tư thân (corp propre) của Marcel và Ponty sau này. (Trang 130)

Triết lý người hùng (surhomme) của Nietzsche nhằm đả phá tất cả những học thuyết nào không giúp cho con người phát triển khả năng vô tận của cuộc hiện sinh, trong đó ông coi hiện sinh tôn giáo là hiện sinh nô lệ, vô bổ. Bởi vậy, phải giết Thượng Đế thì con người siêu nhân mới có cơ xuất hiện.

siêu nhân là gì?

Đây là định nghĩa của Nietzsche: Siêu nhân hay người hùng con người hoàn toàn tự chủ, không lệ thuộc vào những thói tục do luân lý cổ truyền tạo nên để nô lệ hóa con người. Người hùng có ý thức sâu xa về tính cách tự chủ của mình, hắn muốn dùng cuộc đời của hắn để thể hiện quyền tự chủ vô cùng quý báu đó.

 Nietzsche viết: Hãy luôn luôn trở nên chính mình, hãy là ông chủ và nhà điêu khắc để tạc nên chính mình.

 Nói tóm lại, đừng nhắm mắt làm nô lệ kẻ khác, đừng để bảo sao làm vậy, phải có ý chí tự quyết, tự tìm lấy lối đi.

 Tự quyết, tự chọn là những ý chí căn bản của cuộc hiện sinh.

 Con người phải tự vượt mình.

Theo Nietzsche, quần chúng tuy đông về số nhưng không có ai là người hết, họ chỉ là những bóng vật vờ, bảo sao nghe vậy.

Nietzsche viết: “Ở ngoài công trường, ta nói với hết thảy mọi người mà kỳ thực không nói với người nào hết”.

“Quần chúng chỉ là cái miệng để hoan hô, đả đảo. Những tay lãnh đạo bảo hoan hô thì quần chúng hoan hô, bảo đả đảo thì quần chúng lại đả đảo ngay. Quần chúng thực là một cái máy khổng lồ và vô hồn”. (Trang 141)

Ai muốn sống cuộc hiện sinh của mình thì phải thoát ra ngoài cuộc sống vô hồn ấy, phải dám suy nghĩ lấy, không để cho ai nghĩ hộ, phải luôn luôn tìm cách vượt chính mình, phải tìm con đường đi của mình, sống phải sáng tạo, phải dám nghĩ những cái chưa ai nghĩ, phải tự giác và tự giải thoát … không cảnh nô lệ nào nhục nhã bằng nô lệ tinh thần. Kể cả nô lệ người thầy.

Cho nên Zarathoustra nói rằng: “Ông thầy dậy ta làm người chứ không dậy ta làm học sinh suốt đời. Chư đệ phải xa ta ra. Phải chống lại ta. Biết đâu ta đã chẳng là một kẻ bịp bợm”. “Hãy coi chừng đừng để cho thần tượng đè chết”.

Tư tưởng của Nietzsche không phải là một học thuyết khép kín mà chỉ cho ta lối mở, lối đạp đổ tất cả những học thuyết đã có, phá tan những căn nhà tiền chế về tư tưởng, để lại bắt đầu. Bài học của Nietzsche là sự bắt đầu miên viễn, l’éternel retour.

Con người phải bước qua Thượng Đế, bước qua thánh thần, bước qua Nietzsche, bước qua chính mình mà đi.

Tác phẩm của Nietzsche là tác phẩm mở. Từ một điểm nào đó trong tác phẩm của ông, chúng ta đều có thể bắt đầu làm lại, đi con đường khác, cho nên tác phẩm của ông luôn luôn là đề tài cho các cuộc tranh luận không ngừng, mỗi người có thể tìm thấy ở đó những cách đọc, cách hiểu khác nhau, kể cả Hitler lẫn Mussolini đều đã chịu ảnh hưởng thuyết người hùng của Nietzsche.

Cho nên Trần Thái Đỉnh đã có lý khi ông viết:

“Mặc dù các tội ác của bọn Đức Quốc Xã không thể đổ cả cho Nietzsche, nhưng ai cũng biết rằng quân đội Hitler đã trao tay nhau những trang sách Nietzsche ca tụng người hùng và con người siêu nhân.

Tuy nhiên ảnh hưởng của Nietzsche đối với Tây phương ngày nay thực là lớn lao […] Nietzsche đã xuất hiện như một trận bão táp kinh thiên động địa: những lời lẽ tuy ngạo mạn nhưng thống thiết của ông đã lay chuyển tư tưởng nhân loại, như ít khi thấy trong lịch sử. Đọc Nietzsche, chúng ta thấy như bị tát vào mặt, ta thấy hổ thẹn vì thói ươn hèn của tư tưởng ta, ta thấy hổ thẹn vì thái độ nô lệ và thụ động của ta, ta chưa vươn tới mức làm người tự do.” (Trang 150)

“Ta thấy ta như lũ trẻ con ngày ngày nhai đi nhai lại những lời lẽ của thánh hiền, coi đó là những bùa hộ mệnh, tưởng chừng như những lời kinh hoa mỹ kia có phép màu để giải quyết cuộc nhân sinh của ta, mà ta không biết rằng ỷ lại như thế là sống thêm nô lệ”. (Trang 151)

Một lời răn của Nietzsche trong Zarathoustra đã nói như thế:

“Anh đã đi con đường từ giun lên làm người, nhưng vẫn còn rất nhiều giun dế trong anh. Xưa kia, anh là khỉ, và ngày nay, loài người vẫn còn khỉ hơn bất cứ con khỉ nào.”

Với những lời như thế, triết học Nietzsche trước ngưỡng cửa thế kỷ XXI, vẫn còn là phát súng bắn trúng hồng tâm các thể chế độc tài và là một liều thuốc đắng mà những tâm hồn muốn vươn lên phải nuốt để thoát kiếp nô lệ, để sống kiếp người.

Hiện tượng luận Husserl

Năm 2001 là năm kỷ niệm 100 năm ra đời của Hiện tượng luận Husserl. Sinh nhật này đã được những người làm văn học ở Tây phương đánh dấu một cách trân trọng với những buổi hội thảo, những số báo đặc biệt nhắc lại Hiện tượng luận và vai trò của nó trong văn học toàn cầu. Vậy Hiện tượng luận là gì? Trần Thái Đỉnh viết:

“Husserl (1859-1938) đã coi khoa Hiện tượng học là một cái nhìn cách mạng triệt để, chấm dứt thời kỳ ngây thơ của những triết gia và khoa học gia đi trước ông. Ông thường gọi Hiện tượng học là Căn để chủ nghĩa (radicalisme), vì nó có chủ đích tìm hiểu đến nguồn ngọn tri thức của con người dưới tất cả mọi hình thức, từ hình thức thường nghiệm đến hình thức khoa học.” (Trang 153)

Nhưng cốt lõi của Hiện tượng luận là gì?

Tại sao Hiện tượng luận lại đóng một vai trò quan trọng như thế trong văn học thế kỷ XX?

Như chúng ta đã biết, triết học cổ truyền đi đôi với văn học truyền thống và triết học Hiện Sinh đi đôi với văn học hiện đại.

Triết học cổ truyền, vì mải tranh luận về con người phổ quát, vì mải tìm đến con người lý tưởng, cho nên dễ bỏ qua con người bằng xương bằng thịt đang sống cuộc hiện sinh này. Ngoài ra, triết học cổ truyền cũng đã quá thản nhiên với cuộc đời, coi cuộc đời là thiên nhiên, và thiên nhiên thì lúc nào cũng thế. Husserl gọi thái độ trên đây của triết học cổ truyền là thái độ duy nhiên (naturaliste), và vì thấy duy nhiên là lối bí, nên ông mới khám phá ra Hiện tượng luận. (Trang 155)

Có thể nói ngắn gọn, trước Husserl đã có hai quan niệm cổ điển về vũ trụ.

Theo Aristote thì vũ trụ là tất cả. Vũ trụ bất biến, cho nên khi người quân tử đã đạt được cái nhìn đích thực về vũ trụ rồi, tức là đã đạt được chân thiện mỹ rồi, thì không cần học nữa mà chỉ cần truyền bá cái đạo của mình mà thôi.

Quan điểm thứ hai là Hiện tượng luận Hegel. Đó là Hiện tượng luận về tinh thần. Hegel chứng minh rằng: Tất cả vũ trụ hiện hữu này chỉ là phản ảnh tinh thần con người: tức là tôi nghĩ thế nào thì vũ trụ xuất hiện đúng như thế. Nói nôm na hơn, vũ trụ Hegel là vũ trụ Kiều: người buồn cảnh có vui đâu bao giờ, cho nên nhà tâm lý học chỉ cần nghiên cứu tâm trạng của con người là có thể biết hết về vũ trụ.

Tóm lại, có hai quan điểm cổ điển về vũ trụ:

1) Vũ trụ bất biến, con người phải tìm ra cái nhìn đích thực về vũ trụ.

2) Chủ thể có quyền tuyệt đối về vũ trụ tức là chủ thể xác định vũ trụ.

Hiện tượng luận của Husserl dung hòa hai quan niệm trên và đưa ra cái nhìn mới để ghi nhận những biến thái muôn mầu của vũ trụ.

Theo Husserl, chủ thể không có quyền tự đặt mình làm tuyệt đối và đối tượng (tức sự vật) cũng không phải là bất biến. Bởi vì cùng một sự vật mà mỗi người chúng ta thấy nó một cách khác nhau. Đối với Husserl, thì tôi coi sự vật là đối tượng, tức là một hiện diện, sự vật là một hữu thể đang đối diện và đối thoại với tôi. Cho nên tôi và sự vật (hay vũ trụ) là đồng hạng với nhau, không ai có quyền tuyệt đối trên ai.

Cái học thời cổ, là học trò lập lại những lời của thánh hiền. Tử viết, Aristote viết, Tử nói, Aristote nói, Socrate nói, bởi vì đó là những lời của người quân tử đã đạt tới chân thiện mỹ rồi. Học trò không cần xét lại. Chỉ học như con vẹt.

Nhưng nếu lấy Hiện tượng luận mà xét lại thì sẽ thấy ngay những lời Tử viết ấy, lời Platon, Socrate ấy, ngày nay còn chỗ nào có giá trị, chỗ nào đã lỗi thời. Cũng như nếu lấy Hiện tượng luận mà xét thì câu ca dao “Ta về ta tắm ao ta, vừa trong vừa đục ao nhà vẫn hơn” hủ lậu và thoái hóa vô cùng.

Nếu triết học cổ điển công nhận có chân lý hiển nhiên và coi cái nhìn của ta về vũ trụ là hiển nhiên và tất nhiên, thì trái lại, với Husserl, không có cái gì là hiển nhiên và bất biến hết.

Hiện tượng luận không dành ưu tiên cho bất cứ một cách nhìn nào về sự vật, về vũ trụ, nhưng nó quyết tâm tra vấn những cái nhìn đó, không coi cái nhìn nào là tất nhiên nữa, và quyết chí tìm cho ra cái nền tảng căn do đã làm cho ta nhìn thế này mà không nhìn thế kia. (Trang 160)

Thành thử nếu muốn nhập môn Hiện tượng luận, chúng ta phải lột xác, bỏ những ý kiến cố định đi để theo Husserl đứng vào những cách nhìn như ta chưa từng làm bao giờ hết. (Trang 160)

Nhìn lại văn học thế kỷ XX, hầu như những tác giả lớn đều ít nhiều chịu ảnh hưởng của Hiện tượng luận.

Jean Paul Sartre đã áp dụng Hiện tượng luận vào mọi thể loại văn học của ông, từ phê bình đến truyện ngắn, kịch … Ví dụ cách mô tả nhân vật của Sartre qua Roquentin trong Buồn nôn. Ông đã mổ xẻ đến kiệt cùng sự nhận thức của Roquentin về chính mình, về từng động tác, từng cảm giác, từng tri giác của chính mình. Trong truyện ngắn Le mur (Bức tường) Sartre đã dùng Hiện tượng luận để mổ xẻ nỗi sợ của con người, chủ yếu là của những tử tù trước khi chết. Trong Les mots (Chữ nghĩa) Sartre đã dùng Hiện tượng luận để mổ xẻ xã hội trưởng giả mà ông xuất thân, qua ngôn ngữ của chính xã hội đó. Trong Qu’est ce que la littérature (Văn chương là gì?), Sartre dùng Hiện tượng luận để tra khảo văn chương, tìm đến nguồn cội của sự viết, cách viết, tại sao viết… Tóm lại, Hiện tượng luận cho phép tác giả đi đến kiệt cùng một hiện tượng, một vấn đề mà tác giả muốn trình bầy cho người đọc.

Trong tiểu thuyết mới, Alain Robbe-Grillet là người chịu ảnh hưởng sâu sắc Husserl, ông áp dụng Hiện tượng luận để mô tả đến kiệt cùng một sự vật. Khác với Jean Paul Sartre, lối mô tả của Alain Robbe-Grillet lả lướt và có nhiều hình tượng hơn, nhưng vẫn là Hiện tượng luận. Chỉ một màn cô gái xõa tóc chải đầu, trong cuốn La Jalousie (Bức mành mành), Alain Robbe-Grillet có thể viết thành một bài thơ dài, vừa mơ hồ, vừa chính xác. Ông nghe thấy “tiếng” tóc lao xao, bối rối mỗi lần bàn tay chuyển động, cái lược đưa lên, kéo xuống, da đầu xao động với cán ngà… Một vết con rết chết dí trên tường, cũng được ông quay đi quay lại đến mươi lần, và mỗi lần nhà văn lại lục lọi trong hồi ức, ra một kỷ niệm hay một nhận thức khác trước.

Tóm lại, Hiện tượng luận bắt buộc nhà văn phải nhìn hiện tượng dưới nhiều góc độ khác nhau, bắt buộc đạo diễn phải quay một cảnh dưới những ống kính khác nhau, và mỗi khi đổi vị trí nhìn, nhà văn hay đạo diễn lại khám phá ra một khía cạnh mới của hiện tượng, của sự vật. Trường phái Cái nhìn, Ecole du regard, trong tiểu thuyết mới thoát thai từ Hiện tượng luận; do vậy, nhà văn “mới” không mô tả như nhà văn “cũ”.

Cái khác nhau của họ là: đối với các nhà văn cổ điển, cái bàn là cái bàn, cái ghế là cái ghế, chúng chỉ có bốn chân, và tả thêm nữa thì nó làm bằng gỗ lim, gỗ gụ, nó tập tàng hay nó còn mới toanh … nhưng nếu ở dưới mắt một nhà văn chịu ảnh hưởng Hiện tuợng luận thì sẽ thấy cái bàn ấy có bao nhiêu vết nứt, mỗi vết nứt có hình thù gì và mỗi vết nẻ là dấu ấn của một cuộc ẩm thực nào, của một buổi tiễn đưa nào v.v… Cái bàn không còn là một thực thể vô tri vô giác nữa mà nó tiềm ẩn một dĩ vãng sâu lắng và đa dạng như con người.

Hiện tượng luận bắt buộc nhà văn không thể nhìn qua loa đối tượng rồi mô tả sơ sài hoặc chép lại những gì anh ta đã đọc hoặc nghe thấy về đối tượng, mà anh ta phải đặt đối tượng, tức vật thể ở trước mắt, rồi tra khảo trí nhớ, kinh nghiệm, kỷ niệm của mình, tra khảo giác quan của mình mà mô tả.

Cũng như một nhà phê bình, không chỉ chép lại những ý của người đi trước mà anh ta đã đọc được, hay mớ lý thuyết anh ta lấy ở trong sách ra, mà chưa kịp nhai, nuốt và nghiền ngẫm, mà phải đặt văn bản phê bình ra trước mắt, rồi dùng tất cả năng khiếu của chính mình để phân tích, tìm hiểu chữ nghiã, tư tưởng của tác giả, theo kinh nghiệm sống, theo nhận thức, theo lương tri, hay đạo đức bản thân của mình. Độc giả muốn đọc những gì anh nghĩ ra, chứ không ai muốn đọc những gì ông Hoài Thanh, ông Vũ Ngọc Phan đã viết về cuốn sách này, thậm chí ông Mác, ông Hegel đã lập thuyết như thế này, thế nọ. Tất cả mọi sự khoa trương kiến thức chỉ là để che lấp trống sự lười biếng không chịu xác nghiệm, tri giác và thiếu óc sáng tạo ở chính bản thân người phê bình.

Nhà văn, khi mô tả bằng hiện tượng luận, thì đối tượng hay hiện tượng sẽ hiện ra dưới bộ mặt khác, khác hẳn với lối mô tả -dù là tả chân- trong cách viết hiện thực cổ điển. Bởi trong cách viết hiện thực cổ điển, nhà văn chỉ nhìn sự vật như một điều bất biến: Cô Huyền là một cô Huyền do tác giả tạo ra, tức là tác giả “hình dung” ra.

Trong lối nhìn Hiện tượng luận, tác giả mang cô Huyền để trước mặt và chiếu nhiều ống kính khác nhau vào cô Huyền. Sẽ thấy cha cô Huyền nhìn cô Huyền một cách khác, mẹ cô Huyền nhìn cô Huyền một cách khác, anh cô Huyền nhìn cô Huyền một cách khác, người yêu cô Huyền nhìn cô Huyền một cách khác … Và càng chiếu nhiều ống kính khác nhau vào cô Huyền thì chân dung cô Huyền càng sống động, nó không chỉ có một chiều duy nhất như tác giả cổ điển nghĩ ra. Tóm lại, Hiện tượng luận không cho nhà văn nghĩ ra, tức là bịa ra một cái gì đó để viết, mà nhà văn phải khảo sát, phải kiểm nghiệm, phải để đối tượng trước mắt để ngắm nhìn, phải cho đối tượng sống lại bằng hồi ức, kỷ niệm, kinh nghiệm sống của nhà văn, phải nhìn kỹ, nhìn đi nhìn lại để khám phá ra những bí mật của đối tượng.

Triết học cổ điển chủ trương con người có thể biết thấu bản tính, biết đến đáy lòng của sự vật và của con người. Nhưng triết học Hiện Sinh, đặc biệt là Hiện tượng luận của Husserl, cho rằng chúng ta không biết rõ bản tính của ai hết, kể cả của người lẫn vật, những cái nhìn của chúng ta về sự vật thường phiến diện, vì vậy chúng ta phải có cái nhìn trắc diện, đo, đạc và phải có nhiều cái nhìn trắc diện khác nhau, nhìn trước, nhìn sau, nhìn từ phía trên, nhìn từ phía dưới, tóm lại là luôn luôn đổi cái nhìn thì mới mong đi sâu vào sự hiểu biết sự vật, tìm thấy những sắc thái mới mẻ của nó, và cho đến mãi mãi, sự vật vẫn dành cho ta những bỡ ngỡ nếu ta biết thay cái nhìn để tìm hiểu nó hơn. (Trang 166)

 

Hiện tượng luận dựa trên phương pháp khoa học được Husserl gọi là những giảm trừ (reduction). Có ba giảm trừ chính:

Giảm trừ triết học: buộc ta phải xét lại tất cả những học thuyết của tiền nhân.

Giảm trừ yếu tính: giúp ta đặt vũ trụ hiện hữu vào trong ngoặc đơn để chỉ nhắm nó như một hiện tượng.

– Và sau đó là giảm trừ Hiện tượng luận: nhờ đó ý thức được gỡ ra khỏi tất cả những bám víu của thái độ duy nhiên trước đây để chỉ còn là những cái nhìn thuần túy, trắc, diện về mọi sự, kể cả những tâm tình của chủ thể. (Trang 172).

Cho nên Husserl luôn luôn nhắc đến nhiều đợt (couches) khác nhau, nhiều hình thái khác nhau của ý thức: cũng là cái nhìn, có khi sâu, có khi nông, cũng là hoài niệm, có khi là hoài niệm đầu tiên, có khi là hoài niệm thứ nhì, tức là ta nhớ rằng ta đã nhớ như thế này, thế nọ v.v… Ví dụ cũng là cái nhà số X đường Tú Xương chẳng hạn, hằng ngày tôi vẫn đạp xe qua đó đến trường, tôi nhìn thấy đó là một cái nhà, sau đó, tôi cần mua nhà để ở, tôi bắt đầu để ý đến chiếc nhà đó, cái nhìn của tôi đã đào sâu hơn, sau khi đã bàn bạc trong gia đình, và đã gần như đồng ý mua, tôi lại nhìn nó bằng đôi mắt khác, vì ý hướng đã mỗi lần mỗi đổi khác, cho đến khi vào hỏi chủ nhà, được mời đi xem trước sau, trong ngoài, cái nhìn của tôi càng sâu hơn, tâm tình và ý hướng tôi càng đổi mãi; thành thử theo Hiện tượng luận, tôi phải tả được những “hiện tượng nhà” mà tôi đã kinh nghiệm đối với cái nhà số X đường Tú Xương đó. Đối với những cảnh vật và những người mà tôi giao tiếp cũng thế, và càng hơn thế nữa: tôi phải dùng Hiện tượng luận để mô tả đúng những cái nhìn của tôi đối với họ ở mỗi chặng đường đời, ở mỗi tình trạng riêng biệt […]. Không nói thêm. Không nói bớt. Nhất là không sáo ngữ. (Trang 187)

Nhiều người làm văn học hay mượn cớ lãng mạn để viết phóng, viết bịa ra những “tình cảm” hoặc mô tả những con người không có thực trong đời sống, tác giả nhầm lẫn sự hư cấu với sự bịa đặt, không sống thực, nhầm lẫn tưởng tượng văn học với tưởng tượng bịa đặt.

Tưởng tượng văn học là vẽ lại những hình ảnh mình đã kinh qua trong đời sống một cách nghệ thuật. Nhà văn phải viết bằng tri giác và kinh nghiệm sống và khi họ bước ra ngoài hai lãnh vực ấy để bịa ra những mẩu đời, những mẩu tâm tình không ăn nhằm gì với cuộc sống, thì họ thất bại.

Cũng phải nói thêm rằng lối mô tả trong hiện thực cổ điển chỉ là lối chụp ảnh thiên nhiên và hiện tượng theo lối nhìn cổ điển, tức là nhà văn, trước hết, cho rằng mình đã thấu suốt hết mọi lẽ, mọi sự và anh ta chỉ việc đưa ra cái ảnh của cái gọi là sự biết ấy của anh về sự vật, về thế giới, là xong.

Ngược lại, trong cái nhìn Hiện tượng luận, nhà văn, trước hết, không biết gì về hiện tượng mà anh mô tả và anh ta phải truy lùng, phải tìm kiếm, phải vật lộn với tri giác và kinh nghiệm sống mới có thể viết về đối tượng mà anh ta khảo sát, và những điều mà anh ta đưa ra cũng không bao giờ là kết quả cuối cùng về sự vật, về hiện tượng đó mà chỉ là một cách tìm kiếm mà thôi.

Đó là lý do mà một nhà văn như Alain Robbe-Grillet cứ viết đi viết lại một chủ đề án mạng, trong nhiều tác phẩm, với những nhân vật giống nhau, và mỗi lần viết, ông ta lại tìm ra những nhận xét mới. Cho nên, nếu đi sâu vào Hiện tượng luận thì nhà văn sẽ khó có thể bí đề tài, bởi bất cứ một đề tài nào, ta cũng có thể đào bới nó bằng trăm cách nhìn, cách viết khác nhau: Một mái đình làng, một cuộc lễ hội, một đám cháy v.v… tất cả đều có thể được khảo sát đến vô cùng bằng phương pháp nội soi vừa khoa học, vừa triết học, vừa văn chương của Hiện tượng luận.

Hiện sinh của Sartre

So sánh hai triết gia cùng thời, một tả, một hữu, người Pháp thường nói: họ thích Jean Paul Sartre với những nhầm lẫn, hơn là một Raymond Aron không sai lầm. Điều đó chứng tỏ con người hiện sinh và hành động của Sartre, đã trở thành một thần tượng với hai khía cạnh tốt xấu đều được chấp nhận, một thần tượng bằng xương bằng thịt, có những điểm mạnh, điểm yếu của nhân sinh. Và Sartre là một thần tượng của người Pháp, theo đúng nghĩa hiện sinh của đời sống.

Sartre không phải là một triết gia kín cổng cao tường, mà là một triết gia xuống đường, hành động, thông cảm với sinh viên, bênh vực những giá trị, những điều mà ông cho là phải, và sẵn sàng sửa sai hành động và tư tưởng khi biết mình lầm.

Sartre đả phá những đạo đức giả của Tây phương đối với thế giới thứ ba. Sartre là sự thông cảm với những người trong thế yếu kém. Mặc dù triết học của Sartre chứng minh không thể có sự thông cảm giữa người và người, không thể có tình yêu mà chỉ có đối tác trong tình yêu. Bởi bản thân Sartre là tất cả những khối mâu thuẫn. Sartre là hiện sinh của chúng ta trong mỗi khối mâu thuẫn riêng tư của chính mình. Vì vậy mà Sartre được yêu thích.

Hai mươi năm sau khi Sartre chết, toàn bộ tác phẩm vẫn còn mới như hôm qua, vẫn còn dẫn dắt tư tưởng thanh niên, hoặc nói cho đúng hơn, vẫn đưa thanh niên vào con đường nhận diện sự phi lý của cuộc sống, của cuộc hiện sinh này, mà đồng thời vẫn đứng lên, vẫn phải vật lộn, vẫn phải tìm đến một thứ tự do tuyệt đối để hành động.

 Theo Sartre, con người bị kết án phải tự do. Con người bắt buộc phải tự do trong bất cứ hoàn cảnh nào.

Trong cuốn Triết Học Hiện Sinh, Trần Thái Đỉnh giới thiệu bốn tác giả cột trụ của triết học Hiện Sinh đương thời: Karl Jaspers: hiện sinh hướng về siêu việt; Gabriel Marcel: hiện sinh và huyền nhiệm; Jean Paul Sartre: hiện sinh và hư vô; Heidegger: hiện sinh và hiện hữu.

Ở đây, chúng tôi lựa chọn giới thiệu Jean Paul Sartre bởi chính ông đã đem triết học vào văn học và ông là người đã quảng bá triết học Hiện Sinh trên toàn cầu. Ngoài ra, Sartre đã áp dụng triệt để những phương pháp khảo sát hiện tượng của Husserl trong toàn bộ tác phẩm của ông, để, với bất cứ một vấn đề gì, Sartre cũng đem lại những cái nhìn độc đáo, khác người, một cách hoàn toàn mới lạ đầy tính sáng tạo.

 Ngày nay người ta trở lại với triết học của Sartre bởi ngay chính ở rạng đông thế kỷ XXI, những vấn đề về con người lại được đề ra một cách cấp thiết hơn và quan niệm nhân sinh của Sartre hơn lúc nào hết lại vẫn gần chúng ta hơn cả. Tính chất tự do tuyệt đối của con người, tức con người bị bắt buộc phải tự do đi từ triết học Kant: Tự do là do mình tự quyết định theo lương tri (conscience) của mình. Tức là tôi tự buộc mình phải hành động theo lẽ phải. Kant cho rằng Sự tự trị của ý chí là nguyên tắc duy nhất của con người.

Sartre tiếp nối quan niệm của Kant bằng cái nhìn vô thần, ông cho rằng vì không có trời đất, không có thần thánh ra lệnh hoặc cai quản, khiến con người phải tự trách nhiệm mỗi lựa chọn của chính mình: Trách nhiệm với bản thân và với người khác.

Và chính cái tự do quyết định ấy dẫn đến những hoang mang, khắc khoải, đến những lo sợ siêu hình. Con người không có khả năng để giải thích những tồn tại của thế giới xung quanh. Sự vật cứ trơ trơ ra. Còn con người là sinh vật có ý thức, hắn thấy những khoảng trống, những phi lý, nhưng không thể giải thích, không thể biện minh được; con người là sinh vật duy nhất chứa đựng hư vô trong bản thân và đó là bi kịch thê thảm nhất của con người.

 

Công đầu của Sartre là đã đem triết lý vào văn học, bình dân hóa triết học khiến bất cứ ai cũng có thể “với” tới triết học và thấy lợi ích của triết học trong đời sống. Riêng về đối tượng văn chương không thôi, trong cuốn Qu’est-ce que la littérature (Văn chương là gì?) Sartre cũng đã phân tích hiện tượng văn chương đến ngành đến ngọn.

Dữ kiện văn chương, ở Sartre, được hiểu như một hữu thể văn hóa, tự nó đặt ra những vấn đề lý thuyết và thực hành. Và sự phê bình trở thành một khoa học nhân văn. Phê bình hiện sinh của Sartre khai phá mối tương quan sinh lý giữa tác giả, tình huống và tác phẩm.

Tiểu thuyết La nausée -Buồn Nôn, in năm 1938, mở đầu cho nền tiểu thuyết thật sự được gọi là hiện đại. Nhân vật Roquentin dẫn đến một thế giới mới, thế giới mà cá nhân tự nhận thức về mình, về người khác, về thế giới chung quanh. Qua Roquentin, người đọc thấy thế nào là cảm giác trong nghĩa Hiện tượng luận: ban đầu là cảm giác buồn nôn xẩy ra ở tay Roquentin khi tay anh ta tiếp xúc với cái nắm đấm của cửa ra vào, rồi cảm giác này tiếp tục trở lại khi anh ta bắt tay một người khác, rồi với một hòn sỏi trên biển. Rồi cảm giác buồn nôn xẩy ra trên thân thể v.v… Tóm lại, buồn nôn là cảm giác khó chịu không thể giải thích được của con người trước sự tồn tại của thế giới chung quanh.

Tại sao lại có cảm giác buồn nôn? Muốn hiểu sâu hơn, chúng ta phải trở về với nội dung triết học của Sartre. Trần Thái Đỉnh viết:

L’être et le néant (Hữu Thể Và Hư Vô), 1943 là một kỳ công của Sartre: triết gia đã gửi vào cuốn sách này tất cả những gì là tinh hoa tư tưởng của ông. Trong hơn bảy trăm trang giấy đen nghịt những chữ, qua những phân tích đôi khi rất tinh vi về những cảnh huống sinh tồn, Sartre đã vạch trần những dự tính thầm kín của con người, cả những ý hướng mà con người vì “ngụy tín” (mauvaise foi) đã tự bịt mắt để khỏi nhìn nhận” (Triết Học Hiện Sinh, trang 305)

Vũ trụ quan và nhân sinh quan của Sartre nằm trong ba vấn đề then chốt của triết học: Vũ trụ, con người và Thượng Đế.

Trong triết học của Sartre, trước hết, Thượng Đế là một phi lý. Sau đó, vũ trụ là một phi lý và cuộc nhân sinh là một phi lý.

Quan niệm về Thượng Đế của Sartre rất rõ ràng: ông cho rằng Thượng Đế chỉ là một dự phóng (projet), một phóng thể của con người. Tóm lại, đối với Sartre, không có Thượng Đế. Nói cách khác, Thượng Đế chỉ là ảo mộng, một dự tính bất khả của con người. Nhưng con người lại luôn luôn muốn trở thành Thượng Đế, tức là muốn có tất cả, muốn là tất cả, những “muốn” đó chỉ là những ảo mộng điên rồ và là duyên do tính chất bi đát và phi lý của đời người. Sartre cho rằng con người là một đam mê vô ích.

Đối với Sartre có hai thực tại: sự vậtý thức con người.

Ông gọi sự vật trong vũ trụ là hữu thể tự tại (l’être en soi) vì bản tính sự vật im lìm, bất biến và vô nghĩa.

Ông gọi tâm linh con người là hữu thể tự quy (l’être pour soi) vì tâm linh con người có đủ khả năng dự phóng và hồi tưởng. Một đằng tĩnh, một đằng động. Cái bàn thì chỉ là cái bàn mãi mãi, còn ý thức của ta thì nó có thể lần lượt phóng lên cái bàn, rồi lên con mèo, rồi lên cây dừa, v.v… tức là những đối tượng của ta, và mỗi lần thay đổi đối tượng, nội dung ý thức của ta cũng thay đổi. (Trang 311)

Quan niệm căn bản của Sartre là: Sự vật nguyên nó không có nghĩa lý chi hết. Nó đông đặc và trơ trơ. Thật là buồn nôn.

Tính chất phi lý của sự vật được mô tả cặn kẽ trong màn Rễ Cây Xoan Tây rất nổi tiếng. Roquentin, nhân vật chính trong truyện, một hôm sau những giờ phút mệt nhọc, chán nản, lê mình vào ngồi phệt trên chiếc ghế đá vườn bách thảo: đọc báo cũng chán, coi người ta qua lại cũng nhàm; sau nhiều cái ngáp séo quai hàm, chàng nặng nề bước đi trong một lối ngợp những cây … Chán nản, chàng lại ngồi xuống trên một chiếc ghế đá khác, nhìn vẩn vơ. Sau cùng, cái nhìn mệt nhọc của chàng dừng lại trên một chiếc rễ xoan tây: chiếc rễ to, bò lan trên mặt đất như một con rắn. Nó chỉ có vẻ bò đi thôi, thực sự nó lì lì, vô nghĩa. Sao nó lại nằm ngang lối đi thế này? Vô nghĩa. Sao màu nó lại xanh xanh và nâu nâu? Sao nó không xanh như lá của nó kia? Roquentin thấy câu hỏi đó không có nghĩa chi vì thực ra sự vật không có nghĩa chi hết: nó màu ấy hay màu khác, nó bò lan ra đường hay chìm sâu dưới đất, nó có đấy hay không có đấy, bằng ấy cái phi lý cả.

Như vậy đặc tính đầu tiên mà Sartre nhận thấy nơi vạn vật là phi lý và khi Sartre bảo cái rễ xoan phi lý, ông chỉ có ý nói rằng nó không có ý nghĩa chi hết: bao nhiêu ý nghĩa của cái rễ xoan đều được Sartre đặt vào số những hiện tượng của nó, nghĩa là những cái nhìn của ta về cái rễ xoan đó (thí dụ như ta thấy cái rễ xoan đó tượng trưng sức sống mãnh liệt của cây xoan, cái rễ đó cản lối đi, cái rễ đó giống như con rắn bò qua đường v.v…) còn chính cái rễ xoan, xét theo phương diện tuyệt đối, thì ta không thể biết chi hết, và đó chính là vẻ phi lý, lầm lì, nhầy nhụa của vật thể, hay là hữu thể tự tại (l’être en soi). (Trang 313)

Sartre có ý vạch tỏ tính chất “đặc sệt, nhầy nhụa và bất di bất dịch” của sự vật. Con người là một vươn lên, vì con người sinh hoạt theo dự phóng (projet), luôn luôn tiến, luôn luôn bỏ cái hiện nay để thể hiện ngày mai; còn trái lại, sự vật chỉ nằm lì đó, cho đến muôn ngàn đời. (Trang 314)

Nhưng con người, không phải người nào cũng có những dự phóng. Như cô Annie, chiêu đãi viên trong tiệm café mà Roquentin hay đến, cũng lại là một thứ cỏ cây. Cô này sống, chỉ để ăn, ngủ, đi làm kiếm tiền may sắm, thỏa mãn nhục dục, đời cô chỉ có bấy nhiêu. Bà chủ tiệm của cô còn tệ hơn nữa: bà này buôn bán phát tài, ăn ngon mặc đẹp, không chồng con, khi thể xác đòi hỏi, bà thỏa mãn sinh lý với mấy người khách hàng quen thuộc, trong đó có Roquentin. (Trang 315)

Tóm lại, theo Sartre, sống như cô Annie và bà chủ tiệm café là chỉ sống cuộc đời sinh lý, sống như cầm thú và thảo mộc. Sartre gọi sống như thế là “sống thừa ra”, sống như hàng cây kia và vũng nước này. Sống không có một dự phóng nào cho tương lai. Sống như vậy là đồ thừa, là phi lý.

Tóm lại, vạn vật đều phi lý. Vũ trụ phi lý. Và nếu con người chỉ sống để mà sống: tức là ăn, ngủ, thỏa mãn những nhu cầu sinh thực thì trở thành cây cỏ. Nhưng nếu con người có những dự phóng (projet), thì những dự phóng đó cũng không thoát ra khỏ ba phạm trù: “làm, có, là”. Nói khác đi:

Con người dùng hành động (làm) để đạt những sở nguyện của mình, như (có) căn nhà, địa vị, gia đình. Tuy nhiên càng nhiều càng chán ngán, càng thấy mình có nhiều càng tham vọng, vì con người muốn có tất cả. Đó là một tham vọng hão huyền, không thể nào thực hiện được, nhưng con người cũng không thể nào không có tham vọng đó: thành thử bản tính con người là chạy theo những dự phóng và những dự phóng cứ càng ngày càng biến xa. Vì thế Sartre đã kết luận rằng đời người là một đam mê vô ích”. (Trang 329)

Dự phóng “làm” đưa đến dự phóng “có”.

Dự phóng “có” dẫn đến dự phóng “là”: vì muốn tất cả, con người muốn mình tất cả. Mà tất cả tức là Thượng Đế. Muốn là Thượng Đế là một điều hết sức phi lý. Tóm lại mọi dự phóng con người đều kết thúc ở chỗ phi lý. (Trang 324)

Sartre đưa ra những ý niệm mới về tha nhân, về tình yêu, về sự chết … Mỗi vấn đề đều được ông phân tích một cách tỉ mỉ và tài tình để đưa đến kết luận: Mỗi dự phóng thông cảm với tha nhân sẽ kết liễu trong thất bại và phi lý, và sự chết là thất bại lớn nhất của con người. Và cũng là chuyện phi lý nhất.

Tóm lại, theo Sartre, “con người sinh ra không lý do, sống vì nhu nhược và chết do ngẫu nhiên”. “Con người là một đam mê vô ích.

Những người lạc quan và tin vào Thượng Đế có thể không chấp nhận triết học của Sartre, nhưng tại sao một nền triết học bi quan như thế lại gần cận với con người? Muốn trả lời câu hỏi trên, có lẽ chỉ cần nhìn vào những biến cố thời sự của hôm nay, chúng ta cũng đã thấy rất nhiều hiện tượng đam mê, không những vô ích mà còn có tính chất hủy diệt nơi con người.

Thụy Khuê

Paris, tháng 11/2001

Đọc lại và bổ sung ngày 2/8/2014

 

Comments are closed.