Maria Hoàn Nguyễn và những biến tấu Thị Mầu…

Đặng Văn Sinh

Thị Mầu là một hình tượng thẩm mỹ trên sân khấu chèo truyền thống, cứ tưởng vai trò lịch sử của cô con gái phú ông chấm hết khi chúng ta đã xóa bỏ hình thái nhà nước chuyên chế phương Đông, xây dựng thiên đường xã hội chủ nghĩa “tiến bộ gấp triệu lần tư bản” thì mọi tàn dư độc hại của chế độ phong kiến đế quốc bị quét sạch. Hóa ra không phải như vậy. Nhân gian vẫn nhiều hệ lụy. Sự công bằng và bình đẳng giới có vẻ như chỉ là thứ bánh vẽ lấp lánh ở tít mù xa, nên Mầu chưa thể chết, và trên đời này, kẻ đóng nắp ván thiên cho tiếng cười dân gian còn lâu mới “giáng trần”. Khác với kịch Nō (Noh) nổi tiếng xứ Phù Tang, muốn xem phải mua vé trước nửa năm, chèo sân đình không còn chiếu diễn. Các nhà hát đóng cửa, thảng hoặc, nếu có suất diễn thì khán giả lèo tèo. Vậy Thị Mầu sống thế nào? Xin nói ngay, Mầu khá tinh ranh, sắc sảo nên đã nhanh chân nhập tịch vào… thơ. Đây là mảnh đất vô cùng phì nhiêu khiến tha hồ cho cô nàng thi thố tài năng bằng tiếng cười độc nhất vô nhị của mình.

HN 40

 

Chân dung tự họa Maria Hoàn Nguyễn

Có thể nói, từ xưa đến nay, đã không ít nhà thơ, nhất là nhà thơ phái đẹp viết về Thị Mầu với những cung bậc tình cảm khác nhau. Thôi thì khen chê đủ kiểu. Người “đồng thanh tương ứng, đồng khí tương cầu”, kẻ nghiêm khắc chỉ trích xuất phát từ nền tảng đạo đức, thật có, giả có tạo nên một dàn hợp xướng ngôn từ làm cho không gian tinh thần xứ sở thi ca sôi động hẳn lên. Âu đó cũng là một cách “mua vui cũng được một vài trống canh” như Nguyễn Du từng tâm sự cho lời kết “Đoạn trường tân thanh”.

Nói vậy nhưng không phải vậy. Thị Mầu là một giá trị nằm trong cơ tầng văn hóa Việt. Viết về Mầu thì nhiều nhưng không phải ai cũng thành công. Bởi lẽ họ chưa chạm được đến cái phần cốt lõi của hình tượng nhân vật trong các mối quan hệ nội sinh như một thao tác quy chiếu vào lịch sử hay đương đại.

Tình cờ, một lần vào trang Maria Hoàn Nguyễn, và chợt sững sờ bởi Mầu của chị để lại trong tôi ấn tượng mạnh đến mức suốt mấy hôm liền đầu óc cứ quay cuồng như là bị ma ám. Thật ra, tôi không quen Hoàn Nguyễn, chỉ đến khi nhận lời kết bạn FB gần đây, mới đọc của chị. Hóa ra, Hoàn Nguyễn không chỉ viết một mà có cả chùm bài về cô gái “lẳng lơ” ở cái thời các chức sắc làng quê Việt Nam coi việc phạt vạ gái chửa hoang là một cơ hội để ngả mâm đánh chén.

Công bằng mà nói, trên sân khấu, ở bất cứ hình thức nào, từ thuở khai sinh ra Thị Mầu, trải qua bao “thế sự thăng trầm”, cái “lõi” của hình tượng không thay đổi. Đó là sự sáng tạo tuyệt vời của nghệ nhân dân gian như một dấu ấn hằn sâu vào tâm thức dân tộc từ cả ngàn năm. Tuy nhiên ở mỗi thời đại lại có cách diễn ngôn khác nhau, tuy chưa phải sự chuyển đổi hệ hình, nhưng cũng buộc công chúng phải thay đổi cách đọc. Đọc chính là một hình thức giải mã nghệ thuật. Chẳng có gì khó hiểu nếu ta nhìn nhận hành vi và lời ăn tiếng nói của Mầu cũng mang tính lịch sử. Lịch sử với Thị Mầu không bất biến mà luôn vận động, phát triển theo cách tư duy hình tượng của chủ thể sáng tạo lấy cảm hứng lẳng lơ, phá phách, giễu nhại làm đối tượng “mổ xẻ”.

Như một cây bút có duyên nợ với Mầu, tiếng cười trên sân khấu truyền thống đã được Hoàn Nguyễn làm sống lại một cách ngoạn mục thành tiếng cười đầy chất bi hài đến chao chát, đanh quánh trong “Đấy Mầu”, “Hôm nay Mầu lại lên chùa”, “Lúng liếng Thị Mầu” và “Lẳng lơ Thị Mầu”. Có thể xem chủ thể trữ tình ở cả bốn bài thơ là cô gái bị “giời đày” bắt nguồn từ vở chèo “Quan Âm Thị Kính”, lòng đầy những ẩn ức tính dục chi phối, luôn có khát vọng giải tỏa khỏi sự ràng buộc lễ giáo, nhưng khác với nguyên mẫu, Mầu của Hoàn Nguyễn lẳng lơ, chao chát và đanh đá hơn nhiều, trước hết là ở sự phá bỏ giới hạn những quy ước văn hóa mà Mầu truyền thống chưa dám vượt qua, bởi “…kị húy là quy ước văn hóa, tạo nên miền u tối ước lệ giữa cuộc đời”* như giáo sư Trần Đình Sử đã viết.

Hành vi phá phách triệt để của Mầu làm tiền đề cho những ý tưởng nghệ thuật mới, trong đó có thủ pháp ẩn dụ đưa lịch sử trở về thời hiện đại, chỉ mặt đặt tên chính danh thủ phạm, khiêu khích thiên hạ bằng lớp ngôn từ giàu hình ảnh làm gia tăng giá trị biểu cảm. Vì thế, có thể nói, thế mạnh lục bát Thị Mầu của Hoàn Nguyễn, trước hết là ở kỹ năng vận dụng và kết hợp từ loại một cách nhuần nhuyễn làm bùng nổ hiệu ứng thẩm mỹ rồi mới đến cách ngắt câu cũng như vần điệu, nhạc điệu… “Lục bát Thị Mầu” với cách ngắt nhịp tưởng như là ngẫu hứng nhưng thật ra đều nằm trong ý đồ nghệ thuật của tác giả. Từ, ngữ và sự kết hợp tối ưu những thủ pháp nghệ thuật đã tạo nên một Thị Mầu của riêng Hoàn Nguyễn. Vì thế, muốn hiểu được bản chất hình tượng người phụ nữ đầy mâu thuẫn này, bạn đọc phải hiểu căn tính dân tộc như một giá trị sống trong dòng lịch sử chảy không ngừng nghỉ của cộng đồng Việt tộc. Đó là còn chưa nói đến những quy ước văn hóa nghiệt ngã, lỗi thời, rất cần được định hình lại, chẳng hạn:

“I a đây chẳng sợ chi

Gì gi cái gỉ gì gi cũng liều”

(…)

“Này thách các cụ làng xa

Gần không rúc từ “ấy” ra mới tài”…

(Đấy Mầu)

Nhưng, đến đây chưa phải đã hết, bài thơ còn ghim vào tâm trí người đọc một “vĩ thanh” mà nếu không có nó, chân dung Mầu chưa hoàn chỉnh:

“Đừng mà lấp lú che tai

Ăn tàn phá hại đè vai dân lành

Tốc váy Mầu chửi tam bành

Cha sư bố lũ gian manh mặt dày”.

Thị Mầu của Hoàn Nguyễn là Thị Mầu phồn thực đã loại bỏ tất cả mọi ràng buộc về quy ước văn hóa, hoàn nguyên tính cách, trở về với khát vọng làm người phụ nữ nguyên trạng nhưng đâu đây vẫn bị ám ảnh bóng ma “tam cương ngũ thường” nên cô nàng chơi ván bài sấp ngửa năm ăn năm thua:

“Ơ hay, phạt vạ cái gì

Vén mành các cụ cũng thì gấp năm…

Ai hay chỗ các vị nằm

Chả dơ ngàn vạn… mấy trăm… ấy à”.

Và cũng như thường lệ, để khép lại bài thơ, Hoàn Nguyễn chẳng ngại cho “cục cưng” của mình thả lũ châu chấu cào cào vào chiếu rượu giữa đình làng khi ấy hẳn là các bậc “đức cao vọng trọng” nhảy cẫng lên:

“Che mình các cụ chẳng xong

Yếm đào Mầu hé chắc không chui vào

Ới a châu chấu cào cào

Chiếu làng đã trải cụ nào dám không…?”

(Lúng liếng Thị Mầu)

Thái độ Mầu chỏng lỏn, diễn ngôn của Mầu xấc xược, ở giữa đình làng, cho dù đang bị xử tội chửa hoang mà Mầu chả coi các cụ ra gì. Chẳng những thế cô nàng còn chanh chua thách đố. Đó chính là những hình ảnh thẩm mỹ được tác giả kiến tạo bằng ngôn ngữ, ngỡ bình thường nhưng không phải ai cũng làm được:

“Tranh nhau gặm lộc bứt chồi

Kéo tơ rút ruột bòn nơi cát lầm”

(…)

“Ra mà khoác lác ba hoa

Í ơi một đám bắc loa đến giời

Ới này cụ, ới quan ơi

Váy chùng em hé lí lơi cụ nhòm

Rằng ngon, trắng nõn nòn non

Khảo tra cái cớ ai còn lạ chi”.

(Lẳng lơ Thị Mầu)

Mầu của Hoàn Nguyễn là Mầu đã loại bỏ hết mọi ước lệ, Mầu của lịch sử nhưng mang tâm thế thời đại được khắc họa bằng ngôn ngữ kết hợp giữa cổ điển và hiện đại nên sinh động và có sức truyền cảm như một tín hiệu thẩm mỹ. Hơn nữa, lục bát Thị Mầu ở đây ngoài yếu tố nhạc điệu khá uyển chuyển, người đọc còn nhận ra bài thơ có nhịp điệu “bên trong”, nhịp điệu tâm hồn, chính vì thế nó cuốn hút người đọc như một mối lương duyên.

Ngày Cá tháng Tư

Đ.V.S.

* FB Trần Đình Sử “Thử tìm cái lý bên trong của nghệ thuật Nguyễn Huy Thiệp”

CHÙM BÀI THỊ MẦU CỦA HOÀN NGUYỄN

 

ĐẤY MẦU

Lẳng lơ đấy

Có sao không?

Mặt trơ

Ừ, cứ lộn lồng lên đi

Í a

đây chẳng sợ chi

Gì gi

cái gỉ gì gi

cũng liều

Yêu

thì nói thẳng rằng yêu

Thương

cho đủ cả trăm điều rằng thương

Yếm chùng

ngúng nguẩy lên hương

Chính chuyên

ba, bảy, dăm đường…

ới a

Này

thách các cụ làng xa

gần

không rúc từ “ấy” ra mới tài?

Đừng mà lấp lú

che tai

Ăn tàn phá hại

đè vai dân lành

Tốc váy

Mầu chửi tam bành

Cha sư bố lũ gian manh

mặt dày…

H.N.

 

HÔM NAY MẦU LẠI LÊN CHÙA

Hoàn Nguyễn

hôm nay Mầu lại lên chùa

tư rằm chả phải, thèm chua đấy mà

biết rằng mới có mười ba

khăn hồng bay múa la đà tìm yêu

gót xinh bước gió liêu phiêu

sân đình in dấu chân liều Mầu em

Tiểu ơi nhận lễ trầu têm

cho môi thắm đỏ nên duyên một đời

sân chùa Mầu đứng chơi vơi

nâu sồng tủi phận lệ rơi ướt tình

áo xiêm cởi ngọc ra mình

khoác lên miệng tiếng ai khinh cũng nhờ

trót thương Tiểu- Mầu làm ngơ

yêu nên Mầu mới dại khờ, liều thôi

cửa thiền cài chặt then rồi

thất tình, tủi phận, rối bời đày vơi

biết mình phận bạc như vôi

thì đành phó mặc với đời

ừ xong

có… thì vẫn cứ hơn không

Mầu tìm Nô vậy, dối lòng vậy thôi

làng nay bắt vạ Mầu tôi

ném danh vào hão chê cười chát chua

mỉa mai thay kẻ được mùa

nước vừa mới nóng thân cua đỏ còng

mỉa mai những kẻ ngồi không

ăn hôi nợ gái không chồng chửa hoang

vết nhơ đời hãy còn loang

mà xem lắm kẻ bẽ bàng tanh ôi

xin đời thấu nỗi Mầu tôi.

 

LÚNG LIẾNG THỊ MẦU

Ơ hay

phạt vạ cái gì

Vén mành

các cụ cũng thì

gấp năm…

Ai hay

chỗ các vị nằm

Chả dơ

ngàn vạn… mấy trăm…

ấy à

Mặc ai

Mầu cứ la đà

Chính chuyên

chết cũng ra ma ngoài đồng

Che mình

các cụ chẳng xong

Yếm đào

Mầu hé

chắc không chui vào?

Ới a

châu chấu cào cào

Chiếu làng đã trải

cụ nào

dám không???

 

LẲNG LƠ THỊ MẦU

Ra đấy

ăn hôi cỗ Mầu

Chiếu làng đó

giành giật mau mà ngồi

Tranh nhau

gặm lộc, bứt chồi

Kéo tơ rút ruột bòn nơi cát lầm

Quan nha

chốn ấy gian thần

Vét vơ trên nỗi nhọc nhằn người ta

Ra mà khoác lác, ba hoa

Í ới một đám bắc loa đến giời

Ơi này cụ

ới quan ơi

Váy đào em hé

lí lơi cụ nhòm

Rằng ngon, trắng nõn nòn non

Khảo tra cái cớ ai còn lạ chi

Cụ ăn đi

cụ xơi đi

Không tham danh lợi lấy gì mà no?

Rõ phường một đám mặt mo

Lẳng lơ Mầu thị trát tro mặt đời.

Comments are closed.