Lê Công Tư
Tặng Trang – Toronto, Canada,
đọc cho vui những tháng ngày xa xứ.
Cuộc đời của Nguyễn Đức Sơn là một cõi riêng không giống bất cứ ai, cô đơn tuyệt đối, tự do tuyệt đối. Cuộc sống riêng tư của anh cũng như của thi sĩ Bùi Giáng thuở nào, dễ khiến ta có cảm tưởng cái kích cỡ con người xem ra quá chật chội với những con người này. Gọi Nguyễn Đức Sơn là một cuồng sĩ cũng đúng, một ẩn sĩ không sai, một thiền giả cũng phải, một gã du côn làm thơ như Rimbaud cũng không trật. Tất cả những tính cách này cộng thêm với sự ngang tàng, khinh bạc – trộn lẫn tất cả những đặc tính này lại chúng ta có cơ may có được một chân dung khá trọn vẹn về nhà thơ này.
Thơ Nguyễn Đức Sơn cũng thế, không thể lầm lẫn với thơ của bất kỳ ai, có thể gây dị ứng với những ai xem thơ như là thế giới của mộng tưởng, thơ mộng, những gì mà tự hồi nào đến giờ vẫn được xem như là bản chất của thơ với những trăng treo, sóng vỗ, mây trôi.
Anh đến thăm em một buổi chiều
Em ngồi em ỉa trong cầu tiêu
Những chuẩn mực thơ mộng của thi ca hầu như bị phá vỡ với hai câu thơ này, và thay vào đó là một thực tế mà không phải một thi sĩ nào cũng đủ can đảm để viết ra. Từ những kinh nghiệm riêng tư cùng những kinh nghiệm có được từ sách vở mà tôi đọc được ở đâu đó, cho phép tôi tin rằng cuộc sống và cả sự sáng tạo có cơ may mở toang những thế giới mới chính là từ sự liều lĩnh, liều lĩnh trong cách sống, liều lĩnh trong sáng tạo. Những sự liều lĩnh có cơ may mở ra những khoang trời lạ, có khả năng làm giàu thi ca và làm đầy cuộc sống. Vẫn chưa ngừng ở đó, hình như anh còn khuyến khích kẻ đến sau cứ ngồi trên mộ của mình mà ỉa nữa, đừng có ngại ngùng gì cả:
Đời sau người có thương ta
Từ lâu xuống lỗ làm ma mất rồi
Đường xa xin chớ bồi hồi
Mồ hoang nhảy đại lên ngồi đi cha
Một tính cách như vậy chắc cũng chỉ có ở Nguyễn Đức Sơn. Không chỉ có ỉa thôi, mà còn đái nữa:
– Trên rừng ấy một mình anh hái trái
Đang mơ màng trông thấy quá nhiều chim
Bên mương vắng em vén quần sắp đái
Anh thấy càn khôn rụng xuống trong tim
Anh sẽ đến bất ngờ ai biết trước
Miệng khô rồi nẻo cực lạc xa xôi
Ở một đêm bụi cỏ dáng thu người
Em chưa đái mà hồn anh đã ướt
Không biết trong mơ em còn mắc cỡ
Một đêm vàng rung động giấc thanh tân
Dưới chăn chiếu thiên nhai lồ lộ mở
Em đái dầm ướt sẫm cả trần gian
Giấc khuya đó em bàng hoàng tỉnh dậy
Cả mặt hồ tràn ngập ánh sao băng
Khắp người em máu nóng đang căng
Xao xuyến quá em tuột quần xuống đái
– Bắt đầu thở là bắt đầu hạnh phúc
Không bao giờ anh nói dối em đâu
Ôi bất động ngàn năm thân gỗ mục
Cửa tồn sinh em hãy mở cho lâu.
Hầu hết những nền tảng đạo đức mà nhân loại có được là những gì họ nghe được từ những lời rao giảng giữa lòng một giáo đường, giữa lòng một chánh điện, trong một tòa thánh hay miếu mạo nào đó. Rồi ngay cả những lãnh tụ cũng không bao giờ bỏ lỡ dịp để rao giảng một thứ đạo đức chó chết, rác rưởi. Có khi nào ta tự hỏi: “Đâu là đạo đức của thi ca, văn học?”. Có thể nói đạo đức của thi ca, văn học là sự thành thực. Cái vẻ đẹp có được toát ra từ sự thành thực. Tò mò nhìn một phụ nữ vén quần đái rồi làm thơ. Thử hỏi còn cái gì ở trên đời thành thực hơn? Nếu chúng ta thường xuyên bày tỏ sự ghê tởm với một chính quyền hay một ai đó thiếu minh bạch, thì chúng ta phải nghiêng mình trước sự thành thực, bất kể sự thật đó như thế nào của một nhà thơ:
Em đang thay áo trong phòng
Hương xuân bay tỏa sóng lòng tôi đâu
Vú thon quá độ nhiệm màu
Trộm nhìn quên hết ưu sầu thế gian
Kẻ viết bài này vốn là một người để tâm nghiên cứu về tôn giáo nên quen biết các tu sĩ cũng nhiều, đủ để nhận ra rằng từ đạo đức đến đạo đức giả, khoảng cánh này còn mỏng hơn cả một sợi tóc nữa, tất cả những hèn nhát của một cuộc sống ốm đói được bao biện, che chắn đủ mọi cách. Một thứ đạo đức mà Nietzsche đã từng báng bổ, miệt thị trong hầu hết những tác phẩm của ông.
Ám ảnh về thời gian cùng cái chết là hai ám ảnh xuyên suốt nhất trong thơ Nguyễn Đức Sơn, và toàn thể cách sống cùng cuộc đời của nhà thơ này đều được nhào nặn, gợi ý từ hai nỗi ám ảnh này, bất kể cuộc sống đó phải, trái, đúng, sai, hay, dở, lời khen, tiếng chê. Dù gì đi nữa thì anh cũng vẫn phải sống với cái chết treo trước mặt cùng với một chuỗi thời gian dài vô tận sau khi anh vắng mặt. Nói theo kiểu D.H Lawrence, trong Lady Chatterley’s Lover: ‘’Ta phải sống, thây kệ bao nhiêu bầu trời đã sụp’’ (“We’ve got to live, no matter how many skies have fallen.”).
Không biết từ đâu ta đến đây
Mang mang trời thẳm đất xanh dày
Lớn lên mang nghiệp làm thi sĩ
Sống điêu linh rồi chết đọa đày
Cuộc sinh tử xem ra khá nặng nề với anh. Không riêng gì với Nguyễn Đức Sơn, nó nặng nề với bất kỳ một ai muốn xác định một ý nghĩa đích thực nào đó cho một lần hiện hữu rồi biến mất. Cái gánh nặng này chỉ có thể được cất xuống lúc ý nghĩa của cuộc sống được nhìn ra:
Dặm về nguyệt tỏa mang mang
Một thân sinh tử hai hàng lệ sa
Tưởng tượng cảnh trần gian sau khi mình rời khỏi, những gì còn lại chỉ là một nấm mồ hoang bên một bờ biển vắng với tiếng sóng ngàn đời, đủ để se lòng bụi cát vực lạnh cồn hoang:
Mai sau này chỗ tôi nằm
Sao rơi lạnh lẽo âm thầm biển ru
Cái chết rồi cũng được nhìn ra như là một nơi chốn nghỉ ngơi sau một lần với cuộc tồn sinh nửa hư, nửa thực, kể cả hoa trái trần gian lẫn oan khiên nghiệp chướng:
Rồi mai huyệt mộ anh về
Ru nhau gió thổi bốn bề biển xưa
Trăng tà đổ bóng cây thưa
Mộng trần gian đã hái vừa chưa em
Cái chết thật thì vẫn còn trước mặt, chưa rõ hình thù. Mặt mũi nó ra sao thì cứ một mình nằm giả chết trên bờ biển thử coi nó thế nào:
Nghe đời rút xuống xa xăm
Tứ chi rời rã tôi nằm im ru
Dã tràng tưởng giấc ngàn thu
Mon men vài chú đã bu đến rồi
Phiêu phiêu mây bạc trên trời
Đưa tôi về cõi tuyệt vời mai sau
Nỗi cô đơn lạ thường của một con người trước cõi vô cùng của trời cao, đất rộng, sau trước mịt mùng:
Trông lên Thượng Đế đi rồi
Hỏi mây thái cổ con người vân vi
Lối mòn cỏ mọc xanh rì
Ngoài xa kia chẳng có gì nữa sao
Đảo buồn thổi gió lao xao
Ngàn xưa còn tiếng thì thào biển khuya
Đọc bài thơ trên dễ nhớ đến một bài thơ Đường của Trần Tử Ngang:
Ai người trước đã qua
Ai người sau chưa tới
Nghĩ trời đất vô cùng
Mình ta tuôn giọt lệ
Nối kết thân phận của mình với thiên nhiên như là một mảnh của toàn thể giữa vô tận đất trời, tất cả chỉ vừa đủ để anh nghe ra một nỗi buồn heo hút giữa gió núi mưa ngàn, một nỗi buồn đượm sắc màu thiên cổ:
Mang mang trời đất tôi đi
Rừng hoang suối lạnh thiếu gì tịch liêu
Tôi về lắng cả buổi chiều
Nghe chim ăn trái rụng đều như kinh
Gần như không có bất kỳ một thi sĩ nào ở đất nước này có một cuộc sống gần gũi, trọn vẹn, thân tình với thiên nhiên như Nguyễn Đức Sơn. Gắn bó cuộc đời mình với núi, rừng, sông, biển như một người bạn thiết, cho nên không khó để nhận ra sự có mặt của thiên nhiên trong thơ Nguyễn Đức Sơn có một sức hấp dẫn riêng. Anh dán lên hình thù của chúng những ưu tư của mình. Nếu cái thế giới này được nặn ra, được vo tròn, bóp méo theo cách suy nghĩ nào đó của từng người, thì đất, đá, cỏ, cây trong thơ anh cũng thế, chúng cũng lan man buồn như anh vậy. Điều này có thể nhận ra trong hầu hết thơ anh:
– Khi thấm mệt tôi đi luồn ra núi
Cuối chiều tà chỉ gặp bãi hoang sơ
Bước lủi thủi tôi đi luồn vô núi
Nghe nắng tàn run rẩy bóng cây khô
Chân rục rã tôi đi luồn ra núi
Hồn rụng rời trước mặt bãi hư vô
– Biển hoang cồn lạnh tiếp chiều
Đá trơ với đá tôi liều với thơ
Áo quần hai bộ xác xơ
Quạnh hiu dù đến bạc phơ mái đầu
Cạnh chuyện làm thơ, cuộc sống của Nguyễn Đức Sơn trông khá giống một Thiền giả. Nói đến Thiền là nói đến hơi thở cùng cách thở. Những phương pháp tập thở của Yoga nói chung và Thiền nói riêng là những nỗ lực nhằm khai mở những luân xa, những năng lực tối thượng còn tiềm ẩn đâu đó trong cơ thể con người để có thể nhìn ra cái bản thể cùng ý nghĩa đích thực cuộc sống này. Cách thở của hành giả Nguyễn Đức Sơn cũng có chút gì đó khác người:
Đầu tiên tôi thở cái phào
Bao nhiêu phiền não như trào theo ra
Nín hơi tôi thở cái phèo
Bao nhiêu mộng ảo bay vèo hư không
Sướng lên tôi thở phập phồng
Mây bay gió thổi trời hồng muôn năm
Mai sau này chỗ tôi nằm
Sao rơi lạnh lẽo âm thầm biển ru
Cũng không khó lắm để có thể nhận ra từ thở cái phào cho đến cái phèo là một kẻ đang đùa giỡn với xương máu của mình giữa cái vòng quay mịt mù của một trò chơi sinh tử. Những luân xa đang chờ đợi được mở mắt chắc cũng phải phì cười với cách thở này, kiểu thở của một con người còn nặng nợ áo cơm, sâu dày nghiệp chướng, cho dù với kẻ viết bài này thì không biết bao nhiêu tu sĩ Phật giáo mà đường lối lẫn cung cách tu hành chưa đáng để xách dép cho anh.
Sống như một hành giả, một Thiền giả, chơi thân với Thiền sư Tuệ Sỹ, quen biết Phạm Công Thiện, đang sống với vợ con ở Phương Bối Am, vốn là ngôi chùa cũ của thầy Nhất Hạnh. Trong Nẻo Về Của Ý của Thầy Nhất Hạnh có khá nhiều đoạn mô tả chi tiết về cái chốn này. Cuộc sống của anh ở nơi đây trông khá giống cuộc sống của Thoreau bên hồ Walden. Hơn ai hết Nguyễn Đức Sơn nhìn ra sự suy đồi đến đáy của đạo Phật, nhất là đạo Phật sau 1975:
Về đi thôi kiếm chỗ nằm
Mơ chuông đang nện trăng rằm ngất ngư
Thiền sư ăn thịt Thiền sư
Niết bàn nhiều giống, chân như nhiều nòi
Tâm teo tóp trí cọc còi
Ma đang thuyết pháp, quỷ đòi giảng kinh
Kìa em tịnh thủy một mình
Cửa Không ai viếng, cửa mình tôi thăm
Rồi chân dung của một ai đó tự nhận mình là Thiền sư. Một thứ chân dung vừa đủ để Nguyễn Đức Sơn thất vọng:
Tôi biết nhiều Thiền sư
Rất được lòng quần chúng
Nhờ liên hệ tưởng xa mà gần
Với đủ các loại súng
Toàn thể tư tưởng đại thừa của đạo Phật, nếu phải nói ngắn gọn vào một vài ba chữ, chỉ có thể là những nỗ lực nhằm xác định lại sự tương quan giữa cái Có với cái Không. Nếu có thì có cái gì và không thì không cái gì? Gần như ai ai cũng có thể nhận ra điều này ngay từ lần đầu tiên đọc Bát Nhã Tâm Kinh. Một bài kệ của Thiền sư Từ Đạo Hạnh có thể ôm trọn gói cái hệ thống tư tưởng này:
Có thì có tự mảy may
Không thì cả thế gian này cũng không
Nhìn xem bóng nguyệt dòng sông
Có không không có có không là vầy
Còn đây là cái thấy của Nguyễn Đức Sơn về chuyện lý luận không hay có. Với Nguyễn Đức Sơn có ngồi đó mà lý luận cả một đời về không hay có thì cũng chỉ là những lý luận suông. Với đạo Phật đây là một vấn đề cần thực chứng, nếu không chứng, khai ngộ được thì:
Luận về không hay có
Đâu bằng nhìn cái mồng của em
Sắp ló
Không khó lắm để nhận ra những bộ phận kín đáo nhất trong cơ thể một người đàn bà thường xuyên hiện diện trong thơ anh một cách tự nhiên, giống như thơ của thiên hạ thường xuyên có trời, trăng, sao, mây, nước vậy.
Cái lỗ của em
Cùng với cái lỗ huyệt
Mở ra hai đầu sinh tử bất tuyệt
Rải rác đây đó trong thơ anh là :
-Cửa tồn sinh em hãy mở cho lâu
-Cửa Không ai viếng, cửa mình tôi thăm
-Đâu bằng nhìn cái mồng sắp ló của em
-Có dòm sâu tận cửa mình
Cũng không thấy được bóng hình thế gian
Nếu đây là một nỗi ám ảnh không rời của Nguyễn Đức Sơn thì nó cũng bình thường như ai đó cả một đời ám ảnh về tiền nong, công danh, sự nghiệp. Giữa cái cõi phù du mù mịt này, tất cả mọi ám ảnh đều có một chỗ đứng, dự phần làm nên một mảnh ý nghĩa cuộc tồn sinh, nó mở ra thiên đường lẫn địa ngục, thèm khát lẫn chay tịnh, đủ để nguyền rủa hay nói lời cám ơn. Thử nghe lại lời cám ơn của anh :
Cám ơn ghẻ mọc đầy mình
Cám ơn bệnh tật chung tình với ta
Cám ơn dái tróc lòi da
Cám ơn tù dẫn tôi ra khỏi đời
Cám ơn tất cả xa rồi
Hôm nay tôi thấy tôi ngồi bên tôi
Con người ta chỉ quen cám ơn khi tiền của đầy kho, con cái thành đạt. Khi nghe thi sĩ cám ơn những tai ương, tật ách chắc cũng thấy lạ tai, cho dù ai cũng biết, nếu không biết rõ thì cũng mơ hồ biết rằng cái lời tạ ơn cao cả nhất mà con người có được là tạ ơn những tai họa giáng xuống đầu mình như một thứ ơn phước có cơ may mở ra cái cơ hội duy nhất để sự sống có thể thăng hoa. Tất cả những vị Thánh đều vốn là những con người được sinh ra từ những đọa đày, lớn lên từ khổ lụy.
Từ dạo về Bảo Lộc sinh sống, anh có biệt danh là Sơn Núi. Ăn xong tối ngày lui cui trồng thông, bẻ măng, lượm củi, sống không khác chi một người rừng, một ẩn sĩ. Chắc là vô cùng vất vả, cuộc cơm áo chưa bao giờ đùa với khách thơ.
Ở ăn với mẹ mày nhiều
Có trưa hộc máu có chiều trào cơm
Có đêm quẫn trí sôi đờm
Sáng ra cuộc sống quá nhờm con ơi
Ru con cha rống thấu trời
Oan khiên tan giữa cõi đời cho mau
Nếu văn phong cũng là một thứ diện mạo nào đó của một con người thì khó có một thứ diện mạo nào được thể hiện một cách nghiêm khốc như diện mạo của Nguyễn Đức Sơn thể hiện qua văn phong của mình. Lần đầu tiên đọc thơ của anh là vào khoảng năm 1971, lúc đang đi lính ở Vũng Tàu, trại lính nằm gần một bãi biển hoang sau núi Lớn. Những ngày tháng thuở đó buồn tênh, còn biển xanh thì chán ngắt. Đó là những bài lục bát anh viết cho một đứa con còn nhỏ trên tờ tập san Văn. Mấy chục năm sau, nằm đọc lại những bài thơ này bỗng thấy lại giữa những câu thơ là một bãi biển hoang đang trào sóng vỗ vào những năm tháng buồn tênh dạo đó:
Nằm im chớ có vùng vằng
Để cha rơ miệng con bằng mật ong
Bẻ luôn cái lưỡi cho cong
Nói năng lấp liếm mới hòng người nghe
Cái thằng bé đang được cha rơ miệng bằng mật ong vốn là tác phẩm của một lần:
Khi không tao tạo nên mày
Lọt ra từ cõi không ngày không đêm
Xưa kia trên cái bụng mềm
Tao đâu ngờ đã chất thêm lượng sầu
Đất trời đến thuở rụng râu
Có tao hậm hực ngồi khâu cuộc đời
Mấy câu thơ trên dễ khiến ta nhớ hai câu thơ khác cũng của anh:
Nếu ngày kia ở trên đời
Cha tôi không cưới mẹ tôi bây giờ
Nói hậm hực là nói vậy thôi, chứ có những lúc mẹ bế con theo xem cha đốt cỏ ngoài rừng, anh đã để lại những hình ảnh còn đẹp hơn cả thơ nữa:
Xem cha đốt cỏ ngoài rừng
Nâng niu mẹ ẵm theo mừng không con
Có vài chiếc lá còn non
Gió xua lửa khói nổ giòn trên không
Nắng tà trải xuống mênh mông
Bước theo chân mẹ cha bồng hư vô
Chẳng có gì hạnh phúc cho bằng một buổi trưa im nằm đọc lại những bài thơ, bất kỳ của ai, mà nó để lại một ấn tượng trong đầu như một vết chém. Thơ của Nguyễn Đức Sơn thuộc loại này.
Đà Lạt, 21-6-2016
Tấm ảnh chụp Nguyễn Đức Sơn với tác giả trong một quán cơm chay ở Đà Lạt.