Mấy mẩu chuyện về Phùng Quán (kỳ 1)

 Thái
Kế Toại

Phùng
Quán sinh tháng 1 năm 1932, quê tại xã Thủy Dương, huyện Hương Thủy nay là phường
Thủy Dương, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế. Cha ông là Phùng Văn Nguyện
(còn có tên là Phùng Quý Đông) là con trai cả của nhà nho Phùng Kiểm (mất 1957)
và bà Lê Thị Me. Ông còn có hai người chú ruột là Phùng Lưu (tức Nguyễn Vạn, Tư
Bốn, sinh 1916, nguyên Bí thư Tỉnh ủy Thừa Thiên Huế) và Phùng Thị, Chánh văn
phòng Bộ Văn hóa.

Tháng
1 năm 1946, ông tham gia Vệ quốc quân, là chiến sĩ trinh sát Trung đoàn 101
(tiền thân là Trung đoàn Trần Cao Vân). Sau đó ông tham gia Thiếu sinh quân Liên
khu IV, đoàn Văn công Liên khu IV, tham gia Đoàn phóng viên quân đội về Sầm
Sơn, Thanh Hóa để thông tin về sự kiện trao trả tù binh. Khi phải trở về Sư
đoàn 325 ở Hà Tĩnh, Phùng Quán nảy ra ý định ra Hà Nội để xem xét Thủ đô rồi mới
quay về đơn vị. Ông đi bộ ra Phủ Lý rồi bắt xe khách ra Hà Nội. Rất may ông gặp
được Hoàng Cầm cùng đoàn ca múa quân đội đang biểu diễn ở Ga Hàng Cỏ. Hoàng Cầm
đã có gặp Phùng Quán trong Hội diễn văn công quân đội ở Việt Bắc, vì bận đưa
đoàn đi Nam Định 
nên gửi nhờ Phùng Quán sang Tập san Sinh hoạt Văn nghệ. Tại đây nhà văn Vũ Tú Nam và Từ
Bích Hoàng đã thử giao cho Phùng Quán viết bài về Sầm Sơn. Từ những trang bản
thảo đầu tiên các ông đã giúp Phùng Quán hoàn thành bài thơ dài
Tiếng hát trên địa ngục Côn Đảo và tiểu
thuyết
Vượt Côn Đảo.

Rất
ngẫu nhiên, Phùng Quán đã trở thành thành viên của Tập san sinh hoạt Văn nghệ
thuộc Tổng cục Chính trị Quân đội Nhân dân Việt Nam. Tác phẩm đầu tay Vượt Côn Đảo của ông được giải thưởng của
Hội Nhà văn Việt Nam năm 1955.

Không
lâu sau đó, Phùng Quán tham gia phong trào Nhân Văn – Giai Phẩm bằnghai bài thơ
Chống tham ô lãng phí (Giai Phẩm mùa
Thu tập II, 1956) và Lời mẹ dặn (Báo
Văn số 21 tháng 9-1957).

Nhiều
người đặt câu hỏi tại sao từ một người lính nhiệt huyết, trong sáng ông tham
gia vào nhóm Nhân Văn Giai Phẩm một cách nhiệt thành? Tuy vậy rất ít người tìm
cách cắt nghĩa nguyên nhân này, chỉ nói là do âm mưu lôi kéo của những người
như Thụy An. Tôi cho rằng một trong những ngọn lửa bùng phát đầu tiên của Nhân
Văn Giai Phẩm xuất phát từ phòng Văn nghệ quân đội thì đó chính là nguyên nhân
làm cho Phùng Quán phản tỉnh. Một trong những tư liệu ít ỏi cho biết một phần sự
thật đó là Nhật ký của ông Vũ Tú Nam về thời gian này đã được công bố với tựa đề
Những ngày thử thách. Tại Phòng Văn
nghệ quân đội cùng với các Đoàn Văn công có nhiều văn nghệ sỹ và cán bộ có
trình độ văn hóa cao từ trước 1945. Chuyển sang thời kỳ mới ở Hà Nội sau 1954 một
số người đã bất bình về chế độ quân quản, về sự chuyển biến chậm chạp của cơ chế
quản lý văn hóa văn nghệ trong quân đội. Sự kiện tổ chức phê bình thơ Tố Hữu tạo
ra sự phân hóa quan điểm, sự chia rẽ giữa văn nghệ sỹ trong và ngoài quân đội.
Sự kiện Bản kiến nghị đòi thay đổi chính sách văn hóa văn nghệ trong quân đội của
nhóm Trần Dần, Đỗ Nhuận, Tử Phác, Hoàng Cầm, Trúc Lâm, Hoàng Tích Linh. Việc bắt
giam Trần Dần, Tử Phác, dẫn đến việc Trần Dần cứa cổ tự tử. Mâu thuẫn nội bộ
trong Phòng Văn nghệ quân đội căng thẳng, khai trừ đảng Trần Dần, Tử Phác. Một
số người bị kỷ luật, xin ra khỏi quân đội và trở thành những yếu nhân của Phong
trào Nhân Văn Giai Phẩm. Phùng Quán với tư cách cán bộ cấp thấp, văn hóa thấp,
cũng bị chèn ép, xoi mói. Quán lại thi trượt đại học Văn khoa. Ông Hà Nhật một
người thân với Phùng Quán từ dạo ấy nói rằng với một người khát khao học vấn
như Quán việc không vào được đại học là một thất vọng. Bởi vì đại học là con đường
sẽ làm cho tương lai lâu dài với người lính trơn như Quán tốt hơn. Vũ Tú Nam có
viết rằng Quán đã sớm có ý định xin ra khỏi quân đội. Cộng với sự tác động của
hiện thực xã hội miền Bắc lúc đó như ông đã chứng kiến trong bài Chống tham ô lãng phí làm cho khát vọng
tự do dân chủ đã có sẵn trong ông tràn ra và việc ông hưởng ứng phong trào đòi
tự do dân chủ là dễ hiểu.

Cuối
1957 Phùng Quán ra khỏi quân đội, sau đó bị kỷ luật treo bút và phải đi lao động
thực tế ở nhiều nơi như Thái Bình, Thanh Hóa, Hà Nam, Việt Trì… Trong suốt thời
gian này Phùng Quán không có việc làm, lĩnh trợ cấp ở Hội Văn nghệ 27 đồng một
tháng.

Mãi
đến cuối năm 1964 Phùng Quán mới được nhận vào làm việc tại Vụ Văn hóa quần
chúng Bộ Văn hóa. Năm 1985 ông về hưu. Tôi nhớ năm 1988 kê khai nâng lương cho
các ông, lương Phùng Quán chỉ có 56 đồng. Khi chỉnh lương hưu thì mức lương của
Phùng Quán cũng thấp nhất. Phùng Quán gặp may hơn một số ông vì thời gian đó có
ông chú Phùng Thị làm Chánh văn phòng Bộ Văn hóa nên được tuyển dụng vào Cục
Văn hóa quần chúng.

Phùng
Quán không bị khai trừ khỏi Hội Nhà văn, chỉ bị treo bút. Còn khai trừ có thời
hạn 3 năm chỉ có Trần Dần và Lê Đạt. Nhưng do việc đánh Nhân Văn Giai Phẩm dữ dội
quá nên các ông đành bỏ hết việc sinh hoạt hội, đồng thời cơ quan hội cũng quên
luôn việc cho các ông sinh hoạt trở lại bình thường. Cho đến đổi mới hồ sơ về
Nhân Văn Giai Phẩm của các hội cũng mất hết. Tôi phải sao lại cho họ văn bản
nghị quyết kỷ luật chung đang nằm trong hồ sơ công an.

Năm
1988, cuốn tiểu thuyết Tuổi thơ dữ dội
của Phùng Quán được xuất bản ở Huế và nhận Giải thưởng Văn học Thiếu nhi của Hội
Nhà văn Việt Nam hai năm sau đó.

Cuối
đời Phùng Quán bị bệnh xơ gan cổ trướng. Ông mất ngày 22 tháng 1 năm 1995 tại Hà
Nội. Năm 2010, sau khi vợ ông mất, thể theo nguyện vọng của ông lúc sinh thời,
gia đình và bạn bè đã đưa hài cốt ông bà về an táng tại quê nhà: phường Thủy
Dương, thị xã Hương Thủy, tỉnh Thừa Thiên Huế.

Năm
2007, Phùng Quán được nhà nước Việt Nam truy tặng Giải thưởng Nhà nước về văn học
nghệ thuật, do Chủ tịch nước ký quyết định tặng riêng cùng với Trần Dần, Lê Đạt,
Hoàng Cầm.

Các
tác phẩm chính của ông:

Vượt
Côn Đảo
, Tiểu thuyết, 1955, Giải thưởng Nhà nước về Văn học
nghệ thuật, 2007

Tôi
muốn mời đến Tổ quốc tôi
. Thơ, 1955. Nhà xuất bản Quân đội
Nhân dân, 1955; Báo Phụ nữ Liên Xô dịch và in, 1957

Tiếng
hát trên địa ngục Côn Đảo
, Thơ, 1955 – Giải thưởng Nhà nước về
Văn học nghệ thuật, 2007

Như
con cò vàng trong cổ tích
. Tập truyện thiếu nhi, Giải nhất cuộc
thi sáng tác văn học nghệ thuật kỷ niệm 100 năm ngày sinh Lenin do hãng Thông tấn
Nôvôxti (Liên Xô) tổ chức năm 1970; Sở Văn hóa Thông tin Bình Trị Thiên xuất bản,
1987

Vĩnh
Linh
,
lịch sử văn hóa. Nhà xuất bản Văn hóa, năm 1982.

Dũng
sĩ chép còm
. Truyện thiếu nhi; Nhà xuất bản Trẻ,
Thành phố Hồ Chí Minh, 1987, in với bút danh Trần Vỹ Dạ (do nhà thơ Thanh Tịnh
chuyển). Khi Phùng Quán được phục hồi hội tịch mới đổi lại tên Phùng Quán, tái
bản tại Nhà xuất bản Kim Đồng.

Tuổi
thơ dữ dội
, Tiểu thuyết, Nhà xuất bản Thuận Hóa, Huế, 1987 – Giải
A văn học thiếu nhi của Hội Nhà văn Việt Nam, 1988. Năm 1990 được đạo diễn Nguyễn
Vinh Sơn dựng thành phim, Giải thưởng Bộ Quốc phòng 2000, Giải thưởng Nhà nước về
Văn học nghệ thuật năm 2007

Thơ
Phùng Quán
, Nhà xuất bản Hội Nhà văn, Hà Nội, 1995

Trăng
hoàng cung
, Tiểu thuyết thơ, Nhà xuất bản Thanh Văn, USA 1993.
Năm 2007, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh tái bản.

Phùng
Quán
,
Thơ, Nhà xuất bản Văn học, Hà Nội, 2003

Ba
phút sự thật
, Ký, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ
Chí Minh, 2006, tái bản bổ sung 2009

Tôi
đã trở thành nhà văn như thế nào?
Hồi ký, Nhà xuất bản Văn
Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2007.

Phùng
Quán còn đây
, Di cảo của Phùng Quán và Hồi ức của bạn
bè, Nhà xuất bản Văn Nghệ thành phố Hồ Chí Minh, 2007.

Chuyện đi bộ đội

Phùng
Quán có hai người chú ruột.

 Ông chú ruột thứ nhất tên là Nguyễn Vạn, tức
Phùng Lưu, một lão thành cách mạng, nguyên ủy viên Khu ủy, Bí thư tỉnh ủy tỉnh
Thừa Thiên Huế.

Người
thứ hai là Phùng Thị từng là Chánh văn phòng Hội Văn nghệ rồi làm Chánh văn
phòng Bộ Văn hóa.

Ông
về hưu gần hai chục năm nay ở đường Hai Bà Trưng, thành phố Huế, vừa mất đầu năm
2005. Trước đây, ông Vạn nhiều năm kiên quyết không tha lỗi cho đứa cháu “Nhân
văn” của mình. Nhưng từ khi Phùng Quán được phục hồi Hội viên Nhà văn, sách được
in bán khắp nơi, truyện được dựng thành phim, thì ông bắt đầu thay đổi thái độ.
Trên bàn thờ nhà ông, có thờ hai bức ảnh. Một bức là ông nội ở chính giữa, và
bên cạnh là ảnh Phùng Quán, phía duới có lời đề: “Nhà văn Phùng Quán, cháu đích
tôn của ông”.

Năm
2000, ông Nguyễn Vạn xuất bản tập hồi ký Đời
người cách mạng
, trong đó có đoạn kể về bố Phùng Quán: “Anh cả tôi tên là
Phùng Văn Nguyện, học lớp đệ tam niên nội trú Trường Quốc Học, hăng hái tham
gia các phong trào truy điệu cụ Phan Chu Trinh, đòi thả cụ Phan Bội Châu, tham
gia các cuộc bãi khóa, xuống đường biểu tình chống Pháp năm 1926. Bị bắt giam,
bị kết án 2 năm tù treo, và bị bồi thường 3 năm tiền học phí là 360 đồng bạc
Đông Dương…

Anh
tôi bị quản thúc ở xã nhưng trốn vào Sài Gòn, đổi tên là Phùng Quý Đông thi đỗ
vào ngạch công chức của Pháp, được bổ nhiệm làm Thông phán sở kho bạc Sài Gòn.
Sau mấy năm làm công chức Pháp, anh tôi tưởng là hết hạn tù treo rồi thì không
còn gì rắc rối nên xin chuyển về Huế để lập gia đình, không ngờ bị tên cường
hào Lý Hòe tố giác. Anh tôi xin chuyển vào Hội An để tránh né nhưng vẫn bị mật thám
theo dõi, phải đi trốn. Định chạy sang Lào nhưng đến Đà Nẵng thì bị bắt và bị
giam ở nhà lao Đà Nẵng. Sau hai tháng bị tra tấn thì chết trong lao tù.

Năm
1932, khi anh tôi chết, đứa con trai duy nhất của anh chưa biết đi, mới biết bò,
nó chính là nhà văn Phùng Quán…”. Mẹ nhà văn Phùng Quán ở vậy nuôi con cho đến
khi con 14 tuổi trốn đi theo Vệ Quốc Đoàn. Bà ở một mình thờ chồng, chờ con
trai. Bà mất ngày 2 tháng Giêng âm lịch, vào dịp Tết năm 1970 ở cố đô Huế. Lúc
đó, Phùng Quán đã có vợ, hai con ở Hà Nội.

 Mượn
tên để in văn

Từ
năm 1958 đến 1988, vì không được phép in sách ký tên mình, Phùng Quán hầu như không
có một tác phẩm nào được xuất bản bằng tên thật, ông phải tìm cách xuất bản một
số tác phẩm của mình dưới bút danh khác và câu cá ở Hồ Tây để kiếm sống. Vì thế,
bạn bè văn nghệ thường gói gọn cuộc đời ông thời kỳ này bằng sáu chữ: cá trộm, rượu
chịu, văn chui.

Muốn
in được sách ở nhà xuất bản của nhà nước phải bí mật mượn tên người khác làm
tên tác giả. Một trong những người nhà văn đã mượn tên là Vũ Quang Khải, em ruột
của Vũ Bội Trâm, lúc đó anh Khải đang làm công nhân ở Nghệ An, trong truyện Như
con cò vàng trong cổ tích
, và nhiều truyện ngắn in báo Văn Nghệ. Nhà văn
Phùng Quán kể rằng, khi truyện Như con cò vàng trong cổ tích ký tên Vũ
Quang Khải gửi đi dự thi cuộc vận động sáng tác viết về Lênin được Hãng thông tấn
Novosti (Liên Xô) trao giải thưởng trong cuộc dự thi viết về Lênin, anh Khải nhận
được giấy mời của Đại sứ quán Liên Xô ở Hà Nội để lĩnh giải thưởng thì sợ lắm.
Nhưng cơ quan vẫn sắm cho một bộ com-lê rất oách để ra nhận giải. Hai anh em xe
đạp đèo nhau đến cổng Đại sứ quán Liên Xô, anh Khải vào nhận giải, còn Phùng
Quán thì sang ngồi quán nước chè bên kia đường hồi hộp chờ đợi. Lo sợ nhất là bị
phát hiện ra người viết là Phùng Quán không cho nhận giải thưởng nữa thì gay.
Khi anh Khải ra cổng, nhìn vẻ mặt buồn, Phùng Quán càng lo thêm. May sao, anh
Khải cho biết là cô thủ kho đi vắng, họ hẹn ngày mai. Ngày hôm sau, hai anh em
lại dắt nhau đến. Lần này thì nhận được. Giải thưởng là một tấm bằng, một chiếc
xe đạp Liên Xô mà người Hà Nội quen gọi là “xe trâu” và một bộ com-lê.

 Hai anh em về nhà câu trộm cá Hồ Tây nấu cháo
để khao nhau. Phùng Quán còn nhiều lần viết truyện ngắn ký tên Vũ Quang Khải, rồi
Nguyễn Huy, Đào Phương, v.v. Người cho Phùng Quán mượn tên nhiều nhất là nhà
thơ Thanh Tịnh, bạn vong niên, đồng hương Huế ở tạp chí Văn nghệ Quân đội. Hơn
10 tập truyện tranh ở Nhà xuất bản Văn hóa, tập viết về nghệ thuật viết và
trình diễn tấu đều ký tên Thanh Tịnh.


Hương Quân, biên tập viên Nhà xuất bản Văn hóa đã nghỉ hưu, một người bạn gái rất
quan trọng, rất thân thiết với Phùng Quán trong nhiều năm đã làm bà đỡ cho những
cuốn sách phải giấu tên của ông.

Hương
Quân kể rằng, có lần giám đốc nhà xuất bản đã gửi giấy mời nhà thơ Thanh Tịnh ở
số 4 Lý Nam Đế, “một cộng tác viên” viết truyện tranh “tích cực” đến để ký hợp
đồng mới. Nhà thơ Thanh Tịnh cao tuổi, mệt nhọc thế cũng phải đi xích lô đến để
ký hợp đồng, “nhằm giúp thằng Phùng Quán có cái tên mà in sách”. Anh Phùng Quán
kể, nhà thơ Thanh Tịnh là người duy nhất cho mượn tên mà không lấy một đồng “tiền
tên” nào. Mỗi lần như thế, Phùng Quán đều câu trộm một con cá chép Hồ Tây, mang
đến số 4 Lý Nam Đế, nấu cháo mời nhà văn Thanh Tịnh cùng ăn! Còn thường phải
chi 30%, thậm chí 50%, mà đi lại khốn khổ nhiều lần mới đòi được phần của mình,
vì tiền nhuận bút các nhà xuất bản đều trả cho người có chứng minh thư. Theo chị
Hương Quân, ngoài sách ký tên Thanh Tịnh, Phùng Quán đã viết và in ở Nhà xuất bản
Văn hóa và Nhà xuất bản Văn hóa dân tộc trên 60 cuốn truyện tranh mang nhiều
tên khác nhau, nhưng không phải mượn, tức là tên do anh nghĩ ra. Tiểu thuyết Tuổi
thơ dữ dội
(tập I) năm 1983, Nhà xuất bản Thuận Hóa đã in với tên tác giả
là Đào Phương. Mãi đến năm 1988, sau khi được phục hội Hội tịch Hội Nhà văn, mới
xuất bản ba tập với tên Phùng Quán.

Cuốn
Dũng sĩ chép còm, in ở Nhà xuất bản Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh, lúc đầu
cũng lấy tên tác giả là Trần Vỹ Dạ. Điều đáng khâm phục là Phùng Quán chỉ mượn
tên để “in chui” văn xuôi, chứ thơ thì anh không bao giờ mượn tên ai cả! Vì với
anh, “

những giây phút ngã lòng
/ Tôi vịn câu thơ mà đứng dậy”,
Thơ là mạng sống, là lý lịch đời tôi”. Thơ linh thiêng như thế nên anh
không mượn tên người khác là phải!

Từ
năm 1988, sau khi được phục hồi Hội tịch Hội Nhà văn, Phùng Quán mới xuất hiện
trở lại với thơ. Thời kỳ này, ông còn in nhiều tác phẩm nổi tiếng ký tên mình, là
Tuổi thơ dữ dội, Dũng sĩ chép còm, Thơ Phùng Quán, tập tiểu
thuyết thơ Trăng hoàng cung, v.v. Trong đó, tiểu thuyết ba tập Tuổi
thơ dữ dội
đã được giải thưởng Hội Nhà văn Việt Nam, được dựng thành phim
cùng tên, và phim này ngay lập tức giành Huy chương bạc tại Liên hoan điện ảnh
Việt Nam. Cuốn sách cũng được các nhà xuất bản trong nước tái bản nhiều lần. Cuối
năm 2003, bà Vũ Bội Trâm, vợ nhà văn, đã dùng số tiền mấy lần tái bản cuốn Tuổi
thơ dữ dội của để đầu tư tái bản cuốn Thơ Phùng Quán, trong đó bổ sung rất
đầy đủ thơ của chồng với số lượng in 2000 cuốn. Bạn bè trong Nam, ngoài Bắc, ở
miền Trung, do yêu thương Phùng Quán mà xúm tay mỗi người phát hành một ít.

Tính
ra Phùng Quán đã in hơn 80 tác phẩm, trong đó gần 70 tác phẩm “in chui”! 

Tuân Nguyễn

Ông
là một trong những người bạn cực khổ của Phùng Quán từ thưở thiếu thời. Tuân
Nguyễn sinh ngày 25 tháng 9 năm 1933, quê quán tại làng Lại Thế, xã Phú Thượng,
huyện Phú Vang, tỉnh Thừa Thiên Huế tên thật là Nguyễn Tuân. Thuở nhỏ, có thời
gian theo cha làm nghề buôn gỗ ra sống ở Quảng Trị, Quảng Bình. Thời niên thiếu,
ông theo học trường dòng Pellerin ở Huế, tốt nghiệp Tú tài 2, thông thạo tiếng
Pháp, tiếng Anh, lại biết cả chữ Hán.

Năm
1949, ông thoát ly gia đình tham gia Đoàn học sinh kháng chiến Huế khi mới 16
tuổi. Năm 1950, ông vào chiến khu tham gia Vệ quốc đoàn, sau đó tham gia chiến
trường Lào.

Sau
năm 1954, ông xuất ngũ, theo học khoa Văn khoá I, Đại học Sư phạm Văn khoa Hà Nội.

Năm
1957, ông tốt nghiệp ra trường làm giáo viên ở Trường học sinh miền Nam tại Hà
Đông.

Thấy
tên mình trùng với nhà văn Nguyễn Tuân, tác giả của Vang bóng một thời, nên
ông đã đặt bút danh thành Tuân Nguyễn.

Năm
1960, ông chuyển về làm Biên tập viên chương tình Tiếng Thơ của Đài Tiếng nói
Việt Nam.


một trí thức thuộc thành phần tiểu tư sản, ông thường xuyên gặp rắc rối với những
đồng nghiệp cực đoan. Ngày 21 tháng 10 năm 1964, ông bị bắt tại cơ quan với lý
do có ý tưởng đi ngược với đường lối chính sách. Nguyên do được xác địnhlà ông
đã có thái độ đồng tình với Dương Bạch Mai, một chính khách có liên quan trong Vụ
án Xét lại Chống Đảng, cùng những ghi chép cá nhân trong nhật ký bị suy diễn là
nói xấu chế độ, tư tưởng lệch lạc. Do có mối quan hệ thân thiết với giới văn
nghệ, nên việc ông bị bắt vì cuốn nhật ký của mình cất trong ngăn kéo do một đồng
nghiệp cùng phòng lấy trộm nộp cho tổ chức, đã làm rung động giới trí thức Hà Nội
bấy giờ.

Ông
bị đưa đi trại cải tạo 9 năm 7 tháng. Năm 1973, ra trại đi làm nghề đánh véc ni
và dọn vệ sinh ở ga Hàng Cỏ để kiếm sống. Sau năm 1975, ông được xác nhận một
lý lịch khác ghi thời gian đi trại là đi chữa bệnh.

Cuối
năm 1974, ông lập gia đình với nhà thơ Phương Thúy, giáo viên dạy đàn tam thập
lục ở Nhạc viện Hà Nội – con gái ông Hoài Chân (là đồng tác giả Thi nhân Việt
Nam
với Hoài Thanh). Bà Phương Thúy đã từng lấy GSTS Đào Vọng Đức là Viện
phó Viện Khoa học Việt Nam. Đầu năm 1976, gia đình ông chuyển vào Sài Gòn sinh sống.
Tuân Nguyễn đi dạy học, dịch sách và đi lấy báo cho vợ bán.

Ngày
25 tháng 4 năm 198, trên đường đi lấy báo về, ông gặp tai nạn giao thông, đưa
đi cấp cứu tại Bệnh viện Chợ Rẫy nhưng không qua khỏi. Trước khi mất, Tuân Nguyễn
có một lời trăng trối rất nhân đạo: “Đừng bắt tội người tài xế, ông ấy còn phải
nuôi 8 đứa con… Lỗi tại tôi…”.

Tuân
Nguyễn qua đời ngày 9 tháng 5 năm 1983 (ngày 27 tháng 3 năm Quý Hợi), an táng tại
Nghĩa trang Gò Dưa, quận Thủ Đức, thành phố Hồ Chí Minh. Trong thời gian chung
sống với nhà thơ Phương Thúy, ông bà không có người con nào.

Tuân
Nguyễn xuất thân trong một gia đình làm nghề buôn bán gỗ. Trong mấy trang hồi
ký của anh trước khi bị bắt, tuổi thơ của anh gắn liền với con sông Ba Lòng nơi
con thuyền của bố anh xuôi ngược đi về. Phùng Quán ở cùng tiểu đội do Tuân Nguyễn
làm tiểu đội trưởng.

Dạo
đó vào khoảng năm 1993, đơn vị có một đợt thanh lý hồ sơ nghiệp vụ. Mục tiêu là
thải loại những hồ sơ đã hết tác dụng và không quan trọng, không cần thiết sử dụng
nữa; gửi những hồ sơ còn giá trị lâu dài nhưng không sử dụng thường trực về Cục
Hồ sơ của Bộ. Một lần đi kiểm tra các bộ phận, dừng lại đống hồ sơ tạp chuẩn bị
mang đi tiêu hủy, tôi phát hiện ra tập hồ sơ có tên Tuân Nguyễn.

Vụ
án Tuân Nguyễn là một vụ án rất ấn tượng với giới văn nghệ sỹ cuối năm 1964. Những
chuyện cụ thể anh Phùng Quán, Trần Nguyên Vấn, Xuân Đài đã viết, tôi không nói
lại. Tôi cũng không chứng kiến, không được gặp mặt anh Tuân Nguyễn. Chỉ nghe
anh Phùng Quán nhiều lần kể lại. Khi tôi về công tác tại đơn vị an ninh văn hóa
của Bộ thì những người tham gia vụ đó đã nghỉ hoặc chuyển đi nơi khác.

Tôi
có nghĩ rằng đấy là một câu chuyện không hay, không ai muốn khơi lại. Vì thế khi
anh Tuân Nguyễn đã ra tù và đã mất mười năm rồi thì việc thanh lý hồ sơ của anh
là hợp lý. Chỉ có điều là anh em cán bộ của tôi suy nghĩ đơn giản, quyết định theo
lý lẽ của nghiệp vụ.

Tôi
cầm tập hồ sơ lên và mang về bàn làm việc xem lại, vô cùng ngạc nhiên về những
tư liệu của nó. Đó là một tập bản thảo những bài thơ của Tuân Nguyễn, quyển vở
mỏng ghi dở tự truyện gia đình, mấy việc ở tổ thơ Đài Tiếng nói Việt Nam, mấy tấm
ảnh chân dung, tờ giấy xám làm từ bột tre quyết định phụ cấp tiểu đội trưởng của
Tuân Nguyễn do ông Đàm Quang Trung thời đó là chỉ huy chiến trường Bình Trị
Thiên ký. Tôi hiểu tập hồ sơ này là ngàn vàng đối với người thân của Tuân Nguyễn.
Nó chất chứa cả một số phận, cả cuộc đời anh. Tôi biết tình bạn giữa Phùng Quán
và Tuân Nguyễn là một tình bạn đặc biệt. Sau khi Tuân Nguyễn mất, Phùng Quán đã
lập bàn thờ bạn tại nhà mình, một cái bàn thờ đơn giản treo lên bức vách. Tôi
liền mang tư liệu của Tuân Nguyễn lên giao lại cho Phùng Quán để chuyển lại cho
chị Phương Thúy. Tôi có bảo anh Phùng Quán sắp xếp với Nhà xuất bản Văn học in
cho Tuân Nguyễn tập thơ. Tôi cũng nói với anh Lữ Huy Nguyên Giám đốc giúp cho
việc này. Anh Phùng Quán có đến Nhà xuất bản Văn học làm việc với anh Lữ Huy
Nguyên, anh Nguyên nói làm ngay thì chưa được, phải chờ. Nhưng ngay sau đó anh
Phùng Quán ốm nặng rồi mất, chị Phương Thúy thì lưu lạc nên tôi cũng quên chuyện
này đi.

Mãi
mấy năm sau gặp anh Trần Nguyên Vấn ở Hội thơ Văn Miếu tôi nói lại chuyện tập hồ
sơ của anh Tuân Nguyễn cho anh Vấn nghe. Anh Vấn mừng quá đã gặp ngay chị Vũ Bội
Trâm nhưng với đống bản thảo tư liệu của anh Phùng Quán cả hai người đành bất lực.
Mãi đến khi cháu Phùng Đỗ Quyên từ Lào về mới tìm được nó. Nhưng tiếc rằng có
vài thứ bị thất lạc.

Với
rất nhiều cố gắng và với sự giúp đỡ của những người bạn cùng lớp của Tuân Nguyễn,
Trần Nguyên Vấn đã in được cuốn Tuân Nguyễn. Có một lý do rất quan trọng
đối với cuộc đời Trần Nguyên Vấn. Sau khi Tuân Nguyễn bị bắt có lời đồn thổi rằng
Trần Nguyên Vấn đã tố cáo bạn mình, lấy trộm nhật ký của Tuân Nguyễn nộp cho công
an. Cái tin này làm cho anh Vấn bức xúc vì oan ức nhiều năm. Mãi sau mới lại có
tin người phản bội Tuân Nguyễn chính là Phan Trác Hiệu chứ không phải Trần
Nguyên Vấn.

Tuy
vậy điều đáng mừng là những bài thơ yêu cuộc sống, yêu nước của Tuân Nguyễn đã
chính thức đến với những người biết anh, yêu mến anh. Họ yên tâm với sự trả lại
danh dự, nhân phẩm cho anh.

Người cậu bị tiếng oan

Xung
quanh quan hệ của Phùng Quán với nhà thơ Tố Hữu có nhiều lời đồn thổi khác
nhau. Nhiều lời chê trách Tố Hữu bỏ mặc đứa cháu của mình. Cũng có người bảo
hai người không có quan hệ gì. Thực ra Phùng Quán cũng chưa nói rõ với ai về chuyện
này. Tôi biết được là bà ngoại Phùng Quán là người làm công cho bố Tố Hữu, có
con với ông là mẹ Phùng Quán. Do hơn tuổi nhưng mẹ Phùng Quán vẫn là em Tố Hữu,
chịu thân phận con rơi con vãi. Tuy vậy họ bố Phùng Quán có nhiều người hoạt động
cách mạng. Bố Phùng Quán hoạt động bị Pháp bắt và chết ở nhà lao năm Phùng Quán
mới một tuổi. Một ông chú làm Bí thư tỉnh ủy Thừa Thiên – Huế. Ông Phùng Thị
làm Chánh văn phòng Bộ Văn hóa. Vì thế án kỷ luật nghề nghiệp văn chương của
Phùng Quán ngang với mấy ông Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt nhưng sau khi đi cải tạo
lao động ông vẫn được biên chế tại Vụ Văn hóa quần chúng cho tới khi nghỉ hưu với
mức lương rất thấp. Trong dịp lao động tại công trường thủy lợi Bắc Hưng Hải về
Phùng Quán bị bệnh lao, Tố Hữu biết tin đã cho Hội Nhà văn đem xe com măng ca
đón ông về Viện Lao chữa bệnh. Do tính khí Phùng Quán ông không muốn mang tiếng
nhờ vả người nhà nên ông không đi lại thăm hỏi Tố Hữu. Mãi sau khi đã được phục
hồi hội tịch Hội Nhà văn vợ chồng ông mới lại chúc Tết Tố Hữu và viết lại cuộc
thăm này.

Đầu
năm 1998 Tố Hữu có nói với nhà thơ Nguyễn Bùi Vợi: “Xét cho cùng không có một
sáng tác nào của Phùng Quán lệch lạc về chính trị cả. Ngay cả bài thơ “Lời mẹ dặn”
bị phê phán một chặp thì cũng chỉ hơi móc máy một chút thôi.

Đấy
là kết luận của ông trùm chỉ huy đánh Nhân Văn Giai Phẩm sau hơn 40 năm.

Phùng Quán lấy vợ

Vợ
Phùng Quán là Vũ Bội Trâm sinh tháng 1-1932, ở số 3 Hàng Cân. Bà đậu tú tài
1954, vừa dạy cấp 2 vừa học dự thính Đại học sư phạm Văn khoa khóa 1 nhưng mãi
đến 1963 mới tốt nghiệp. sau dó dạy Cấp 2 Trưng Vương, Bổ túc công nông Hà Nội.
Từ 1970-1985 dạy Trường cấp 3 Chu Văn An. Phùng Quán quen Vũ Hướng em trai giáp
Vũ Bội Trâm. Hướng dẫn Quán về chơi thăm bố mẹ, được ông bà yêu quý nhận làm
con nuôi. Sau đó Trâm và Quán yêu nhau.

Nhưng
khi vụ Nhân Văn Giai Phẩm xảy ra gia đình bà Trâm rất lo cho con gái, nhiều lần
khuyên giải, phản đối con nhưng không được. Còn Trường cấp 3 Chu Văn An, nơi bà
Trâm là giáo viên dạy văn, thì nhiều lần góp ý. Nhưng chị Trâm vẫn một mực cho
rằng: “Tôi yêu anh ấy và nhất định lấy anh ấy làm chồng. Anh ấy là người tốt.
Thời gian sẽ trả lời!”. Năm 1962, hai người không làm đám cưới được mà chỉ đăng
ký kết hôn, rồi làm một bữa cơm đạm bạc để ‘liên hoan” tại nhà bà mẹ nuôi Tưởng
Dơi ở Nghi Tàm. Bữa tiệc ấy chỉ có bốn người bạn thân và hai vợ chồng, không có
ai đại biện hai gia đình hay cơ quan cả. Huế là đất kinh đô nên tiệc cưới nào
cũng rất sang trọng, tốn kém. Nhưng Phùng Quán “tứ cố vô thân” ở Hà Nội, hai
bàn tay trắng, chỉ một tháng được Hội Nhà văn trợ cấp 27 đồng, chỉ đủ ăn cơm “đầu
ghế” cơm bụi được một tuần, nên làm gì có tiền cưới vợ. Tiệc cưới ấy chỉ mời bốn
người là nhà thơ Tạ Vũ, Nguyễn Thị Điều, lúc đó là người yêu Tạ Vũ, nhà báo
Xuân Đài và một người bạn tên là Xuân Trung. Phùng Quán đi mua hai chú gà về để
giết thịt, nhưng một con bị chết. bà Bội Trâm kể, mọi người uống rượu nói chuyện
vui vẻ đến tận khuya. Tạ Vũ say nên chị Điều và Tạ Vũ phải ngủ lại. Nhà bà Tưởng
Dơi chỉ có hai cái giường kê sát nhau chen chân không lọt. Một cái do Phan Vũ ở
Xưởng phim cho mượn. Thế là đêm tân hôn hai vợ chồng phải ngủ hai giường!

Thành
vợ chồng rồi nhưng không có nhà để ở chung. Vũ Thị Bội Trâm vẫn ở nhà bố mẹ ở
Hàng Cân. Từ năm 1962-1981, chị đẻ và nuôi hai đứa con Phùng Thị Quyên và Phùng
Quân tại nhà bố mẹ. Quán thì phải đi lao động cải tạo khắp các nông trường,
công trường ở Thái Bình, Thanh Hóa, Việt Trì, Hà Nam, khi về thì ở nhà bà mẹ
nuôi Tưởng Dơi ở làng Nghi Tàm. Nhà văn hàng ngày giúp bà mẹ nuôi gánh hàng lên
đê Yên Phụ bán, rồi về viết văn. Đêm thì đi câu cá trộm ở Hồ Tây. Tiền bán cá,
tiền “văn chui” phần lớn Phùng Quán dành đưa cho vợ nuôi con ở nhà mẹ vợ, còn
mình thì ăn cơm bụi và uống rượu nợ với bạn bè. Năm 1981, bà Vũ Bội Trâm mới được
Sở Giáo dục Hà Nội và Trường Chu Văn An phân cho một góc xép, nguyên là cái xưởng
của trường phía Hồ Tây làm nhà ở cho gia đình.

Sau
20 năm lấy vợ, nhà văn Phùng Quán mới có một căn “xép” để vợ chồng ở chung.

Chính
ở góc xép Trường Chu Văn An đó, Phùng Quán đã tự tay đục đẽo dựng một cái chòi
bằng gỗ, lợp lá gồi, gọi là “Chòi ngắm sóng” (Mời bác Ba Vì xích lại đây /
Ta cùng túy lúy ngắm sóng say
…). Trên cái “Chòi ngắm sóng” đó treo đầy
tranh, thơ. Có tranh của họa sĩ Văn Cao ký họa Phùng Quán, tranh, tượng của nhiều
nhà điêu khắc, họa sĩ Việt Nam vẽ Phùng Quán, bút tích thơ chữ Hán của Hoàng
Trung Thông, Tào Mạt, thơ của các nhà thơ trong và ngoài nước viết tặng Phùng
Quán. Cái chòi ngắm sóng đó suốt ngày khách, suốt ngày rượu, suốt ngày thơ.
Phùng Quán đã tọa lạc trên “chòi ngắm sóng” này hơn mười năm ròng! Bây giờ thì
“chòi ngắm sóng” nổi tiếng một thời ấy không còn nữa, vì khu tập thể phải giải
tỏa để Thành phố làm bờ kè Hồ Tây. Tháng 6-2003, bà Bội Trâm được mua căn hộ ở
Khu chung cư Vĩnh Phúc. Mua bằng tiền đền bù giải tỏa, cũng đủ trả và có thừa
ra đôi chút để sửa chữa và mua sắm bàn ghế và sắm cái bàn thờ Phùng Quán.

Cháu Phùng Đỗ Quyên

Cháu
sinh năm 1963, là con đầu của Phùng Quán. Cháu học giỏi và tốt nghiệp tiếng Nga
Đại học Sư phạm Ngoại ngữ nhưng không xin được việc làm. Cháu cũng có bạn trai
nhưng cuối cùng rơi rụng cả vì mang tiếng là con Nhân Văn Giai Phẩm. Vì có tiếng
Nga cháu xin đi xuất khẩu lao động ở Liên Xô nhưng công an Hà Nội không cho
cháu đi. Phùng Quán chạy lên 15 Trần Bình Trọng đề nghị đơn vị tôi giúp đỡ. Cuối
cùng cháu cũng được đi phiên dịch cho đội lao động ở thành phố Trecatxư gần
Kiep, Ukraina. Vào thời gian cuối những năm 1980 công việc của cháu cũng tốt,
giúp cho kinh tế gia đình bớt khó khăn. May mắn là một lần lên Kiep cháu gặp được
một cậu sinh viên Luật người Lào đang học ở Đại học Tổng hợp Kiep và yêu nhau.
Phết Vilay hiền lành, con một cựu chiến binh Giải phóng quân Lào quê ở tỉnh
Viên Chăn, cách thủ đô Viên Chăn khoảng dăm chục cây số. Cũng may nữa là cuối
năm 1989 tôi đi học lớp bồi dưỡng nghiệp vụ an ninh văn hóa cho cán bộ lãnh đạo
tại Học viện Zeczinxki ở Maxkva. Tôi mang giúp cho Phùng Quán một bộ áo váy bò
cho cháu.

Cũng
tại Ký túc xá tôi ở lại có đoàn cán bộ an ninh văn hóa Lào đang học, có các anh
Vilay, Khăm Mạo, Thông phon… sau này trở thành cán bộ lãnh đạo Tổng cục an
ninh, Tổng cục chính trị và Học viện an ninh Lào. Tôi có nói chuyện với họ trường
hợp của cháu Quyên và Phết Vilay, nhờ họ giúp đỡ về phía Lào cho hai cháu kết
hôn. Kết quả là cháu Quyên theo chồng sang Lào ở. Chồng cháu làm ở Bộ Ngoại
giao Lào. Nhà cháu ở cạnh một ngôi chùa gần chợ đêm trên trục đường ra sân bay.
Tuy xa gia đình không chăm sóc được bố mẹ nhưng với một cuộc sống như thế cũng
là đáng mừng so với trường hợp nếu như cháu ở lại Hà Nội. Gần đây nhất đứa con
gái đầu của cháu đã quay lại du học tại Nga. Các cháu đã quay lại thăm nơi in đậm
những kỷ niệm tình yêu thời thanh niên. Còn tôi và anh em ở Điện ảnh Công an mỗi
lần đi công tác ở Viên Chăn thường ghé nhà cháu chơi.

Bữa cơm phục hồi hội tịch Hội Nhà văn

Khi
Nghị quyết đổi mới Văn học Nghệ thuật đã được triển khai thực hiện, có bàn việc
trước tiên là khôi phục sinh hoạt bình thường tại Hội Nhà văn, Hội Âm nhạc, Hội
Mỹ thuật cho một số ông như Văn Cao, Trần Dần, Lê Đạt, Hoàng Cầm, Phùng Quán,
Hoàng Tích Linh, Trần Duy, Đặng Đình Hưng… Thực ra thì các ông bị kỷ luật treo
bút một thời gian nhưng rồi các Hội bỏ mặc việc khôi phục quyền lợi hội viên
cho các ông và các ông cũng tự đình chỉ mình suốt ba mươi năm ròng. Đúng ra là
không phải khôi phục hội tịch nhưng trong không khí đổi mới dạo ấy cần phải làm
một việc cho có tiếng vang. Hội Mỹ thuật thì khôi phục hội tịch cho ông Trần
Duy. Hội Nhà văn thì bàn khôi phục cho năm ông Trần Dần, Hoàng Cầm, Lê Đạt,
Phùng Quán, Hoàng Tích Linh.

Khi
việc khôi phục hội tịch đã được quyết định các ông bàn tổ chức một bữa cơm để
cám ơn mấy anh em giúp việc. Bữa cơm được tổ chức ở nhà Phùng Quán. Trong số năm
ông, Trần Dần và Hoàng Tích Linh đang ốm không đến được. Hội Nhà văn có Nhà văn
Nguyễn Khải, Phó Tổng thư ký, nhà văn Xuân Thiều Chánh văn phòng Hội. Công an
thì có tôi Phó Trưởng phòng an ninh văn hóa A25, Nguyễn Quốc Minh cán bộ. Bữa
cơm thì đơn giản, một rổ bún, một bát thịt bò xào, một vò rượu nút lá chuối bày
trong chòi ngắm sóng của Phùng Quán nhưng không khí rất là vui vẻ, nét mặt ai
cũng tươi cười. Nhà thơ Phùng Quán với bộ quần ào bà ba nâu sòng xoa hai tay cười
xởi lởi Gọi là có chén rượu nhạt cám ơn
các anh.
Nhà văn Nguyễn Khải
đỡ
tay Phùng Quán đáp lễ rất thành thật: Các
bác không phải cám ơn, đây là lời tạ lỗi của một người em.

Các ông vui nhiều chuyện, có cả chuyện dáng đi như
chân cò của ông Nguyễn Đình Thi, chuyện ông Thi yêu Tuệ Minh từ hồi ở Việt Bắc
trước Huy Vân. Các ông khen bài thơ Người
đốt lửa không ngủ
của tôi vừa mới đăng trên số trong điểm về thơ của báo
Văn Nghệ.
Các ông đòi nghe tôi đọc bài thơ. Lê Đạt khen bài thơ
hào sảng và đề nghị sửa hai câu cuối:   

      Ngày mai

    
 Ta đốt lửa

Thành:

    
 Sáng mai

    
 Ta đốt lửa

Ông nói: Thế mới khẩn trương, quyết liệt.

Bữa cơm đơn giản nhưng dư âm của Nghị quyết phục hồi
hội tịch lan xa gây tiếng vang đối với công chúng cả nước và kiều bào ở nước
ngoài. Việc sáng tác và công bố tác phẩm của các ông có khí thế hơn.

Cu Nguyên cu Phong

 Những năm cuối giai đoạn ở nhà 12 Ngõ Trạm của
tôi, căn buồng 12 mét vuông dãy phía sau biệt thự của Tổng đốc Phạm Gia Thụy
người làng Đông Ngạc. Phùng Quán có đến chơi vài lần, có lần dẫn theo cả anh
Hoàng Phủ Ngọc Tường. Anh có cho hai thằng cu nhà tôi, cu Nguyên, cu Phong bộ
tiểu thuyết ba tập Tuổi thơ dữ dội, mấy cuốn sách mỏng, bộ tượng đất
nung Thầy trò Đường Tăng. Bọn trẻ nhà tôi yêu cả văn, cả con người anh. Chúng rất
thích được chơi với bác Quán. Đến nỗi một hôm vợ chồng tôi đi vắng về nhà không
thấy hai con đâu, tá hỏa đi tìm các cửa hàng điện tử xung quanh khu phố đều
không có. Cuối cùng tôi quyết định đi về phía nhà anh Quán thì gặp chúng đang
trở về quãng đầu Bảo tàng quân đội. Chúng nói lên chơi nhà bác Quán, bác Trâm
giữ lại ăn cơm trưa rồi mới cho về. Chúng cùng bác Quán ngủ ở chòi ngắm sóng.

Hòn non bộ, cây khổ sâm và Nguyễn Trọng
Tạo

Trong
khuôn viên nhà Phùng Quán ở ven hồ Tây thuộc đất Trường cấp 3 Chu Văn An có một
hòn non bộ độc đáo. Một người bạn yêu văn chương của anh biết Phùng Quán thích
cây cảnh đã đào một cái bể trong cái vườn nhỏ một chiều khoảng 3m, rộng khoảng
gần 2m, sâu khoảng hơn 1m, xếp vào đấy một hòn núi non bộ với nhiều tảng đá to.
Sau khi anh Quán mất chị Trâm nói với tôi, sắp chuyển nhà lên chung cư trả đất
cho dự án mở rộng bờ kè hồ Tây. Hòn non bộ không có ai nhận rước về cả vì bạn
bè văn chương nhà ai cũng chật. Lúc đó trong bể có mấy cụm hoa súng, mấy con cá
cảnh. Trên non bộ có hai cây sanh đã có dáng cổ, một cây đa lá to do chim trời
mang đến. Đặc biệt là trên bờ có một cây khổ sâm đã to, dưới non bộ có một cây
nhỏ. Tôi biết cây khổ sâm là kỷ vật đặc biệt của anh Quán vì nó gắn bó với anh
những năm tháng cô độc trông coi khu đất vỡ hoang của Cục Văn hóa quần chúng ở
Quân Chu, Đại Từ Thái Nguyên. Nó đã đi vào thơ của anh:

Hỡi Thượng đế của đời tôi

Tôi đã mắc tội gì mà Người ban cho
tôi ly rượu khổ sâm đắng thế.

Lúc
đó nhà tôi đang rộng có sân thượng, có vỉa hè hai mặt tiền. Thế là chú Phạm Văn
Chí lái xe cơ quan tôi, một người cũng rất yêu quý anh Quán thuê một chiếc xe Benz
chở toàn bộ hòn non bộ về nhà tôi. Tôi phải sẻ nó ra làm ba bể nhỏ. Một bể dưới
cửa nhà với cây đa lá to do chim trời mang lại. Hai bể trên sân thượng, một bể với
cây sanh to nhất, bể còn lại với cây sanh nhỏ và cây khổ sâm.

Hòn
non bộ của anh Quán yên vị ở nhà tôi được dăm năm. Vạn vật không đứng yên một
chỗ. Gia cảnh nhà tôi cũng biến đổi. Tôi phải bán nhà lên chung cư. Thế là lại
phải đi tìm bạn bè có thể gửi lại hòn non bộ của anh Quán và số cây cảnh của
tôi. Nghe tin ở trong Huế anh em bạn bè văn nghệ sĩ đang tìm cách làm nhà lưu
niệm cho anh Quán. Tôi gọi điện cho Ngô Mnh xem có thể chở cái hòn non bộ ấy về
Huế được không. Ý tưởng thì cực hay, anh em Huế, cả anh Nguyễn Khoa Điềm ủng hộ
nhưng nhà lưu niệm chưa có, không chở non bộ vào được. Tôi nhớ đến Nguyễn Trọng
Tạo, lúc đó đang hoàng kim, có nhà sàn ở bãi sông Hồng gần cầu Thanh Trì. Tạo lại
đã từng ở Huế nhiều năm, là một chỗ thân thiết với anh Quán. Tạo thân tình với
tôi vì Tạo sinh cùng làng 
Diễn Hoa Diễn Châu với Lê Thái Sơn Chủ tịch Hội Văn nghệ Nghệ An bạn học
cùng lớp với tôi ở K13 Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp Hà Nội. Làng Diễn Hoa Diễn
Châu lại là quê họ Thái gốc Mạc của tôi. Lúc Sơn bị bệnh nặng tôi viết bài

Thái Sơn Nhà thơ của những người cùng khổ
thì Tạo lo thu bài làm Tuyển tập
cho Sơn.

Tạo
nhận lời ngay. Vì Tạo đang cần cây cảnh với ý tưởng sẽ làm vườn tượng cho bạn
bè tại khu nhà sàn. Sau khi thị sát nhà sàn của Tạo tôi đồng ý. Sáng hôm sau Tạo
đưa một chiếc xe tải Benz đến với nụ cười. Cầu Thanh Trì không cho xe tải đi
vào ban ngày nhưng Khúc hát sông quê và cái tên Phùng Quán đã được cảnh
sát giao thông ưu tiên cho đi. Trong số cây tôi cho Tạo còn có một kỷ niệm đặc
biệt của tôi là cây mai hương mang từ Huế ra. Tháng đoàn làm phim truyện Người
trở về
của Điện ảnh Công an có mượn ngôi biệt thự của một bác sỹ quân y Sài
Gòn trong Thành Nội làm bối cảnh. Bà quả phụ vốn là học sinh trường Nguyễn
Hoàng ngoài thị xã Quảng Trị mà một góc trường đổ nát nằm trong phim Cỏ lau
của tôi và Vương Đức. Điều kỳ lạ là tấm ảnh thời trẻ của bà giống hệt Minh
Châu, vai nữ chính của Cỏ lau. Cậu con trai chủ nhà cho biết ngôi biệt
thự này bố cậu mua lại từ người đầu bếp của vua Bảo Đại có cây mai hương cổ còn
sót lại. Giống mai này để tiến vua, hoa thơm và lá non cũng thơm. Khi tôi về Hà
Nội cậu bê ra xe tặng tôi một chậu cây con. Cây mai hương này lúc cho Tạo đã ra
hoa lứa đầu.

Thật
dun dủi cho cái hòn non bộ. Sau khi nhà thơ Lê Thái Sơn người bạn cùng quê Diễn
Hoa với Tạo, bị bạo bệnh mất, Tạo cũng đổ bệnh. Tạo bỏ nhà sàn về chung cư Linh
Đàm chữa bệnh và mất ở đó. Sau đó tôi không còn biết số phận hòn non bộ của anh
Quán và số cây cảnh của tôi như thế nào. Ngô Minh người hứa với tôi sẽ đưa hòn
non bộ anh Quán về Huế cũng đã mất. Con trai anh Quán không còn. Cháu Quyên thì
vẫn ở bên Lào…

Tôi
thì đã già, lên chung cư mươi năm rồi, đã phải tự giết chết thói yêu cây cảnh, phong
lan, địa lan của mình và nỗi nhớ cái hòn non bộ cùng cây khổ sâm của anh Quán
cũng dần dần nguôi ngoai. Nhà tưởng niệm Phùng Quán cũng chưa làm được. Chỉ có
trường học ở quê anh Quán đưa sách của anh vào thư viện cho các em học sinh đọc.
Tháng năm tôi tổ chức cho khóa K19 Khoa Ngữ văn Đại học Tổng hợp của tôi hội
khóa ở Huế đã đến nghĩa trang Hương Thủy viếng mộ anh chị và cháu Quân.

Comments are closed.