VĂN HỌC MIỀN NAM 1954-1975 (52): TỲ VẾT TÂM LINH (KỲ 2)

Truyện dài

Bình-Nguyên Lộc

Mười hôm đã qua, từ ngày gặp gỡ trên Biên Hòa mà Lưu vẫn chưa quyết định được có nên đi thăm Liễu hay là không.

Nơi người con trai nầy rất nhiều mâu thuẫn xung đột ngấm ngầm với nhau. Hắn bị Âu hóa rất đậm ở vài điểm nhưng trái lại, nơi vài điểm khác, hắn rất là Việt Nam, rất là Á Đông.

Chẳng bạn như vấn đề trai gái đánh bạn với nhau. Chàng không quan niệm có tình bạn suông giữa trai gái được. Người ta đánh bạn với nhau luôn luôn có hậu ý.

Rồi sau một thời gian tìm biết nhau, không yêu nhau được, người ta bắt buộc phải tiếp tục tình bạn một cách chán phèo trong giả dối.

Vì quan niệm như vậy nên chàng chưa hề có bạn gái bởi cái lẽ rất giản dị là chàng không buồn tìm bạn gái.

Chàng định làm quen với Liễu chỉ vì bí mật mà chàng thoáng thấy, với lại chàng ngỡ rằng chàng đã hơi yêu Liễu.

Nhưng rồi chàng không dám tin lắm là mình yêu.

Nhứt định là trọn đời, chàng sẽ không qua đường với ai cả, từ ngày mà em gái chàng bắt đầu đau khổ vì tình.

Đó là một kinh nghiệm gần như là bản thân. Chàng đã đau niềm đau của em gái chàng thì không thể nào chàng bắt người khác đau như vậy.

“Mình có thật yêu Liễu hay không?” Ðó là câu hỏi hằng ngày hằng đêm của người con trai nầy, câu hỏi nó ám ảnh chàng cả khi chàng ngồi nghe giảng trong giảng đường Luật Khoa nữa.

“Đành rằng mình phải biết rõ nó hơn, mới nói chuyện yêu đương một cách nghiêm trang, nhưng đó 1à giai đoạn của lý trí. Giai đoạn đầu, riêng biệt của tình cảm, mình có yêu nó hay không từ lúc mới gặp gỡ lần đầu?”.

“Mình tin rằng có tiếng sét ái tình và phải nghe yêu ngay ai thì mới thật là yêu, còn tìm hiểu nhau để đi đến hôn nhơn hay không, thì đó là chuyện khác nữa. Nếu không nghe yêu tức khắc thì không nên tìm biết ai cho mất thì giờ”.

Hằng đêm, người sinh viên nầy cứ cố thử “thấy lại” người thiếu nữ ấy xem sao.

Cả hai lần, nàng đều mặc camisole[2] màu mỡ gà, có lẽ may bằng một thứ vải gì như là tussor-shantung[3], nhưng lần đầu chiếc camisole của nàng là thứ camisole tối tân, có lằn xếp lớn nơi cái eo và dưới trôn không có bó lắm.

Lần sau, nàng mặc camisole xưa, chỉ mới xưa có một năm thôi, nhưng trong giới theo mốt, xưa một năm là xưa lắm rồi đó.

Tuy nhiên nhờ xưa nên rất hợp với cảnh. Lần sau là một đứa cháu bé gái dìu ông nó đi, mà chiếc camisole xưa rất là ngây thơ, cho người mặc áo ấy một phong cách học trò rất là dễ thương.

Hình dung ra chiếc áo camisole của thiếu nữ, nghĩ đến tên của chiếc áo. Lưu bỗng bật cười.

Hồi Pháp thuộc, nhà thương điên Biên Hòa, cấm các ký giả viết phóng sự về nhà thương vì thuở ấy y học tâm bệnh chỉ biết có hai trị liệu dã man, xịt nước và bắt con bịnh mặc một thứ áo tên là camisole de force[4] mà ta dịch rất đúng là “áo bó”.

“A… ha… ha… mặc camisole để đến một nơi mà ngày xưa người ta chuyên mặc camiso1e de force!”

Liễu mặc camisole rất đẹp. Ấy, mỗi loại áo chỉ có một số người là mặc nó vào trông đẹp mà thôi, chớ không phải bất cứ ai cũng có thể mặc bất cứ kiểu áo nào hết đâu.

Nhiều cô gái thô kệch, đen đúa, mặc đầm thì đỡ xấu xí hơn là mặc áo dài ta. Trái lại những cô gái quá mình hạc xương mai, chỉ có thể coi được khi mặc ta mà thôi.

Muốn mặc camisole cho đẹp, không được gầy lắm, mà cũng không được béo lắm, bé nhỏ quá cũng không xong, mà cao lỏng khỏng lại càng dị kỳ hơn.

Đã gọi là áo bó thì nó bó thật đấy. Mà hễ nó bó thì không giấu được cái gì hết, và nếu thân thể của cô gái nào mà suông như chiếc gối thì không làm sao mà độn nó có eo được.

Nhiều thiếu nữ người mình, mặc camisole, lại mang dép. Cho dẫu là dép mắc tiền đến đâu, trông cũng cứ như là họ mặc bi-da-ma ở nhà. Có cô lại đi giày y ta-lông[5]. Đâu có được. Camisole là áo thiếu nữ, mà thiếu nữ thì chỉ đi giày đơ-mi ta-lông thôi. Liễu đã ăn mặc đúng điệu nên phục sức của nàng không chỗ chê.

Nàng không có đánh phấn và chắc mộ thể thao nên hơi đen. Ðó là nước da đen “duyên” mà trời cho nàng, nước da mà nhiều cô phải giả tạo bằng thuốc, vì con trai bây giờ rất mê cái đen duyên ấy!

Chắc là Liễu sẽ còn lớn nữa, và chừng ấy, nàng sẽ thanh lịch kinh hồn. Chỉ có người phụ nữ nào cao lớn mới thanh lịch được.

Chàng đoán rằng Liễu sẽ còn lớn nữa vì giờ nàng đã trung bình rồi, đối với tầm vóc một phụ nữ Việt Nam, mà nàng thì mới có mười tám thôi. Vả lại ông nội của nàng lớn người lắm.

Bà nội lớn cũng cao lớn, và chắc bà nội ruột, cha mẹ nàng cũng thế, vì thường thường người ta hay tìm vợ tìm chồng cho xứng với nhau về vóc dáng.

Liễu chỉ ngây thơ vì còn quá trẻ thôi, chớ đó là một gương mặt láu lỉnh và thông minh, không cười cũng cứ thấy là nàng vui vẻ mà cả cho đến khi nàng xụ mặt giận dữ, cũng không thấy nét nào ác hiểm lẩn lút trên đó.

“Mình có bị tiếng sét hay không? Nếu không, sao mình lại nhận diện được nó khi gặp nhau lần thứ nhì? Nếu không sao một trăng rồi, mình cứ nghĩ mãi đến nó, không giờ phút nào mà cô bé ấy không lởn vởn trong tâm trí của mình!”

Lưu quyết định đi thăm Liễu trưa mai nầy. Bỗng chợt nhớ ra lời dặn của nàng, chàng dời buổi thăm viếng lại tối mai. Tuy nhiên, sáng mai không có buổi học, chàng sẽ đi vào trong ấy.

Chàng phải trổ tài trinh thám thì không thể trổ tài ban đêm được vì chỗ ấy không được sáng đèn lắm. Phải tìm nhà ban ngày trước để có đi thăm bạn ban đêm thì biết nơi mà đến cho đúng chỗ ngay.

Nhớ lại cuộc thử thách của cô bé, Lưu buồn cười và thích chí lắm. Nàng rắn mắc một cách rất dễ ưa, trẻ con một cách ngộ nghĩnh quá.

Người sinh viên Luật khoa nầy ra đi hồi chín giờ cho chắc ăn. Liễu có thể đi học trễ mà chàng thì không thích bị nàng bắt gặp đang ngơ ngác tìm nhà.

Bà Chiểu với Sàigòn, chỉ cách nhau một cuốc Taxi mười hai đồng thế mà ở đây có không khí tỉnh rõ rệt. Lưu nhớ ra rằng Liễu không cho chàng được phép hỏi thăm ai.

Hỏi thăm ai? Vâng đó là một điều chỉ có thể làm được ở tỉnh thôi, chớ ở đô thành thì không mong hỏi thăm ai về nhà của người nào cả.

Người trinh thám hạng bét của một nước thái bình yên ổn nhứt cũng tìm được nhà Liễu, nếu người ấy thông minh. Nàng đã nói rằng nàng ở đây từ bé đến lớn thì ngôi nhà hẳn phải cũ. Mà ở đây chỉ có một ngôi biệt thự cũ thôi.

Đó là một ngôi nhà cất bằng gạch, nhưng lối kiến trúc lại nhại lối châlet bằng gỗ của xứ Thụy Sĩ.

Nhưng châlet Thụy Sĩ luôn luôn cất trên núi mà ngôi biệt thự nầy lại xây trên một đám đất nê địa, nên trông hơi dị kỳ.

Phải, ở đây là nê địa vì đó là đất bờ rạch. Và phải biết rằng rạch Sàigòn giống rạch Hậu Giang, bờ rạch là đà mặt nước chớ không phải rất cao như các bờ rạch miền Đông.

Tuy nhiên, địa thế nầy giúp cho ngôi nhà rất nên thơ, khi nước lớn, bùn non ở mé rạch bị nước che lấp hết trông như nhà cất dựa bờ hồ nào. Một cây phượng vĩ tàng xanh đang nhuộm máu và soi bóng trên mặt rạch phẳng lì. Chỉ khi nào nước ròng, chảy mau, thì mặt rạch mới bị xao xuyến mà thôi.

Đó là cảnh bên hông trái của ngôi nhà, tức bên phải của khách đứng ngoài nhìn vào.

Bên phải của châlet giả nầy, Lưu thấy nhà xe và chiếc Simca 9 cũ nằm yên trong đó. Ấy, dấu vết ràng ràng như vậy thì họa là có mù mới tìm không được.

Nhà vắng hoe. Ngoài vườn cũng không thấy bóng người bóng vật nào cả.

Ðó là một ngôi nhà xa lạ, mà có lẽ chàng đã thấy hàng trăm lần rồi, một cách dửng dưng, nhưng hôm nay bỗng nhiên sao mà nó như là có hồn và chàng nghe ngôi nhà nầy thân yêu với chàng không biết bao nhiêu mà nói.

*

*       *

Tám giờ đêm. Dưới nhà, cửa đóng nhưng bên trong sáng đèn. Trên lầu, các cửa sổ đều mở có ánh đèn chong.

Chỉ bây giờ, Lưu mới chợt thấy là nhà nầy thật là nhà Tây: cửa sổ không có chấn song sắt, trái với nhà của ta, kể cả những ngôi biệt thự to lớn và tối tân.

Xứ ta ngay hồi không có chiến tranh, cũng trộm cướp như rươi[6] nên ta đành phải cất nhà tù mà ở chăng?

Cửa sổ không chấn song sắt làm nổi bật lên giá trị của bức màn, và trông sang trọng vô cùng, bức màn sang trọng, khung cửa sang trọng, ngôi nhà cũng hưởng lây vẻ sang trọng ấy.

Lưu đẩy xe lên lề cỏ, đạp bàn chống xuống, khóa xe lại rồi bước tới trụ cổng để bấm chuông.

Có tiếng chó sủa, nhưng bị bịt câm mồm ngay, rồi một chị người nhà chạy ra. Chị ta lặng lẽ chào khách, do dự giây lát rồi hỏi:

–          Thưa thầy, thầy tìm nhà ai?

Lưu có cảm giác rằng nhà nầy không bao giờ có khách hay sao mà chị người mà nầy hơi ngạc nhiên, hơi sợ hãi và đã do dự khá lâu:

–     Tôi là bạn của cô Liễu.

–     Dạ, nhưng tôi báo tên ai?

À, thì ra nhà nầy vẫn có khách. Câu hỏi của chị người nhà rất là Tây, chứng tỏ rằng chị ta thạo tiếp khách lắm, mà toàn 1à khách phải được báo tên với chủ nhà hẳn hòi.

–     Chị cứ nói người ở nhà thương Biên Hòa.

–     À, ra vậy.

Chị ta mở cổng cho khách vào, và khôn ngoan, chị dông đi thật lẹ. Đó là lối bỏ khách khéo léo, hắn đứng chờ mà không tức mình, vì thấy rằng chị kia bận chạy vòng để vào trong báo tin, chớ không phải bỏ bê khách.

Nếu chị ta đưa khách thẳng tới cửa, rủi trong nhà không chịu mở vì không biết khách là ai, bởi cái tên lạ hoắc, thì chị ta sẽ phải ngỡ ngàng với khách.

Nhưng chàng không phải đợi lâu. Chàng đứng trước cửa chánh chỉ đâu lối một phút thôi thì cửa lớn mở ra và chính chị người nhà khi nãy xuất hiện nơi khung cửa.

–          Dạ, mới cậu vô.

Chị ta đã thay đổi lối xưng hô.

Có lẽ vì Liễu đã đoán biết đó là chàng và đã xác nhận với chị rằng chàng là bạn của nàng.

Chàng bước qua khỏi ngưỡng cửa thì thấy chị người nhà mở đèn ngoài sân. Dầu sao, người ta vẫn phải đề phòng. Liễu chưa thấy mặt chàng thì chàng còn có thể là một tướng cướp.

Khu phố nầy vắng vẻ lắm, chắc nhà nào cũng phải cẩn thận đối với khách lạ như vậy cả.

Chị người nhà mở đèn ngoài sân, do cái công-tắc đặt ở tường, cạnh khung cửa chánh. Xong rồi chị mời khách ngồi rồi đi vô buồng. Khách chưa kịp ngồi và chị cũng chưa qua khỏi cửa buồng thì chủ nhà xuất hiện.

Chủ nhà? Chỉ là một lối nói vậy thôi, chớ thật ra cô bé Liễu còn lâu lắm mới được làm chủ nhà thật sự.

Đã hay tin khách đến mà Liễu vẫn mặc bi-da-ma. Nhưng Lưu thích như vậy hơn. Liễu không khách sáo tức là cho phép chàng thân mật vậy.

–          A anh! Em cứ tưởng anh xạo rồi không tới.

Liễu từ trong buồng vừa đi vừa nhảy vừa reo lên câu trên đây. Vừa đi vừa nhảy là tác phong con gái hư hèn, đối với con mắt của các cụ. Nhưng nó hay vô cùng đối với Lưu.

Chàng thấy Liễu là một cô em gái rất dễ thương, tánh trẻ con nầy không gợi ngay tình yêu, nhưng thấy đà thương liền.

–          Gì làm cho “em” nghĩ vậy?

Tự nhiên, Lưu đổi lối xưng hô, đổi xong rồi mới hay là mình đã bất giác mà bước ngay tới chỗ thân mật.

–          Tại mỏi mòn trông đợi anh chớ gì.

Liễu nói câu nầy, nửa đùa, nửa thật, giọng là giọng tuồng. Nửa thật nghĩa là vẫn có sự thật trong đó phần nào, khiến Lưu sung sướng vô cùng.

Chàng không buồn cắt nghĩa tại sao mãi cho tới bữa nay chàng mới đến, vì chàng đâu có hẹn đúng ngày nào, với lại không thể giải thích một sự kiện mà lý do sẽ làm mích lòng cô bé: chàng đã không tin rằng chàng yêu Liễu.

Chị người nhà lấp ló nơi cửa buồng, tức sau lưng Liễu, nàng ngồi ở chiếc ghế sa-lông[7] phía trong. Có lẽ nàng biết như vậy nên nàng hỏi khách:

–     Anh uống gì?

–     Nước lạnh.

–     Nước lạnh, chị Tư ơi.

Câu đó là tiếng vang của Liễu, tiếng vang ấy dội lên cho người sau lưng nàng nghe.

Rồi Liễu cười nói với bạn:

–     Em rất nóng nghe chuyện “câu lạc bộ bảy người”.

–     Té ra em chỉ mỏi mòn trông đợi câu chuyện đó chớ không phải trông đợi anh?

–     Em trông đợi cả hai nhưng trông đợi anh hơn vì có anh mới nghe được câu chuyện. Thế nào, nhà thám tử đại tài tìm nhà em có khó lắm không?

–     Khó như lấy trong túi ra một bao thuốc.

–     À, thuốc! Chị Tư ơi, cho gói thuốc nữa nha.

–     Không, anh không có hút thuốc.

–     Vậy à? Trong lớp học của em, các anh ấy hút thuốc như là un muỗi.

–     À, em học ở đâu?

–     Em học lớp dự bị Cao Đẳng Mỹ Thuật.

–     Vậy là nghệ sĩ rồi.

–     Đâu có. Người ta chỉ dạy kỹ thuật thôi, còn nghệ sĩ được hay không cũng do tâm hồn mình chớ! Trường Mỹ thuật nước nào cũng vậy.

–     Nhưng mỗi anh mỗi chị nào học ở đó chắc cũng đều tin rằng mình có tâm hồn nghệ sĩ?

–     Không biết. Nhưng nếu không tin, họ cũng đến phải tin vì chịu ảnh hưởng của một số giáo sư nghệ sĩ.

–     Giáo sư nghệ sĩ là thế nào?

Chị người nhà đã bưng hai ly nước lạnh ra tới nơi, với lại một gói thuốc, một hộp diêm.  Không thấy nước đá trong ly, nhưng thành ly lại rịn mồ hôi, chắc là nước ướp trong tủ lạnh.

–          Giáo sư nghệ sĩ tác phong họ thế nào?

Lưu lặp lại câu hỏi, lần nầy chàng hỏi rõ hơn một chút.

–          À, có một ông giáo sư tên là ông Tú. Ông ấy ở bẩn không thể tưởng tượng được. Ông thường liếm những cây cọ dính đầy dầu sơn, thường bôi tay dơ lên áo quần và bảo  rằng dám làm như vậy mới thành nghệ sĩ được.

Thế rồi anh nào cũng liếm cọ sơn, cũng bôi tay bẩn lên áo quần hết thảy.

Lưu cười ngả nghiêng, ngả ngửa, lâu lắm mới nín được và hỏi:

–     Chắc Liễu cũng ở bẩn như vậy?

–     Không, học trò con gái không chịu bắt chước ổng, nên ổng thường nói: “Con gái trong lớp nầy sẽ không có đứa nào nghệ sĩ hết ráo”. Mời anh uống nước.

–     Nữ nghệ sĩ đừng có khách sáo. Anh đang mê nghe chuyện trường Cao Đẳng Mỹ thuật thì em cứ kể tiếp cho anh nghe là hơn. Còn cái vụ hút thuốc?

–     Em đã nói lớp dự bị là một cái lò Bát Quái khói đặc nghẹt. Ấy đó cũng là để làm nghệ sĩ theo lối ông Tú. Các anh ấy thích có được hai ngón tay vàng khói thuốc thơm như tay ông Tú. Mà muốn được thế, phải hút thuốc cho nhiều vào, và phải hút lâu ngày chầy tháng. À, anh học ở đâu, anh chưa hề cho em biết tên, biết trường gì cả.

Đây là câu hỏi chờ đợi. Lưu cứ buồn mà tưởng rằng Liễu không thích chàng nên không hề hỏi về chàng.

Sự thật thì sự sơ sót ấy chỉ do Liễu thiếu kinh nghiệm sống và xã giao mà thôi. Ngay ở phút đầu, không hiểu sao, nàng cứ đinh ninh rằng Lưu là học trò. Không có dấu hiệu gì chỉ hoạt động của chàng cả, nhưng nàng lại ngỡ như vậy. Nàng lại đinh ninh rằng Lưu chưa có gia đình nên mới nói rằng nàng nghĩ đến ngày Lưu lập gia đình nên thương xót Bích lắm.

Nhận một thanh niên là bạn mà chưa biết gì hết về người ta, chỉ tưởng tượng không mà thôi, là khuyết điểm thông thường của những cô gái ngây thơ.

–          Anh là Lưu. Anh học năm thứ hai trường Luật.

–          Ông thầy cãi tương lai! Hèn gì mà anh tò mò quá.

–          Tò mò hồi nào đâu?

–          Cứ muốn biết chuyện nhà em, không tò mò là gì?

Lưu cười xòa, Liễu nói:

–          Nhưng anh khiêm tốn lắm thì tha tội tò mò cho anh vậy.

–          Em thấy rằng anh khiêm tốn?

–          Anh nói “trường” Luật một cách giản dị, chớ không nói “Ðại học” Luật khoa. Nhiều người cứ muốn trường của họ là Đại học, để nghe cho oai, cả đến trong trường của em mà nhiều anh, nhiều chị cứ ước ao nhà nước sửa tên trường lại là Ðại học Mỹ thuật.

–          Ðó cái bịnh ở xứ ta hiện nay. Họ cứ tưởng hễ trường nào mà sinh viên phải có bằng Tú tài mới vào được, là được quyền xưng là Ðại học. Họ đâu có dè hai chế độ Cao Đẳng và Ðại học rất khác nhau.

–          Mà trường của em không có buộc bằng Tú tài mới chết chớ.

–          Vậy à?

–          Ừ, trong lớp, mà dễ thường cả trường nữa, chỉ một mình em là có Tú tài I mà thôi.

–          Nhưng sao em bỏ học văn hóa để…

–          Là tại em mê nghệ thuật hội họa. Ba má em ngăn thế nào cũng không nghe.

–          Em là nghệ sĩ đứt đuôi rồi đó.

–          Em chỉ mong được như thế thôi.

–          Còn anh mê chuyện trường Cao Đẳng Mỹ thuật của em.

–          Cũng chẳng còn gì lạ để mà nói.

–          Sao lại không! Các anh, các chị ấy đi học ăn mặc thế nào? Anh nghe nói đến đám khói thuốc anh tưởng tượng đến những mái tóc Beatles, những đôi giày Santiago.

–          Tưởng tượng của anh không sai sự thật bao nhiêu.

–          Còn em, em ăn mặc thế nào?

–          Em mặc bơ-lu-din[8]. cho gọn.

Liễu đáp xong, cười giòn lên để tự chế diễu mình, ngăn bạn nàng nhạo báng nàng, bởi vì nàng đã tự chế rồi thì chàng hẳn phải thôi.

Nhưng Lưu thôi chỉ vì bận suy nghĩ về chỗ do dự mấy giây của Liễu trước mấy tiếng “cho gọn”. Có lẽ phải thú rằng mình ăn mặc như nữ cao-bồi, nàng bị mặc cảm trước một anh con trai nghiêm trang chăng?

Bỗng Lưu cũng bị mặc cảm luôn. Chàng thấy mình quá nghiêm trang, có vẻ khô khan quá, nhứt là trước một cô gái có thể có tâm hồn đẹp của một nghệ sĩ, nên chàng pha trò:

–          Em cũng là một cây xanh dờn.

Đôi bạn cười xòa với nhau. Liễu lại kể thêm chuyện trường nàng, không phải vì thích kể, mà vì một liên tưởng kia:

–          Nếu anh nghe các anh ấy nói chuyện, làm ồn, và chạy nhảy trong lớp học thì anh sẽ thấy rằng ở ngoài đời người ta điên nhiều hơn trong nhà thương điên Biên Hòa.

Cả hai lại cười xòa.

Liễu đã nghiêm trang trở lại và hỏi:

–     Tuần rồi anh có đi thăm chị ấy không, à chị gì đó anh?

–     Nó tên là Bích. Má anh đi thăm nó mỗi tuần, anh bận học nên ít đi lắm. Chúa nhật lại cần nghỉ ngơi.

–     Chị ấy mắc bịnh từ bao lâu rồi?

–     Hơn ba tháng nay.

–     Lạ quá, anh. Sao mà y học, cả Đông y lẫn Tây y đều chữa bịnh tâm trí dỡ quá, em ít nghe có người khỏi bịnh quá.

–     Sự thật thì từ ba mươi năm nay Tây y tiến rất nhiều ở địa hạt đó. Nhưng số người lành bịnh vẫn ít hơn số người lành các bịnh thường, vì bịnh tâm trí là bịnh của bản ngã chớ không phải của cơ thể, mà bản ngã là cái gì vô hình, trừu tượng, nên rất khó trị, cho dầu có tiến bao nhiêu đi nữa.

–     Té ra không phải do cơ thể mà…

–     Chỉ do cơ thể một cách xa xôi mà thôi. À, người bịnh bị chấn động tâm thần, mất thăng bằng nơi tâm trí, rồi bản ngã bị xáo trộn đi.

–     Nhưng ai cũng đã bị chấn động tâm thần, ít lắm là một lần trong đời họ, sao chỉ có một số người mới điên thôi?

–     Phải bị chấn động mạnh lắm mới điên.

–     Ừ, thì em nói “ít lắm là một lần”, tức là lần bị chấn động thật mạnh ấy, chớ còn chấn động thường thì dễ thường mỗi tuần ta đều bị một lần.

–     Anh không sành lắm về vấn đề đó và ta không nên đi xa hơn.

–     Còn do cơ thể một cách xa xôi là làm sao?

–     Tỳ vết nơi tâm thần bắt nguồn ở những nơi khác hơn là cơ thể nhưng đôi khi cũng ở cơ thể, mà nếu như vậy, phải qua nhiều thế hệ người một cơ thể bịnh hoạn mới ảnh hưởng đến tâm thần. Thí dụ đời ông cố mắc một chứng bịnh nguy hiểm…

–     Bịnh gi?

–     Tốt hơn là em đừng hỏi. Người ông cố ấy chết vì bịnh đó, nhưng con cháu ông không chết, nhưng cơ thể họ không trong trắng nữa. Nhược điểm của cơ thể của họ ảnh hưởng đến tâm thần họ.

–     Chấn động tâm thần! Chấn động tâm thần!

Liễu nói khe khẽ cho một mình nàng nghe thôi, gần như là lẩm bẩm. Có lẽ nàng đang thắc mắc tự hỏi không biết bà nội lớn của nàng và Bích đã bị chấn động tâm thần vào dịp nào.

Lưu cũng đang tự hỏi thầm như vậy, nhưng chỉ hỏi về chấn động nơi bà cụ mà thôi. Chớ còn Bích thì chàng đã biết quá rõ rồi.

Không, thế hệ thứ ba khó lòng mà biết được bí mật trong gia đình của thế hệ thứ nhứt, nếu không nhờ một sự tình cờ nào. Chắc Liễu không biết gì hết đâu.

Nhưng bí mật ấy hẳn phải xảy ra trong ngôi nhà nầy. Nhà nầy cũ lắm, chắc cũng cao niên bằng một người năm mươi, thì cả thời thanh xuân của một ông cụ bảy mươi mốt, hiện đang lẫn lụ, rất có thể trải qua ở đây.

Bây giờ Lưu mới đưa mắt nhìn bên trong của nhà nầy. Ngôi biệt thự giả vờ làm châlet nầy không to lắm.

Dưới nhà chỉ có một buồng còn bao nhiêu diện tích còn lại dùng làm phòng tiếp khách và phòng ăn.

Lưu đoán rằng dưới căn buồng hẹp ở bên trong cùng chỉ mới xây về sau nầy thôi, khi ông cụ, bà cụ đã yếu chơn, ngại leo thang lầu, còn cha mẹ của Liễu với lại nàng thì ở trên gác.

Cái cửa buồng mà sau đó chị người nhà lấp ló khi nãy, thật ra là cửa sau, trổ ra một hành lang tối, mới trông cứ ngỡ đó là một cái buồng.

–          Anh đang nghĩ gì?

Thấy khách thình lình làm thinh Liễu không thắc mắc lắm, vì nàng tưởng hắn không tìm được đầu đề câu chuyện. Nàng cũng bí như thế và hỏi bậy như vậy, mong rồi câu chuyện sẽ tới.

–     À, không, anh không có nghĩ về gì hết. Anh làm quen với gian phòng nầy.

–     Chắc anh chưa làm quen với cái sân?

–     Chưa.

–     Ngày mốt là chúa nhựt, anh tới chơi ban ngày, ta chỉ ở ngoài sân thôi, và anh sẽ biết sân.

–     Hay lắm. Anh rất muốn tới đây ban ngày lắm.

–     Ðáng lý thì sáng mốt nầy em đi vẽ trên Thủ Ðức, nhưng em thích ở tiếp anh hơn.

–     Cám ơn lòng tốt của em. Nhưng bỏ vẽ có hại lắm cho sự học của em hay không?

–     Có gì đâu. Đó là bài tập ấy mà. Nhưng sao lại lòng tốt? Em tiếp anh đâu có phải do lòng tốt. Tại em thích tiếp anh đó chớ.

Lưu đứng dậy để xin phép về mặc đầu chàng còn muốn ở lại lâu hơn nữa, nhứt là sau câu nói cuối cùng trên đây của Liễu.

Chàng biết phép lịch sự và thấy rằng không nên kéo dài lâu hơn, buổi sơ giao tốt đẹp nầy, nó có thể hết tốt đẹp khi chủ nhà bực mình.

Chàng lại là một anh con trai rất trầm tĩnh trong chuyện yêu đương, thấy rằng cần xem lại khúc phim nầy ở nhà, cần lắng nghe lại lòng mình hơn là sống trực tiếp với đương sự thứ nhì là Liễu.

Liễu cũng không cầm cọng chàng ở lại, vì nàng chưa biết giả dối xã giao.

Nàng tiễn bạn ra tận lề cỏ, vịn ghi-đông[9] của chếc xì-cút-tơ rồi nói:

–     Anh về ngã Hàng Thị hay Hàng Sanh?

–     Hàng Thị, vì anh ở đường Hiền Vương.

–     Lối nào?

–     Lối ngã ba Duy Tân.

–     Té ra cũng gần đây.

–     Cái đó còn tùy. Nếu đi bộ thì không xa lắm. Em được phép đi ra ngoài với bạn trai hay không?

–     Em chưa xin phép ấy lần nào, nhưng chắc được, mà có lẽ khỏi phải xin nữa. Ba má em khoáng đạt lắm.

–     Như vậy hôm nào ta đi Biên Hòa bằng xe nầy.

–     Hay lắm. Em ngồi xe hơi, nhứt là phải ngồi mãi ở băng sau, em thấy em là bà cụ quá. Em định học lái xe để tự lái lấy, cho bác tài nghỉ việc, nhưng chưa kịp học.

Ngồi xe hơi, em thấy các chị khác ngồi sau xì-cút-tơ, em thèm ghê đi.

Liễu rất thành thật và thẳng thắn mà nói lên sở thích ao ước của một người con gái. Kinh nghiệm, thông minh và khôn ngoan, Lưu không phồng mũi lên khi nghe những lời ấy vì chàng biết rằng nàng thích được đèo theo sau xì-cút-tơ là do tinh thần thể thao, vì tâm trạng của tuổi trẻ thôi chớ không phải vì mê chàng.

Chàng cũng không thất vọng, không thấy đó là lối tán tỉnh ngược đời của con gái lẳng quyết chim con trai như ở nhiều trường hợp khác. Không, Liễu chỉ ngây thơ, thẳng thắn mà tỏ mơ ước của nàng với một người bạn thôi.

–     Thôi, anh về em nhé, và xin hẹn sáng chúa nhựt.

Chàng vừa đẩy xe xuống khỏi lề cỏ vừa nói như vậy.

–          Rất mong anh.

Khi Lưu quày xe để ngược đại lộ Bạch Đằng thì chàng nghe Liễu nói sau lưng chàng:

–          Ưng ai trái thị rớt bị bà già!

Chàng bật cười rồi cả hai cười xòa với nhau. Trận cười nầy sao mà làm cho họ thân với nhau hơn trước nhiều quá. Lưu nghe thương cô em gái tinh nghịch nầy.

Ðó là một lời cầu nguyện trong câu chuyện cổ tích kia mà chàng thì sắp đi trên đường Hàng Thị. Hàng Thị ngày nay bị đốn chỉ còn lưa thưa có mấy cây thôi nhưng lời nguyện xưa không bao giờ chết trong bia miệng của dân tộc.

Sợ cái giây phút đẹp mong manh nầy tan vỡ như một chiếc bong bóng xà bông, Lưu vội lên xe và hô lớn:

– Chúa nhựt em nhé.

– Vâng, tám giờ sáng. Anh ăn điểm tâm với em.

[2] camisole: áo chẽn, bó thân người

[3] tussor-shantung : một loại hàng dệt ròng bằng tơ tằm từ Sơn Đông

[4] camisole de force: áo bó không cho cựa quậy, dùng áp chế người điên

[5] ta-lông = talon: gót giày; nguyên / y ta-lông : gót giày cao đúng mức cao nhứt; đờ-mi ta-lông = demi-talon : gót cao lưng chừng, bằng nửa gót nguyên ta-lông

[6] trộm cướp như rươi : Con rươi là một loại trùng ở dưới nước giống như con ruốc, bắt về để làm mắm. Vì chúng nhiều vô số nên người ta hớt bằng vợt, đổ đầy cả xuồng hay phải dùng thùng lớn để chứa.

[7] sa-lông = salon : bộ ghế để trong phòng khách

[8] bờ-lu-din = blue jeans: quần cao-bồi, quần din, quần bò màu xanh

[9] ghi-đông = guidon: tay lái xe hai bánh

[10] goách = gouache, một loại màu vẽ tranh

[11] nốt = note: dấu nhạc

Comments are closed.