Những ghi chép ở tầng thứ 14 (kỳ 1)

Những ghi chép ở tầng thứ 14 là tiểu thuyết gồm 15 chương của Thận Nhiên, với nhân vật là những người trẻ sinh ra/ lớn lên/ sống ở Hoa Kỳ nhưng đang có cuộc nghiệm sinh trên đất Việt Nam. Những gì tiếp nhận trong mỗi ngày sống của mình khiến những ký ức được truyền lại từ người thân đã rời bỏ Việt Nam được gọi dậy trong họ. Không có mặt và can dự vào quá khứ nhưng những người-Việt-một-phần này vẫn không thể ra khỏi những gì thuộc quá khứ bởi những gì đang xảy ra trong hiện tại…

Văn Việt xin trân trọng giới thiệu cùng các bạn.

VĂN VIỆT

44824248_556072151500600_8853424487647936512_n - Copy

Thận Nhiên tên thật Tôn Thất Thiện Nhân, sanh năm 1962 tại Long Khánh. Anh sang Mỹ năm 1990, hiện ở Detroit, Michigan.

Kiếm sống bằng nhiều nghề, ở nhiều nơi. Thận Nhiên viết văn xuôi, thơ, dịch Anh-Việt; cộng tác với những diễn đàn văn học hải ngoại và trong nước, dưới đất và trên mạng; bút danh thường ký Thận Nhiên, viết báo ký Nam Đan, dịch sách ký Nguyễn Tuệ Đan, viết các thứ khác ký Bùi Thị Lài.

DẤU VẾT CỘI NGUỒN

Sài Gòn là một thành phố có nhiều ma nhất trên thế giới.

Nó có nhiều ma hơn mọi thành phố có nạn diệt chủng ở châu Phi. Nó có nhiều ma hơn thành phố chết Nam Vang trong thời diệt chủng. Nó có nhiều ma hơn cả hai thành phố bị huỷ diệt bởi bom nguyên tử vào cuối thế chiến thứ hai ở Nhật cộng lại. Nói đúng ra, thì nó có nhiều ma hơn tất cả các thành phố trên thế giới.

Nếu là một người từng sống ở đó thì có thể bạn không ý thức được điều đó đâu, vì chắc chắn bạn đã thấy quen thuộc với cái khí quyển ma quái đó rồi. Khi mình đã quen với điều gì rồi thì sẽ thấy đó là một sự hiển nhiên, chẳng có gì để phải thắc mắc. Còn nếu bạn là một du khách thì nhiều phần vì sự hèn nhát do sợ bị ma trả thù mà bạn không dám tiết lộ ra cái sự thật đó.

Do đâu mà tôi biết được điều đó ư? Tôi biết được là vì tôi là một du khách. Thật ra, tôi là một gã trai trẻ thèm giang hồ vặt, khao khát đi khắp thế giới với cái ba-lô và một số tiền còm dành dụm được trong một năm cày cuốc ở Austin, Texas.

***

Tên tôi do cha tôi đặt, tiếng Việt là Quân, tiếng Mỹ là William, hai mươi ba tuổi. Cha tôi người Việt, mẹ tôi cũng người Việt, họ vượt biên đến Mỹ từ năm 1979, cả hai người đều phải thi để lấy quốc tịch sau năm năm ở Mỹ. Mẹ tôi đậu và thành công dân Mỹ. Cha tôi thi trượt năm lần và nản lòng, quyết định không bao giờ thi nữa nên ông mãi mãi là người không có quốc tịch nào cả, Mỹ cũng không mà Việt cũng không.

Nếu hình dung quốc tịch như một cái mỏ neo để neo thân phận con người như neo một con tàu thì cha tôi là con tàu bị trôi dạt mãi và sẽ đắm trong nay mai vì mỗi ngày bị nước biển tràn vào một ít. Tới giờ, sau nhiều năm ở Mỹ, ông vẫn không nói được tiếng Anh suôn sẻ tuy rằng ông sống bằng nhiều nghề, đi và ở nhiều nơi trên nước Mỹ hơn phần đông những người Mỹ bình thường. Ông lái xe rất giỏi, chưa bao giờ ông gây tai nạn hay bị cảnh sát phạt vì bất cứ lỗi gì, nhưng ông không có bằng lái vì, theo lời ông, ông đã thi trượt ba mươi bảy lần phần thi lý thuyết. Ông là một nhà thơ, một nhà thơ thất bại như hàng triệu triệu nhà thơ thất bại của nhân loại từ xưa đến nay, tất nhiên ông chỉ làm thơ bằng tiếng Việt.

Mẹ tôi là thương gia khá thành công, bà buôn bán với cả người Mỹ gốc Việt lẫn người Mỹ không phải gốc Việt. Bà bảo với tôi rằng bà đã lấy được bằng tiến sĩ về một ngành tương tợ như khí động học hay nhân chủng học gì đó, và tôi phải noi theo gương bà để trở thành một người thành đạt, thật ra tôi chẳng quan tâm mấy đến chuyện thành đạt bằng con đường khoa cử đó. Tôi muốn viết một cái gì đó, có lẽ nên là một cuốn tiểu thuyết.

Tôi là người Mỹ, tôi ra đời ở Mỹ, nên không phải thi quốc tịch Mỹ. Tôi hiểu được một ít tiếng Việt và nói hai thứ tiếng Anh-Việt trộn lẫn nhau khi buộc lòng phải nói tiếng Việt. Tôi bỏ học đại học sau hai năm theo một ngành gì đó mà tôi không buồn nhớ. Tôi vẫn sống chung nhà với mẹ tôi, bà dành cho tôi một căn phòng trong ngôi nhà bốn phòng ngủ, và tôi làm việc bán thời gian cho bà.

Cha mẹ tôi li dị từ mười ba năm trước và tôi sống với mẹ từ đó. Cha tôi, sau khi đi kiếm sống ở nhiều tiểu bang khác nhau, dọn về sống không xa thành phố chúng tôi ở. Ông thường ghé đón tôi về nhà ông chơi. Kỳ lạ là cả hai cha mẹ tôi ai cũng sống một mình, thỉnh thoảng họ có bạn trai hay bạn gái nhưng không sống chung với ai nữa. Cha tôi thường thu xếp cho các cô bồ của ông không có mặt ở nhà mỗi khi ông đón tôi về. Hai cô người Việt, một cô người Mễ, một cô người Lào, hai cô da đen và một cô da trắng. Tôi nghĩ tôi kể còn sót vài cô những khi cha tôi dời đi qua tiểu bang khác sống. Có lần cha tôi nói con cu của ông giống như cây gậy của thằng mù, đụng đâu ông chọt đó, vậy mà chưa có lần nào dính luôn. Nghĩa là, ông chọt tới chọt lui, chọt hoài mà vẫn rút gậy ra được. Còn hai ông bồ của mẹ thì không như vậy, bà không có ý cho họ tránh gặp tôi. Có khi bà còn cho tôi đi chơi xa chung với họ và những đứa con của họ, và thuê một phòng riêng cho tôi khi ở khách sạn. Với tôi, họ- những người bạn của cha và – chỉ là những người xuất hiện trong đời mình một lúc nào đó rồi biến mất. Biến mất vĩnh viễn. Tuy rằng nhiều lúc tôi vẫn gặp lại họ. Tôi thường nhầm tên của những bạn trai bạn gái của cha mẹ mình với nhau. Thật ra chuyện nhầm lẫn đó chẳng có gì quan trọng. Tôi ngờ rằng có khi tôi cố ý làm như vậy. Để làm gì ư? Chẳng để làm gì cả. Hay chỉ để quan sát sự bối rối của những người lớn. Cho vui.

***

Tôi cho rằng đây mới là chuyến đi ra thế giới đầu tiên của tôi, đi Việt Nam, còn những chuyến trước là không kể. Không kể là vì những lần đó tôi không đi một mình, hoặc cho dù tôi đi qua Canada hay Mexico một mình thì những lần đó không phải là quyết định của chính tôi mà là sự cho phép của mẹ tôi. Khi không được tự quyết định mọi chuyện thì các chuyến đi đó không nên kể như một thành tích hay những dấu ấn trong đời.

Mục đích của chuyến đi Việt Nam này là tôi muốn tự mình tìm lại những dấu vết của cội nguồn, những điều lẽ ra tôi không cần quan tâm đến làm chi vì chúng gần như vô nghĩa với đời sống và thực tại của tôi.

Không có những dấu vết đó thì tôi vẫn sống một đời sống bình thường như mọi kẻ di dân ở các thế hệ thứ hai, thứ ba trở về sau trên đất Mỹ.

Tuy nhiên, với riêng tôi thì việc tìm lại dấu vết của cha, của ông mình, trên cái mảnh đất xa xôi và xa lạ đó không phải là một thôi thúc luôn canh cánh trong lòng như nhiều di dân ở thế hệ đầu nghĩ về cố quốc, nhưng mà là nỗi ám ảnh, trước sau gì cũng phải giải quyết, một lần cho xong.

Tôi muốn tái tạo và sống lại các phần đời của cha, mẹ, ông nội tôi ở Việt Nam.

Tôi có một khả năng đặc biệt. Hãy cung cấp cho tôi vài chi tiết, tôi sẽ sống, sẽ nhập vai vào câu chuyện đời của bất cứ ai. Rắc rối mà tôi gặp phải là ký ức của tôi thường xuyên không kiểm soát được trật tự của sự việc và thời gian, chúng nhảy cóc và hoàn toàn không có tính liên tục.

***

Tôi cảm nhận được cái khí quyển ma quái ấy ngay từ khi cô tiếp viên hàng không thông báo bằng một thứ ngôn ngữ rất khó nghe. Dường như trong cái tràng âm thanh phát ra từ chiếc loa có chen vài từ tiếng Anh thì phải, nó vừa đủ cho tôi hiểu rằng chiếc máy bay của hãng hàng không China đang bay vào không phận Việt Nam.

Chuyến đi này là một khám phá thế giới rất quan trọng với tôi: lần đầu tiên tôi biết rằng mình là công dân ở một nước tự do đi đến một đất nước cộng sản. Nếu kinh nghiệm của chuyến đi này thành công thì điểm đến kế tiếp của tôi là Bắc Triều Tiên.

***

Máy bay hạ cánh. Vừa bước xuống là cảm nhận được ngay cái hơi nóng hừng hực của mùa hè ở xứ nhiệt đới. Hành khách được xe buýt đưa vào khu vực khai nhập cảnh.

Ngay lập tức, tôi bắt đầu thấy ma, hay đúng hơn thì nên gọi đó là những vong hồn không siêu thoát.

Không phải chỉ một hay hai, mà là hàng đàn hàng lũ những vong hồn nườm nượp trước mắt tôi; điều kỳ dị là chúng đang nói năng sinh hoạt cùng với người sống như không có một sự cách biệt nào cả.

Vài giờ sau, tôi nhớ lại vài thông tin mà mình đã tìm được trước chuyến đi, rồi dần dà hiểu ra rằng ở đây ma và người dùng chung một loại tiền tệ, ăn chung các loại thực phẩm, ở chung trong những ngôi nhà và những ngôi mồ, ngủ chung trên những cái giường sang trọng hoặc dưới nền đất ẩm ướt bẩn thỉu, và thậm chí họ còn thường xuyên làm tình với nhau.

Trong trường hợp đó, nếu không sử dụng các biện pháp tránh thai hữu hiệu thì hệ quả là họ sanh ra một loại sinh vật nửa ma nửa người với nhiều biến dị. Với loại sinh vật này, trong chiều thời gian thì họ có thể khi là ma, khi là người; hay tính theo thân thể nếu chia theo chiều dọc thì bên phải là ma, bên trái là người; hay chia theo chiều ngang thì từ bụng trở lên là ma, từ bụng trở xuống là người; hay cắt chéo từ đỉnh đầu bên trái xuống gót chân bên phải là người thì phần bên kia là ma; hay phần ngoài da là ma, phần bên trong da là người hoặc ngược lại; hay tế bào này là ma, tế bào kia là người; hồng huyết cầu này là ma, hồng huyết cầu kia là người; sợi lông này là ma, sợi lông kia là người; vân vân… Nghĩa là trong ma có người, trong người thì có ma, với một tỉ lệ gần như 50/50.

Còn giới tính ư? Chẳng có gì khác biệt với loài người, nghĩa là có cả nam lẫn nữ và các dạng đồng tính.

Lũ vong hồn ấy hoàn toàn khác với các loại ma mà tôi đã từng gặp. Loài tương cận nhất của chúng có lẽ là đám vong hồn ở Bắc Kinh vào đầu thập niên 1990, tụ tập đông nhất quanh quảng trường Thiên An Môn.

Điều làm chúng khác biệt với loại ma toàn phần (hay ma nguyên thể) là chúng không đi hỏng chân khỏi mặt đất như đáng ra phải thế, mà lại lầm lũi, lếch thếch trên hai chân. Tuy nhiên, có không ít vong hồn bò toài trên mặt đất vì không còn chân, do bị cắt cụt bởi bom mìn ở cổ chân, ở đầu gối hoặc ở háng. Những con ma không chân này là dấu vết còn lại của chiến tranh, nhất là cuộc chiến tranh ở Campuchia. Bằng sự bất toàn trên thân thể của mình, chúng là biểu tượng và sự ám chỉ rằng đây là một đất nước chưa bao giờ nguyên vẹn ở phần hạ thể và không tự mình đứng lên được.

Bọn người/ma ấy sống cho tới khi phần người trong chúng ngừng thở hẳn, như sự kết thúc của một con người, thì chúng chết, trở thành ma toàn phần để chờ đầu thai.

Sau khi chết chúng trôi dạt về đâu ư? Không trôi dạt, di trú đi đâu cả, chúng vẫn hiện hữu ngay trong đời sống này! Vì sao ư? Có trời mà biết!

THI SĨ

Để trang bị cho sự hiểu biết về đất nước này, trước khi đến đây tôi đã nghiên cứu các tài liệu qua sách vở và trên internet, đồng thời tôi cũng ôn lại những kiến thức mà cha tôi đã truyền đạt mỗi khi tôi có dịp trò chuyện với ông.

Việt Nam là một cường quốc về thơ!

Cha tôi khẳng định rằng có vô số người đã khẳng định chắc nịch như vậy. Trong số đó có một ông quan kiêm thi sĩ, năm ngoái tuyên bố trong cuộc hội nghị văn hoá cấp trung ương. Khi nói, ông quan thi sĩ vung hai tay lên trời thành một vòng tròn, đầy tính biểu tượng và quyền lực.

“Thơ của chúng ta, thi ca của đất nước chúng ta, là phải có âm thanh vừa lả lướt, vừa dịu dàng, mà phải vừa cuồn cuộn, vừa vang rền! Tư tưởng thì phải cao vời, phải thanh thoát, mà chấn động lương tri, mà lay chuyển tâm thức của toàn thể nhân loại! Đó là tầm cao của Đại Việt Thi!”.

Cử toạ vỗ tay tán thưởng câu nói đó suốt cả mười phút, cường độ của tiếng vang rền tương xứng với lời ông nói. Sau này, tuyên ngôn đó được đưa vào dự thảo hiến pháp, và có hơn nửa dân số khắp nước, giới bình dân cũng như giới hàn lâm, đều bỏ phiếu tán đồng trong những cuộc họp tổ dân phố.

Bạn có thể phạm tội giết người, nhưng không thể phạm tội chê thơ kẻ khác dở.Đó là một tội ác ghê gớm!

Khi làm điều đó, bạn không chỉ huỷ diệt sinh mệnh của một con người, mà bạn đang đẩy ít nhất là một linh hồn xuống hoả ngục của sự khốn khổ, đau buồn, hổ thẹn đời đời. Nhiều khả năng linh hồn ấy chính là linh hồn của bạn.

Tuy Việt Nam là một cường quốc về thơ nhưng một trong những giới hạn lớn nhất của văn hoá Việt Nam là vấn đề từ ngữ. Có một sự thật là, cùng lúc tiếng Việt càng giàu ra và càng nghèo đi. Theo một tài liệu tôi được đọc thì số vốn ổn định về từ ngữ của một người Việt bình thường là 1.793 từ. Thủ đắc được chừng đó từ là người ta có thể nhẫn nhục sống qua ngày, sống một cách khá tệ, nhưng chưa phải là tệ nhất.

Tình trạng tệ nhất là khi con người có khả năng về thể chất- không bị khiếm khuyết các bộ phận phát âm như lưỡi và thanh quản- để nói ra những suy nghĩ của mình, nhưng hắn bị đe doạ, thậm chí nghiêm cấm thực hiện điều đó. Có những kẻ bất chấp sự nghiêm cấm và phải trả giá cho sự ương bướng đó, họ bị trừng phạt. Hình phạt là bị tước đi khả năng phát biểu. Khi đó, cái miệng chỉ còn chức năng ăn, và bị tước đi chức năng nói.

Người ta cho rằng Việt Nam ngày nay đã có một bước tiến rất xa so với trước đây- trước đây có nghĩa là khoảng ba mươi năm trở về trước- khi đó, chẳng những đã đành không được nói, mà con người còn không được suy nghĩ. Người ta luôn quan sát nhau, dò xét nhau, để tìm hiểu xem kẻ kia có đang suy nghĩ gì không, nếu có, thì hắn đang nghĩ những gì. Con người không được suy tư trái với những quy định, những nội dung, mà hắn được nhà cầm quyền cho phép hắn suy tư. Hắn suy tư khác đi, thì hắn không phải là con người xã hội chủ nghĩa; không phải con người xã hội chủ nghĩa, thì không xứng đáng tồn tại trong cộng đồng xã hội chủ nghĩa, là phải bị loại trừ.

Tôi nghĩ, với số vốn từ ngữ hạn chế đó, nói chung, đời sống tinh thần của người Việt có lẽ khá là nghèo nàn và tẻ nhạt. Có một số người được đặc quyền sử dụng số từ nhiều hơn số từ vựng căn bản đó, từ đó họ cố gắng tranh thủ ưu thế của mình để mưu cầu những ưu tiên trong đời sống.

Sự khác biệt về thân phận của con người được chỉ rõ ra trong từ ngữ người ta sử dụng để nói về cái còn lại của họ sau khi đã chết: xác chết, tử thi, thi hài, di hài…

Thay vì cúng giỗ bằng thực phẩm thì người Việt có thể cúng nhau bằng những bài thơ; có khi chúng là những bài văn vần dài được gọi là điếu văn, hay hịch, hay trường ca. Cha tôi từng thấy những dải lời thơ màu xám tối bay là đà trong làn hơi nước đục mờ của buổi sáng sớm tinh sương, chúng bay trên đầu đoàn người đưa ma. Chúng bay theo họ trên những con đường tối om từ làng mạc thôn quê hay từ thành phố còn lù mù ánh đèn đêm chưa tắt đến các bãi tha ma.

Được đặt bên cạnh nải chuối, chén cơm, cái trứng luộc, ly rượu trắng, bát hương với những nén hương cháy dở có tàn tro cong cong, là một bài thơ tiếc thương người quá cố. Bài thơ luôn luôn được viết dở dang trên một tờ giấy thếp vàng, hoặc hiện đại hơn thì được in ra khổ giấy A4 từ máy vi tính. Bài thơ phải dở dang, phải chưa bao giờ hoàn tất, chưa bao giờ viên mãn, như những cuộc vui dở dang mà vong linh đó chưa hưởng hết ở cõi tạm này mà phải ra đi.

Thi sĩ là một nghề rất phổ thông và là con đường ngắn nhất để có được danh phận trong cộng đồng. Bạn là thi sĩ thì sẽ được miễn trừ một số nghĩa vụ công dân như đi quân dịch, quét dọn đường sá và các nhà vệ sinh công cộng, vắt sữa bò ở các nông trường, đập đá ở các công trường thuỷ lợi…, và điều tuyệt nhất là sẽ được miễn khai thuế thu nhập hàng năm. Thay vì phải làm các việc tạp dịch đó thì mỗi năm các thi sĩ được tập trung lại ở một khu trại gọi là nhà sáng tác thi ca. Vô số những bài trường ca ca ngợi thế lực cầm quyền và các vị lãnh đạo đất nước ra đời từ những khu trại đó. Những trường ca mà ngôn ngữ trong đó có độ lóng lánh cao và được đọc vang rền trên những chiếc loa ở khắp mọi nơi trên đất nước, ở mọi thời điểm trong ngày, trong thời chiến lẫn thời bình.

Thi sĩ! Nó là một thứ danh phận nằm lơ lửng và được nhào trộn giữa các vị trí như chí sĩ, chiến sĩ, tu sĩ, cuồng sĩ, bác sĩ, dược sĩ, hoạ sĩ, vô công rỗi nghề, bịp bợm, hoạn lợn, gia nô, tù nhân, mật thám, lãnh tụ, bệnh nhân tâm thần, điềm chỉ viên, và liệt sĩ.

Cha tôi nói, “90% những người tù ở Việt Nam là thi sĩ. Và ngược lại, 99% thi sĩ là những tù nhân thực thụ hay ít ra là những kẻ có nhiều tiềm năng sẽ trở thành tù nhân. 99% thôi, vì 1% còn lại là những kẻ không làm thơ nhưng đạo thơ của người khác”. Những bài thơ được làm trong thời gian ở tù luôn luôn là những tác phẩm trùng lặp nhau về tâm cảnh mất tự do, mơ ước cho tương lai khi ở ngoài hàng rào trại tù, ngoài song sắt buồng giam, và đấu tranh cho lý tưởng giải phóng. Nội dung của việc ai giải phóng ai, hay giải phóng cái gì, thì tuỳ thuộc vào phe mà thi sĩ chọn (có khi họ không chọn nhưng lại bị/được đặt để một cách ngẫu nhiên), tuỳ thuộc vào thân phận của thi sĩ, và vào từng thời điểm lịch sử. Khi thì A giải phóng A ra khỏi B; khi thì ngược lại, B giải phóng B ra khỏi A; hay cả hai A và B cùng giải phóng A+ ra khỏi C, …vân vân… Tuy nhiên, hình như chưa có, hay rất ít, thi sĩ nào nói về những khắc khoải khi mất dần cái nhu cầu giao tiếp xác thịt với người khác giới trong những đêm cô quạnh; những đêm trằn trọc vì nỗi kêu đòi của nhu cầu bản năng giới tính. Khi thi sĩ tiến dần đến liệt sĩ là lúc họ teo dần đi cái khao khát mà họ từng kêu đòi khi còn ở ngoài không gian tự do.

Điều đáng nói là mọi tài liệu quan trọng và khả tín mà tôi tìm được đều cho rằng ở đây có vô số những con ma thi sĩ.

Họ làm thơ từ lúc còn bí mật hoạt động cách mạng ở trong hang, cho đến khi cách mạng thành công, thì vừa tiếp tục làm thơ vừa nghiên cứu và thực hiện mọi chính sách của quốc gia trên các cao ốc chọc trời phải đi lên bằng thang máy.

Ca ngợi lãnh tụ và chính phủ, họ làm tụng ca. Chống quân xâm lược và kêu đòi dân chủ, họ vừa xuống đường vừa làm thơ. Ôm hận nằm trong ngục tối chờ ngày thay đổi vận nước, họ làm “ngục thi”. Đám cưới, đám tang thì thi ca phục vụ cho việc hiếu hỉ. Đi giải quyết sinh lý xong thì họ làm thơ thiền để cho tâm hồn thanh thản. Mách qué với hàng xóm thì làm thơ tự trào. Nỉ non với vợ thì làm thơ tự thán. Nếu kẹt đạn, chưa tìm ra tứ thì chỉ cần mua tờ báo, đại loại như tờ Công An chẳng hạn, là sẽ có dư cảm hứng để làm thơ chống tham nhũng.

Việt tộc sống bằng gạo, thịt, cá mắm, rau cỏ, và bằng thơ! Thi ca vô cùng quan trọng với đời sống của người Việt ở mọi mặt, đặc biệt là ở mặt tâm linh và đạo đức. Ngày nay, thơ từ từ biến mất trên các tờ báo giấy nhưng lại chiếm lĩnh các diễn đàn trên mạng.

Trong chương 2 của cuốn cẩm nang Những ứng dụng của thi ca, một tài liệu tuyệt mật nằm trong thư khố của quốc gia mà tôi may mắn đọc được, có tiết lộ thế này:

“Muốn nguyền rủa, trù ếm một kẻ nào, hay một gia tộc nào, hay một tổ chức nào ư? Hãy biến cái mong ước cháy bỏng ấy thành một bài thơ trên giấy, chờ đến sau nửa khuya, chính xác là 00:00:01 AM, đi lên một cây cầu có vị trí ở gần đối tượng nhất, đốt tờ giấy có bài thơ ấy thành tro, rồi uống cái mớ tàn tro ấy với một ngụm rượu trắng, rồi quay mặt về hướng đối tượng, khấn chín lần điều mình muốn xảy ra với đối tượng, rồi đái xuống sông đúng mười ba giọt nếu mình là nam, và hai mươi bảy giọt nếu mình là nữ. Rồi về. Đêm đó không được ngủ. Nếu là nam thì phải nằm sấp, nữ thì nằm ngửa, vừa thì thầm đọc lại bài thơ, vừa tự xoa vuốt mình, toàn thân, suốt đêm”.

***

Theo các tài liệu mà tôi nghiên cứu lâu nay, hai nhà thơ Việt lớn nhất của thời hiện đại được nghiên cứu rộng rãi và đưa vào chương trình giáo dục là một lãnh tụ và một tay cuồng sĩ rách rưới sống với lũ chuột cống ngay trên các vỉa hè ở Sài Gòn.

Tôi có xem hình họ chụp. Ông lãnh tụ mắt sáng như sao, trán rộng, hơi hói, mặt gầy choắt nhưng quắc thước với bộ râu lưa thưa dưới cằm. Ông cuồng sĩ thì chỉ để lộ ra một cây răng khôn duy nhất, cây răng vừa mọc ở tuổi chín mươi, khi ông nở nụ cười móm mém. Ông đeo quanh người một trăm lẻ chín cái bàn chải đánh răng, có hầu hết các thương hiệu trên thế giới, có hầu hết các chủng loại dành cho mọi loại răng, và đủ mọi màu sắc, để làm vệ sinh cho cây răng duy nhất này.

Quy luật của thế giới thi ca cũng không khác gì những quy luật của cuộc đời thật, nghĩa là phải có kẻ mạnh làm đại ca và kẻ yếu để sai vặt.

Hồi cuối thiên niên kỷ trước, hai thi hào bày cuộc thi thố với nhau bằng thơ để phân cao thấp. Họ hẹn ngày và tổ chức cuộc thi tài công khai ở bên một cái hồ sen tại Văn Miếu của thủ đô Hà Nội, có phát truyền hình trực tiếp và cho phép giới báo chí quốc tế dự khán.

Luật của cuộc thi là mỗi người thay phiên nhau làm một bài thơ về bất cứ điều gì nảy ra trong đầu họ. Phải làm thật nhanh, thật độc đáo, thật sáng tạo.

Mỗi người ngồi ở một đầu chiếc bàn rộng, ở giữa là cái đồng hồ tính giờ như trong các cuộc thi đấu cờ tướng quốc tế. Hội đồng trọng tài gồm có ba bậc trí giả khả kính về tư cách, và am tường về thi ca và văn hoá: một người Hoa, một người Nga, và người cuối cùng, cũng là trọng tài chính, là người Việt, ông này là ủy viên bộ chính trị phụ trách về văn hoá và tư tưởng. Quy trình thi cũng khá giống như các cuộc thi đấu cờ. Người này xướng lên một bài thơ xong thì bấm giờ, tới phiên người kia đáp trả bằng bài thơ của mình, rồi bấm giờ. Cuộc đấu bất phân thắng bại, kéo dài từ tám giờ sáng đến xế chiều không ngưng nghỉ, chỉ thỉnh thoảng có người mang nước sâm lên cho hai đấu thủ uống lấy sức và mang bô cho họ đái, tất nhiên là uống vào và đái ra tại chỗ. Khi đái thì có người giúp, dùng một tấm vải nhiễu đỏ để che lại. Dăm phút lại có người giúp lau những giọt mồ hôi rịn ra trên hai gương mặt căng thẳng.

Sau cùng, ông lãnh tụ, tay chỉ vào mặt đối thủ, miệng chiếu bí ông cuồng sĩ bằng một bài thơ chỉ có ba chữ nhưng ý tưởng thì vô cùng mênh mông, sâu thẳm, và quyết liệt, như một đường kiếm của sát thủ bậc thầy. Bài thơ như thế này:

cương là ngủm”.

Ông cuồng sĩ ngay lập tức phun nước bọt, quẹt tay chùi mép, rồi xướng lên một bài thơ hai chữ để phản đòn:

củ buồi”.

Ông lãnh tụ ú ớ trong giây lát, nhưng vẫn làm kịp một bài thơ, buông ra chỉ một chữ sắc nhọn:

ngủm”.

Dứt lời, ông rút súng bắn gãy cây răng duy nhất của đối thủ. Xong, ông ra lệnh cho các đồng chí thuộc hạ tống ông này vào trại cải tạo.

Các trọng tài tuyên bố cuộc thi đấu chấm dứt ở đó. Họ tròng vòng hoa vào cổ ông lãnh tụ. Cả nước mở hội ăn mừng, pháo hoa bắn rực trời suốt năm đêm.

Ông cuồng sĩ không bao giờ được chạm tới giấy bút, rượu, và mãi mãi bị cấm đi lên bất cứ cây cầu nào. Người ta không cho phép ông, họ canh giữ, theo dõi nghiêm ngặt. Họ sợ ông báo thù bằng một cuộc đi đái. Sợ, trong một đêm quạnh quẽ nào đó, ông lặng lẽ vén quần, nhỏ xuống mặt nước dưới cầu đúng mười ba giọt, như tài liệu tôi đã dẫn ở trên.

Không còn cái răng nào,  một trăm lẻ chín cái bàn chải răng trở nên vô dụng. Ông viết một di chúc bằng thơ, hiến tặng một trăm lẻ chín cái bàn chải răng cho viện bảo tàng văn hoá dân tộc. Ngày nay, một trăm lẻ chín cái bàn chải răng và tờ di chúc được đặt vào những cái hộp làm bằng gỗ trầm hương, lót đáy bằng nhung đỏ, trưng bày trong dãy tủ kính. Người ta cài đặt hệ thống an ninh điện tử hiện đại nhất để bảo vệ chúng. Những hiện vật này trở thành di sản quý giá của quốc gia.

Sau khi thi-cuồng-sĩ qua đời ở tuổi một trăm lẻ hai vì một thứ bệnh xã hội có tính truyền nhiễm cao, chính phủ trưng cầu dân ý cách xử lý cái di hài của ông: nên ướp xác bỏ vào lồng kính cho nhân dân chiêm ngưỡng thờ cúng hay thiêu đi rồi rải tro ra khắp các miền trên đất nước như sở nguyện lúc ông còn sinh tiền? Cuộc trưng cầu dân ý bất thành do không có sự đồng thuận. Sau cùng, không ai biết được điều gì xảy ra với cái di hài đã từng ba mươi chín ký bị sụt xuống còn ba mươi bảy ký rưỡi của ông. Đó lại là một trong những bí mật quốc gia, chỉ dăm người có thẩm quyền được biết, và vĩnh viễn không bao giờ được tiết lộ với nhân dân.

Vị thi sĩ kiêm lãnh tụ qua đời trong lặng lẽ sau đó một năm, nguyên nhân không rõ. Trước đó, ông bị đám đệ tử truất phế một cách êm thắm. Dù rất nỗ lực chuộc lại lỗi lầm với chế độ nhưng ông vẫn thất sủng với những kẻ mới thay thế ông- bọn thi sĩ hậu sinh, tập tành gieo vần bằng các chương trình do máy vi tính xử lý- và ông bị tước hết mọi danh vị mà ông từng có; tất nhiên ông không còn chút quyền lực nào. Không còn ai có quyền nhắc hay nhớ đến ông, dưới mọi hình thức. Người ta tháo bỏ mọi công trình, tượng đài khắc hoạ về chân dung và cuộc đời ông. Cả những bài thơ đã từng được xem như châu ngọc của nền văn chương Việt và được đưa vào chương trình giáo dục cũng bị xoá bỏ trong đợt cải tổ giáo dục lần thứ hai mươi tám. Tuy nhiên, trong giới văn nghệ under-ground, người ta vẫn thầm lặng tổ chức những buổi tưởng niệm và đọc thơ của hai ông, như một cách thế thể hiện tinh thần hoà giải hoà hợp dân tộc.
Người ta cũng giấu biệt việc cái thi hài bảy mươi chín ký của ông được xử lý như thế nào. Đó lại là một bí mật quốc gia khác. Kẻ nào nhắc tới ông, kẻ ấy vừa phạm một trọng tội, dù cái tội đó không có trên bất cứ một văn bản luật pháp nào.

(Còn tiếp)

Comments are closed.