Trư cuồng (kỳ 13)

Nguyễn Xuân Khánh

Tiểu thuyết

Phần 2

Hành trình vào hỗn mang

Có tiếng ai gọi phía sau lưng

– Hoàng! Hoàng ơi!

Tôi quay lại. Một người đứng tuổi, râu ria xồm xoàn, tóc dài đến lưng, quần áo giản dị, đứng nhìn tôi bằng đôi mắt lóng lánh sự vui. Quen quá! Quái lạ! Sao bộ mặt quen đến thế?

– Không nhận được ra sao? – Bộ mặt xồm xoàm kia hỏi lại. Và nghe giọng nói ấy, tôi bỗng nhận ra ngay.

– Kìa! Tám! Anh Tám gàn!

– Khẽ chứ – Bộ mặt xồm xoàm đảo đi đảo lại, nhìn trước nhìn sau – Không nên để cho họ biết mình.

Tôi sung sướng khoác tay Tám gàn, vừa đi vừa nghĩ: “Thật đúng lúc! Có Tám, mình sẽ thấy hết cô đơn ở xứ sở kỳ quái này. ở xứ phù thuỷ này, nếu ta chỉ độc thoại, không chừng sẽ hoá điên. Đối thoại là liều thuốc vơi nhẹ”.

– Anh đến đây bằng cách nào?

– Đến lậu. Không có giấy nhập cảnh. Tôi là kẻ vượt biên.

– Để làm gì nhỉ?

– Để nghiên cứu. Để truy lùng.

– Truy lùng ai?

– Tội ác.

– Tôi không hiểu.

– Rồi anh sẽ hiểu…

Căn phòng Tám ở là một căn hầm để đồ, một nơi ở của những người gàn dở, một căn phòng của những kẻ thích xa lánh ồn ào. Căn phòng đó bề bộn, nhiều chai lọ, nhiều hoá chất lạ, nhiều dụng cụ cơ khí, điện, quang, nhiệt… Nhưng, nhiều nhất là những bình thuỷ tinh, với những nước hoá chất đủ mầu: xanh, lam, đỏ, da cam, tím, vàng…

Tôi thốt lên:

– Chỗ ở của anh giống nơi ở của những nhà luyện vàng thời cổ. Còn anh trông giống một phù thuỷ.

– Có thể đúng.

– Anh đang thực hiện một dự định không tưởng nào chăng?

– Tôi đã thí nghiệm một điều ít ai nghĩ tới. Tôi may mắn lạc vào một kho sách cổ, ở đó tôi đã tìm thấy một bản thảo kỹ thuật kỳ lạ.

– Tôi chán ngấy sự kỳ lạ.

Tám mỉm cười. Anh phân tích ngay phản ứng của tôi:

– Anh chỉ chán ngấy sự kỳ lạ vô nhân. Nhưng đây là sự kỳ lạ bổ ích.

– Anh đang sáng chế cái gì?

– Đúc một thứ gương, một thứ kính đặc biệt. Nhìn qua nó, ta thấy ngay bộ mặt thật của đời.

Tôi cười:

– Tức là anh đã sáng chế ra một loại “chiếu yêu kính” mà các bà tiên, bà phật xưa kia đã dùng nó để bắt bọn yêu ma quỉ quái phải hiện hình.

– Đúng. Nhưng vì kính của tôi chỉ dùng để tìm nhận chân tướng con người, nên tôi đề nghị gọi nó là “chân tướng kính”

– Phải chăng hôm xưa, tôi và anh đã nhìn thấy chiếc kính ấy đeo trên mắt Tchekhov? Chiếc kính không gọng?

– Cũng gần giống. Nhưng chiếc kính của tôi hiền hoà hơn. Nó không dùng để phát lộ chân tướng của những người nhỏ bé với cuộc sống tủn mủn, hoen rỉ, đáng thương. Nó câm lặng, thông cảm với những kiếp người sống dở chết dở, lúc này độc ác, nhưng lúc khác có thể tốt bụng. Nó nhoè nhoà trước tiếng khóc, và biết long lanh trước một nhành hoa. Nhưng, khi chiếu nó vào một kẻ độc ác đích thực, nó biết quắc lên như đôi mắt phẫn nộ, và bắt kẻ kia phải lộ nguyên hình.

– Đúng. Anh là một nhà luyện vàng hiện đại. Nhưng công việc đã tiến hành đến đâu?

– Tạm gọi là xong. – Tám trịnh trọng rút ở túi ra một chiếc kính rất bình thường, trao cho tôi.

Tôi sờ nó, ngắm nó. Chiếc kính trắng hệt như một chiếc kính lão. Tôi thử đeo nó vào mắt. Ô hay! Kỳ dị chưa! Qua chiếc kính, căn phòng của Tám chợt như vui hẳn lên. Những bình thuỷ tinh đựng nước mầu chợt biến thành những chú bé tinh quái, mặt áo sặc sỡ đang toét miệng ra cười. Kìa! Những con mắt như đang lấp láy với tôi.

Tám hỏi:

– Anh thấy ra sao?

– Thú vị. Qua chiếc kính của anh, tôi chợt thấy cuộc sống hồng hào lên.

– Nhưng sẽ có lúc nó sẽ cho anh biết thế nào là mầu xám ngoét. Tôi có hai chiếc. Tặng anh chiếc ấy. Nhưng anh nhớ đừng nên lạm dụng nó. Chỉ khi nào thật cần, hãy đeo nó vào mắt. Bởi vì nguyên lý của chiếc kính này là tha thứ. Tha thứ để mà tích trữ năng lượng. Có như thế, khi gặp tội ác ta mới có đủ năng lượng phẫn nộ. Bởi vì nếu anh luôn luôn phẫn nộ với những mẩu đời oan trái, thì sợ sẽ có lúctâm hồn anh bị ảnh hưởng, nhàm chán và sơ cứng lại. Rồi, đến khi gặp một tội ác lớn, trái tim sẽ chùn chân, và anh sẽ là kẻ lặng im tòng phạm.

Sau đó, Tám trầm ngâm nói nhỏ với tôi một điều; mà chắc anh chỉ hé mở:

– Khi du lịch ở xứ này, sẽ có lúc anh phải dùng đến chiếc kính của tôi.

– Đây là Cực – Thiên – Thai, xứ của niềm vui. Nhưng chiếc kính của tôi lại báo hiệu, đề nghị tôi phải nhìn bằng con mắt dè dặt. Chắc anh chưa hiểu rõ xứ này.

Tám dừng lại, uống nước, rồi trầm ngâm kể:

– Người đứng đầu Cực – Thiên – Thai tên là A1, hay còn gọi là công dân số 1. Có thể có bốn công dân B5, hoặc một trăm công dân I6, nhưng chỉ có độc nhất một công dân A1. A1 xây dựng đất nước này trên nền tảng triết học gọi là: chủ nghĩa cực kinh tế – cực duy lý – cực khoa học. Với ba ngọn cờ ấy, A1 đã hoàn thành được nhiều thành tựu kỳ lạ trên đất nước này.

– Tôi cũng đã thấy nhiều điều kỳ dị. ở đây, người ta không biết khóc.

Tám chợt có vẻ bồn chồn. Anh đi đi lại lại bên những hàng chai lọ. Rồi anh nói:

– Sướt mướt là món hàng rẻ tiền ngán ngẩm. Nhưng không biết khóc ư? Hừ! Nhân loại ở đây rồi sẽ ra sao khi những tuyến nước mắt teo tóp đi một cách điên rồ? Chỉ biết tiếng cười! Thật là một ý nghĩ tốt đẹp. Đời chỉ có hoa và tiếng cười. Ai nghe cũng thấy hay. Nhưng họ quên mất rằng, thiếu nước mắt con người sẽ trở nên hoang dại, điên rồ. Phải nói rằng nước mắt là một ân sủng vĩ đại mà vũ trụ đã dành riêng cho con người. Loài người chỉ tồn tại khi còn nước mắt. Hết nước mắt, hết con người.

Đột nhiên có tiếng gầm lên:

– Câm đi! Đó là một luận điệu phản động của một kẻ cuồng ngôn.

Tôi giật thót khi thấy hai người lạ mặt to lớn đã đứng sừng sững trong phòng Tám từ lúc nào chẳng hay. Đó là hai sĩ quan an ninh của xứ Cực – Thiên – Thai. Họ còng tay chúng tôi lại, rồi giải đi.

Tôi bị nhốt trong một xà lim suốt ba hôm, không ai hỏi han tới. Tôi buồn bã suốt ngày ngồi ôm đầu.

Hôm mới bị bắt, người ta nói rằng tôi đã dính líu vào một vụ gián điệp. Khi nghe vậy, tôi phản đối ngay:

– Gián điệp? Tôi mà là gián điệp sao?

– Đúng. Một loại gián điệp về tư tưởng.

– Các ông lầm to. Tôi chỉ là khách du lịch.

– Anh là khách du lịch giả danh. Còn tên kia là kẻ vượt biên. Nó là một tên gián điệp chính cống.

– Các ông không có bằng chứng.

– Sao lại không?

Viên sĩ quan bấm nút một chiếc máy phát. Cuộn băng ghi âm phát ra rành rọt tiếng nói của Tám:

“Không biết khóc ư? Hừ, nhân loại ở đây rồi sẽ ra sao, khi những tuyến nước mắt đã bị teo tóp đi một cách điên rồ? …”

Viên sĩ quan tắt máy, rồi tiếp:

– Mới đầu, tôi cũng tưởng các anh chỉ là những kẻ lạc hậu, nhưng khi chúng tôi phát hiện ra các anh đặt máy phản sóng ghi âm và ghi hình để vô hiệu hoá những con mắt điện tử của chúng tôi đã được chăng lưới, thì chúng tôi hiểu nhân dạng đích thực của các anh là những tên gián điệp.

Tôi bào chữa:

– Tôi hoàn toàn không biết điều đó. Và tôi xin thề với các ông rằng, cả anh bạn tôi nữa, anh ta chỉ là một nhà khoa học gàn dở. Sự điên gàn của Tám đã gây ra sự hiểu lầm cho các ông.

– Cả đến việc giả định các anh là những thằng điên, chúng tôi cũng đặt ra. Chúng tôi cũng đã kiểm tra bằng những máy tinh vi để đo những dòng tín hiệu của não các anh phát ra. Để cho những dữ kiện thu thập được hoàn toàn vô tư, chúng tôi đã tiến hành kiểm tra ngầm, không cho các anh biết. Kết quả: máy cho biết rằng các anh hoàn toàn không điên, mà lại là những con người tỉnh táo, thông minh. Vậy, tóm lại, chúng tôi kết luận các anh là gián điệp. Điều đó hoàn toàn chính xác.

Tôi kêu to:

– Xin đừng tin vào máy.

– Vậy, chúng tôi tin vào cái gì? Tin vào những lời nói vu vơ của các anh hay sao? Tội các anh đã quá rõ ràng. Các anh hãy chờ đợi sự trừng phạt.

– Trừng phạt?

– Chiểu theo pháp luật, tội gián điệp tư tưởng là phải tẩy não.

Tẩy não ư? Tôi ngồi phịch xuống ghế, run rẩy ôm đầu. Hôm trước, Mi đã kể cho tôi nghe pháp luật của xứ này. Tôi hiểu tẩy não nghĩa là chúng tôi sẽ được tiêm một hoá chất huỷ diệt chức năng tư duy. Nghĩa là, tôi vẫn sống, nhưng tôi không biết suy nghĩ nữa. Nghĩa là, tôi vẫn ăn, vẫn uống, vẫn lao động, nhưng tôi sẽ biến thành một thằng người ngớ ngẩn. Khi ai hỏi, tôi sẽ trả lời bằng một nụ cười rất hiền, nhưng ngây ngô; và người ta sẽ khen tôi: “Thằng này bây giờ khá, nó trở nên dễ chịu, thích hợp”. Nghĩa là tôi sẽ trở nên một cái xác chết biết cử động. Nghĩa là, người ta không muốn tôi chết thực sự, vì lý do kinh tế: Phải vắt cho hết cái chất kinh tế trong cơ thể một kẻ tử tù. Nghĩa là, tóm lại, tôi sẽ biến thành một cái máy, chỉ biết lao động cho đến khi tắc thở.

Hôm nay là ngày tù tội thứ tư ở xứ Vui, xứ Cực – Thiên – Thai. Hình ngục nan đào mà! Anh trốn đâu cho thoát. Đến trong những giấc mơ hoang đường anh cũng bị lưu đầy. Tôi chua chát, nghĩ thầm: “Ừ! Anh bị trị tội ở đây là phải quá. Bởi vì chỉ riêng cái tội anh buồn, không phải ở đây người ta mới trừng trị, trên thế gian còn nhiều nơi trị tội đó. Còn chuyện tẩy não? Rồi mai kia anh sẽ biến thành thằng đần, thằng ngốc. Ngốc ư? Thì bao giờ anh chả là thằng ngốc. Thiên hạ ai chả ngả theo kẻ mạnh. Còn anh, lúc nào cũng mải mê suy tư. Cái sự nghĩ nó làm khổ anh. Cục u đấy. Người ta sẽ cắt bỏ cục u hộ anh, giúp anh hành trình nhẹ nhõm. Vậy thì, u uất mà làm gì?”

Những ý nghĩ ngộ nghĩnh ấy cũng chẳng làm tôi khuây nhẹ chút nào. Tôi chợt như thấy đau đau trong đầu lâu. Tôi hoảng hốt nghĩ tới những mũi tiêm mà họ có thể trích cho tôi vào ban đêm. Chỉ nhói một cái. Thoảng nhẹ thôi, như một con rệp hoặc một con kiến đốt.

“Ôi chao! Đau quá! Tôi là thằng bị ăn cướp não sọ. Xin các người hãy trả não lại cho ta. Ta có tội tình gì? Ta chỉ muốn nghĩ, chỉ muốn làm con người. “Tôi thét to và bỗng dưng muốn khóc. Nhưng, nước mắt sao chẳng thấy chảy ra. Lại tiếp thêm một nỗi sợ hãi. Hay là… hay là họ đã nhỏ thuốc làm teo tuyến nước mắt của tôi rồi. Điều đó chắc chắn đã xảy ra, vì từ khi đến đây tôi đã mất cảnh giác. Tôi cay đắng, phẫn nộ: “Các người lại ăn cướp nốt cả nước mắt của ta ư?” Tôi gào thật to, và kỳ lạ chưa, trong cơn phẫn nộ nước mắt của tôi bỗng ứa ra ràn rụa. Mừng thay! Tôi sung sướng tiếp đón những giọt nước mặn nồng lăn xuống đôi môi. Tôi liếm láp như một chú mèo, khoan khoái tận hưởng vị đậm đà, sự vơi nhẹ của nó qua miệng và chảy vào máu huyết.

Hôm nay là ngày tù tội thứ năm ở xứ vui, xứ Cực – Thiên – Thai. Tôi ngồi đấy, trơ trơ ôm cái đầu lâu nóng bỏng. Những giọt nước mắt mặn nồng vẫn lăn xuống đôi môi thèm khát. Tôi nhớ rõ ràng một đêm nào đó, một bàn tay thơm ngát đã nhẹ nhàng nhỏ vào hai khoé mắt tôi hai giọt thuốc. Hai giọt thuốc mát lạnh làm tôi chợt tỉnh, và trong đêm đen, tôi chợt nhận thấy mầu hồng. Thuốc quỉ hay thuốc tiên? Chỉ biết rằng, mỗi buổi chiều về, tôi cứ thấy đôi mi mắt trĩu nặng. Đôi mi mắt phập phồng. Có lẽ những giọt nước mắt bị lưu đầy viễn xứ đã hoài hương, chúng lủi thủi trở về quê nhà, trở về quê Mắt, nhưng tấm tức vì không làm trôi ra được. Những giọt nước mắt héo hon vì chẳng được sinh sôi.

Trong vũ trụ, chỉ có hai loài biết khóc. Thứ nhất là loài đêm. Đêm xấu xí nhưng hiền hậu. Ai cũng sợ cái mịt mùng của nó, nhưng ai cũng yêu đêm. Mầm sinh sôi nảy ra từ đêm tối. Con tinh trùng gặp trứng từ đêm đen ướt át. Đêm nhỏ những giọt khóc long lanh đôn hậu, rắc những hạt sương ngọc, treo trên cỏ hèn lá úa. Thứ hai là loài người. Chẳng thấy ai tra hỏi gì về cội nguồn của nước mắt con người. Khoa học bảo nước mắt sinh ra từ tuyến lệ. Thật là một sự nhầm lẫn tai hại. Qua tự nghiệm, tôi đoan chắc rằng nước mắt chảy ra từ đáy thẳm tâm hồn. Tôi biết rõ điều ấy, vì bàn tay thơm ngát đêm xưa đã nhỏ thuốc huỷ diệt vào mắt tôi chính là bàn tay cô Mi. Bàn tay run run như ngập ngừng và hối hận. Tôi tha thứ cho cô gái lầm lạc, vì tôi linh cảm rằng nước mắt sẽ trở về với tôi.

Mấy hôm vừa qua, trái tim tôi vẫn phập phồng, nó vẫn thì thầm gọi những giọt nước mặn nồng trở về. Còn đôi mi mắt tôi thì vẫn trĩu nặng rưng rưng. Tôi đã trải qua bao âu lo, nghi ngờ, sợ hãi… Nhưng đến lúc này, thì nước mắt ấm áp lại từ nguồn thẳm trong tôi tuôn ra rào rạt.

Bàn tay thơm ngát của Mi đêm xưa run run. Tôi nhớ rõ ràng như vậy, bàn tay ấy đặt lên mặt tôi, vuốt ve, rồi ngập ngừng mãi mãi… sau cùng mới lẩy bẩy để rơi hai giọt nước xuống. Vì có sự ngập ngừng, lẩy bẩy ấy, nên tôi hiểu trong tận cùng của trái tim cô, cũng vẫn còn dư đọng một vài giọt nước long lanh. Cũng vì vậy nên tôi tha thứ cho cô.

Hôm nay là ngày tù tội thứ sáu ở xứ Vui, xứ Cực – Thiên – Thai. Tôi run rẩy ôm cái đầu lâu nóng bỏng ngồi chờ chết. Tôi được biết rằng ở đây người ta có cả một kỹ nghệ khổng lồ ứng dụng vật lý học, hoá học, sinh học… vào việc tẩy não.

Có thể người ta tiêm hoá chất để huỷ diệt tư duy. Có thể người ta dùng một dòng điện, kết hợp với một kỹ thuật đặc biệt nào đó, để làm tê liệt một bộ phận của não. Cũng có thể người ta dùng phẫu thuật để cắt bỏ, cấy ghép…

Tư duy bao giờ cũng gắn liền với ngôn ngữ. Như vậy, tôi có thể biến thành một thằng câm. Tôi cay đắng tự nhủ:

“Hoàng ơi! Đáng đời mày lắm! Sao mày lại cầm bút? Sinh ư nghệ, tử ư nghệ. Một nhà văn, một nhà báo lại vừa câm vừa ngốc. Đã thấy thú vị chưa? Mà mày cũng đừng nên oán thán; bởi vì đã có một kỹ nghệ không lồ tẩy não, thì ắt phải có một số đông người bị tẩy não. Vậy là, sẽ có một cộng đồng người bị câm hoá và ngu hoá. Vậy là, đã có một nhân loại bị khoét óc và cắt lưỡi. Mày sẽ không cô đơn. Cái nhân loại thảm thương ấy ít nhất cũng còn những bàn tay, ít nhất cũng còn tiếng bập bẹ cảm thương, để du dím mày, để sót sa cho mày, nếu không phải bằng nước mắt thì cũng bằng những tia nhìn hiền hậu. Cũng có thể mày còn cô đơn hơn mày tưởng tượng, bởi vì trừng phạt cũng chia ra nhiều mức độ. Sẽ có kẻ chỉ riêng bị câm; sẽ có kẻ chỉ riêng quên mất chữ; sẽ có kẻ bị mất riêng chức năng liên tưởng của óc; sẽ có kẻ chỉ còn nụ cười ngớ ngẩn; sẽ có kẻ chỉ còn biết hát như máy ghi âm… Người ta sẽ có biện pháp để phân hoá cái đám nhân loại tật nguyền ấy; để cho họ tự tố cáo lẫn nhau, tranh giành lẫn nhau, cấu xé lẫn nhau; để cho họ mất khả thể biến thành một cộng đồng có tiềm năng phẫn nộ. Trong cái bậc thang tật nguyền; kẻ nào bị hình phạt mất toàn bộ tư duy là nặng nề nhất. Mày ở trong số hiếm, vậy sự cô đơn của mày sẽ sâu đậm hơn. Có thể gọi Cực – Cô Đơn. Hiếm nhưng không phải là độc nhất; vậy mày vẫn còn có thể tự an ủi là vẫn còn có ốc đảo trú chân, mày vẫn còn những người bạn bè tật nguyền của mày, tuy ít ỏi…

Thiên chúa giáo có Thiên Đàng; Phật giáo có Niết Bàn; con người xây dựng Cực – Thiên – Thai. Vậy, tôi sẽ đi đâu, sẽ về đâu? Tôi làm gì nên tội mà tất cả các cộng đồng đều như muốn xua bỏ tôi, khai trừ tôi, thậm chí muốn ăn thịt tôi?

Một tiếng thầm quen thuộc bỗng văng vẳng trong óc:

“Kìa! Anh Hoàng, sao lại bi phẫn thế? Đừng nên bi kịch hoá cuộc sống. Tôi biết anh là người theo một tôn giáo. ”

Tôi cãi lại:

“Tôn giáo nào? Tôi chưa bao giờ phát nguyện. ”

Tiếng thầm như đùa cợt, lại vừa như nghiêm túc:

“Đạo Nước – Mắt. Anh quên rồi sao? ”

Tôi cáu kỉnh:

“Hừ! Đừng có đùa! ”

Nghe cứ như tiếng anh bạn thân suốt đời chỉ biết bông lơn. Nhưng cũng có thể là tiếng một anh bạn khác suốt đời chỉ biết nghiêm nghị. Và, cũng có thể là tiếng châm chọc của một người thù địch với tôi.

Tôi băn khoăn, chợt cảm thấy như có ai đương chăm chú nhìn mình. Tôi ngẩng đầu, và nhận ra người sĩ quan an ninh đang lặng lẽ đứng trước mặt.

– Ông đến tự bao giờ? – Tôi hỏi.

– Tôi mở cửa, vào đã lâu mà ông không biết.

– Nghĩa là ông bắt gặp tôi khóc?

– Lần đầu tiên tôi trông thấy người khóc.

Tôi châm chọc:

– Cảm tưởng của ông ra sao? Chắc khó chịu?

Người sĩ quan cười:

– Đó là một lĩnh vực mà… tôi chưa hề có kinh nghiệm. Nhưng… – người sỹ quan hạ giọng – nhưng… có lẽ người ta tha ông là phải.

– Ha ha… Tôi được tha vì tôi biết khóc.

Khuôn mặt cảm tình của người sĩ quan bỗng nhiên đanh lại và trở về sắt đá:

– Tôi khuyên ông nên nghiêm túc. Chính câu nói vừa rồi của ông có một hàm nghĩa phạm tội. Tôi nhắc để ông biết, ông là người may mắn. Chính công dân vĩ đại A1 đã tự tay ký lệnh tha ông. Nhiệm vụ của ông lúc này là phải sửa sang trang phục chỉnh tề, giữ cho vẻ mặt tươi tắn, để đi đến lâu đài cảm ơn lượng bao dung của người.

Cô Mi ăn mặc lộng lẫy trong bộ quần áo đỏ chói đứng bên một chiếc xe hơi sang trọng đậu trước cửa nhà giam. Mi đã mở sẵn cửa ca bin để tôi vào ngồi cạnh. Chính cô tự lái xe. Mi líu lo như một con chim:

– Được tin ông bị bắt, em lo lắng quá.

Tôi thầm nghĩ: “Cô bé này giả dối hay sao? Không biết buồn, sao còn biết lo lắng?”

À, cũng có thể… vì con người ta còn biết lo lắng lúc sợ hãi. Có lẽ sự lo lắng gần với cảm giác sợ hãi hơn cảm giác buồn. Và có lẽ ở xứ này người ta cho phép cảm giác sợ hãi và những hệ quả của nó được lưu hành. Ý nghĩ tàn nhẫn ấy vừa thoáng hiện hình tôi đã tự thấy xấu hổ, vì cô gái trẻ trung kia vẫn líu lo. Cô ta vui thực sự khi thấy tôi được tha.

– Mới một tuần lễ mà ông đã gày rộc hẳn đi.

Mi lái tay phải, còn tay trái đưa cho tôi một túi kẹo thơm phức:

– Ông ăn đi cho lại sức.

– Kẹo lại sức? – Tôi cười.

– Loại kẹo cực bổ dùng cho người mới ốm dậy. – Mi trả lời.

Tôi đưa kẹo vào miệng. Vị kẹo ngầy ngậy, nhan nhát ngọt và thơm phức. Ăn xong một chiếc, tôi thấy người tỉnh táo như vừa ăn xong một tiên đan. Tôi ngắm nghía chiếc túi giấy bóng mầu hồng, trong đó chỉ còn hai viên kẹo mầu xanh và hỏi:

– Kẹo làm bằng gì mà kỳ lạ vậy?

Mi cười:

– Đây là thứ kẹo bổ dưỡng, đặc biệt của riêng ngài công dân A1. Ăn ba viên kẹo này thừa chất sống cho ba ngày. Ngài A1 không muốn gặp ai với khuôn mặt hốc hác, mệt mỏi; chính vì vậy nên ông mới được biếu kẹo này để hồi phục lại sức khoẻ mất đi trong tuần lễ vừa qua.

Tôi vẫn đăm chiêu suy nghĩ, vẫn chưa hiểu nổi hết những diễn biến đã và sẽ xảy ra. Cuộc gặp gỡ giữa tôi và A1 mang ý nghĩa gì? Ông ta là người thế nào? Tôi phải đối đãi với ông ta thế nào? Nhưng Mi không cho phép tôi nghĩ lâu. Tôi bị cuốn vào câu chuyện líu lo của cô:

– Sau khi sự việc của ông xảy ra, em vội vã đến lâu đài, xin gặp ngài A1.

– Cô cũng có thể gặp ông A1 dễ dàng như vậy sao?

– Vâng. Bởi vì có lẽ em là đứa Con – Khoa – Học của ngài A1.

Thấy tôi có vẻ ngạc nhiên vì cái từ lạ lùng ấy, Mi phải giải thích ngay:

– Con – Khoa – Học, bởi vì mẹ em được thụ tinh nhân tạo bằng khí huyết của ngài A1. Cho nên, em được ngài cưng lắm. Em phải lạy van ngài và nhận xét thật tốt về ông…

Vậy ra, trước mắt tôi là cô “công chúa khoa học” của ngài tổng thống A1. Tôi cố tìm những nét đặc biệt của A1 trên gương mặt cô gái kiều diễm này: sự tỉnh táo đến độ tàn nhẫn chẳng hạn; sự thông minh quá mức dẫn đến độ ngu ngốc chẳng hạn; sự mê cuồng đến độ điên rồ chẳng hạn; sự phì nộn đến độ ụt ịt chẳng hạn. Đáng tiếc! Tôi chẳng tìm thấy gì. Và chỉ thấy Mi là một cô gái đẹp, nhanh nhẹn, năng động, và yêu đời… Tôi ngơ ngác khi nghĩ về di truyền. À… mà tại sao ta lại giáo điều hoá một lý thuyết khoa học. Tội lỗi tày trời của con người là đẻ ra các lý thuyết, rồi lại tuyệt đối hoá và giáo điều hoá những lý thuyết ấy. Loài người, từ ngàn xưa, đã tin vào di truyền dòng giống. Mỗi thời đại đều có cách bộc lộ và diễn tả tín điều ấy một cách riêng của nó. Có thể nói, tín điều ấy đã góp một phần vào việc chia tách con người, tạo hận thù giữa con người, và phân chia thang bậc, đẳng cấp giữa con người.

Bởi vì, mọi thời đại đều không hiểu hết: “Con người là vũ trụ”. Mi của tôi cũng là một vũ trụ riêng.

Ở đây, có lẽ làm nghề phiên dịch, nghề phải luôn luôn tiếp xúc với người nước ngoài, phải là những con người đáng tin cậy. Một số nghề khác cũng phải có yêu cầu như vậy. Và để tạo ra một màng lưới thân tín, người ta lại sử dụng cách ràng buộc bằng huyết thống. Để làm việc đó, người ta đã thụ tinh nhân tạo cho những người đàn bà đẹp bằng những con tinh trùng siêu đẳng rút ra từ tinh hoàn những ngài lãnh đạo.

Cũng nhờ thế, cô công chúa Mi xinh đẹp mới được ra đời. Quĩ đạo của đời cô đã được chương trình hoá, đã được định sẵn. Nhưng, may thay! Cô Mi của tôi vẫn là một cô Mi riêng lẻ, cô Mi vẫn là một vũ trụ, với nhịp điệu con tim khác hẳn mọi người. Cô không biết khóc, nhưng chắc chắn cô có cách rung động riêng khi đối đãi với ngoại giới. Vũ trụ Mi cộng hưởng với vũ trụ xung quanh; nhưng vì nó là một vũ trụ riêng lẻ, nên có thể một lúc nào đó, nó không nằm yên đúng chỗ mà vũ trụ to hơn qui định cho nó; thậm chí cái vũ trụ bé bỏng ấy có thể như một con bướm ham chơi, bay la đà, mê mải những mầu hoa quyến rũ, để rồi có lúc bay khỏi cái vũ trụ to vốn thích bao ôm lấy nó.

Chính vì vậy, nên cô Mi của tôi mới là cô Mi kiều diễm đến lạ lùng thế kia. Tôi doan chắc rằng ngài A1 phải là một con người phì nộn, nhưng Mi thì lại thon thả. Ông bố khoa học ấy có thể có đôi mắt nhỏ, sắc, và lạnh lùng, nhưng cô công chúa của tôi lại có đôi mắt rất to, thông minh, ngơ ngác. Cái vũ trụ ngơ ngác nai vàng ấy, cái vũ trụ líu lo vành khuyên ấy, được sinh ra theo kiểu sản xuất hàng loạt, theo mô hình: “Hăng hái nhiệt tình + Líu lo vô tư + Không nước mắt”.

Tôi nghĩ rằng được tiếp xúc với tôi, lần đầu tiên, Mi đã gặp Nước – Mắt. Và Nước – Mắt cũng có tiếng gọi riêng của nó, tiếng gọi thì thầm ấy có thể lay động cái đáy thẳm trong Mi …

Phải nói thêm rằng hành động bảo đảm cho tôi sống có thể sinh ra do những xung động đáy thẳm ấy chăng? Chỉ có những xung động đáy thẳm mới kêu gọi nổi con người làm một công việc liều hiểm. Mi đã phải liều hiểm để cứu nguy cho một thằng giặc.

Đứng ở góc độ thống trị, người ta có thể xếp tôi vào loại giặc. Theo chính trị học, con người có hai chiều độ: thống trị và nổi loạn. Vậy bất kỳ con người nào cũng có chất giặc mà biểu hiện phôi thai của nó là sự phản đối, sự không bằng lòng.

Thống trị sáng láng trung hoà chất giặc bằng sự công bằng và dân chủ. Thống trị xảo quyệt ru ngủ chất nổi loạn bằng thuốc phiện tư tưởng. Thống trị tàn bạo bóp nghẹt phản đối bằng tù đày súng đạn.

Thống trị ở xứ Cực – Thiên – Thai đàn áp nổi loạn bằng tiếng đàn, tiếng loa, bằng hoá học (tiêm thuốc cho rụt lưỡi, cho liệt tay chân…), bằng sinh học (thụ tinh nhân tạo để gây giống người ngoan)…

Họ biết gốc rễ mầm loạn là bộ óc, nên họ tập trung vào tấn công bộ óc; họ bới tung chất xám để nhổ từng sợi rễ li ti.

Họ định nghĩa Thiên Thai là nơi không có loạn. Tề Thiên Đại Thánh ngày xưa đánh lại Trời; Trời còn có loạn; thế mà ở xứ Vui, hết loạn. Muốn đạt được ý muốn, họ cố tìm tòi trăm phương ngàn kế: nào tiêm, nào cắt, nào đâm, nào chọc, nào nhào, nào nặn, nào bóp, nào giữ, nào khép, nào đậy, nào xoa, nào đánh, nào doạ, nào cho, nào co, nào kéo nào làm méo làm xệch, nào làm teo làm tóp… cốt để biến bộ não thành vô dụng, hoặc vô hiệu hoá nó đi.

Trên đường xe chạy, tôi cứ miên man nghĩ ngợi như vậy. Tôi sực tỉnh khi xe dừng lại trước một toà lâu đài cao ngất trời.

Ra khỏi xe, tôi ngẩng đầu lên và bị choáng ngợp ngay vì chiều cao của nó. Tôi để ý, ở đâyngười ta nuôi khá nhiều đại bàng, những con chim chuyên sống ở những đỉnh cao. Nhưng đại bàng ở xứ này chỉ đậu nổi trên những đỉnh tháp của những công trình phụ cận, tức là ở những tháp của những lâu đài phụ cao khoảng vài trăm mét. Còn đỉnh của toà lâu đài chính không trông thấy bóng chim. Hoặc giả, nếu có con nào ở trên ấy, thì bóng nó phải tan loãng vào không gian vì độ cao quá mức.

Đặc điểm về xây dựng ở xứ này, người ta dùng toàn vật liệu chất dẻo; những ngôi nhà ni lông đủ mầu. Nhưng toà lâu đài, biểu tượng của xứ Vui lại được xây dựng bằng đá hoa. Dáng hình của nó phảng phất giống một quả tên lửa khổng lồ, nhưng cũng phảng phất giống một nhà thờ.

Có thể nói, đó là nhà thờ độc nhất ở xứ Vui. Đó là nơi Ngài công dân A1 ở và làm việc; nhưng đó cũng là nơi mọi công dân đều có thể đến vui chơi, ca hát, hội họp và chiêm ngưỡng. Phải nói Chiêm ngưỡng, bởi vì mỗi năm Ngài công dân A1 bao giờ cũng xuất hiện trước công chúng ở đại sảnh đường của lâu đài ba lần, ngày đầu năm và hai ngày lễ trọng đại.

Người bao giờ cũng ra mắt công chúng vào ban đêm. Đại sảnh đường đủ chỗ ngồi cho năm vạn dân. Người xuất hiện, đứng trong một buồng pha lê mầu hồng. Đúng giờ tất cả các đèn đều tắt phụt, căn buồng pha lê hồng ở trên vòm cao trước mặt đột nhiên rực sáng. Nó toả ánh lung linh. Gương pha lê làm cho Người trở nên khổng lồ vĩ đại. Người đứng đấy, và cúi xuống để tiếp xúc và rao giảng cho thế gian, bằng một diễn từ bão tố. Còn tất cả các công dân đều ngẩng đầu lên, ngước nhìn ánh hồng vời vợi mà nuốt, mà hôn, mà thấm, mà ngất ngây chiêm ngưỡng. Những lời bão tố vàng ngọc như có ma thuật được khắc sâu vào tâm hồn họ, nó biến thành một bản pháp luật ngự trị trong trái tim họ… Cũng chính vì lẽ đó nên nghĩ lâu đài đó là nhà thờ của xứ Vui.

Mi đứng giữa vườn hoa mênh mông giới thiệu cho tôi về toà lâu đài Bất tử:

Toàn dân, tức là một trăm triệu người đều tham gia xây dựng toà lâu đài ấy trong mười năm. Lâu đài cao, to, nên cần một không gian rộng thoáng mới cân xứng, chung quanh lâu đài là một vườn hoa bao la rộng chừng vài trăm héc-ta. Các cụ già trong toàn xứ phải đi tìm kiếm hoa quả quý gửi về và tự tay trồng. Trẻ nhỏ khắp nước phải thay phiên nhau đến tham quan và chăm sóc hoa. Toà lâu đài là một công trình trường cửu nên phải xây bằng đá quý. Lâu đài hàng trăm tầng, mỗi loại tầng xây một loại đá. Những tầng thấp xây đá đen, đá xám, những tầng trên là những loại đá có vân đủ mầu: xanh, đỏ, vàng, lam, tím, lơ… Loại đá nào trong thiên nhiên không có thì xí nghiệp vật liệu xây dựng phải tự làm ra, sao cho các mầu phải đúng như thiết kế. Tầng trên cùng xây bằng đá đỏ. Và chót vót trên đỉnh là một ngọn đèn cực mạnh, ánh sáng của nó, đứng cách nhiều dặm xa cũng nhìn thấy.

Chỉ riêng sự đồ sộ, nguy nga và cao vút của nó đã làm cho người mới tới phải phát ngợp, phải cảm thấy mình nhỏ bé và phải tự khép nép khuôn mình vào thái độ nghiêm trang kính nể. Kiến trúc ở đây cũng tham gia thống trị.

Cám ơn cái bộ oác nghĩ ngợi viển vông, liên tưởng xa gần, lông bông và hão huyền của tôi, cũng nhờ nó nên tôi đã không bị choáng ngợp, không bị đánh bẹp trước khi vào gặp ngài công dân A1.

Con người khổng lồ đầy cơ bắp đang ngồi trong chiếc ghế bành giản dị ấy chính là A1. Không hiểu sao một cảm giác rất lạ lùng bỗng đột dậy trong tôi mà không phân tích nổi. Tại sao lại có cảm giác lạ đến mức sửng sốt ấy nhỉ. Phải chăng tại mớ tóc mầu hung? Phải chăng tại cách ăn mặc khiêm nhường? Chỉ giản đơn một chiếc quần dài mầu xanh thẫm và chiếc áo sơ mi trắng cắt bằng thứ vải thường.

Tôi ngẫm nghĩ rồi ngắm nghía căn phòng. Ngược lại với kiến trúc của toà lâu đài quá ư cao vút quá ư đồ sộ, quá ư xa hoa và phức tạp, sự bày biện bên trong gian phòng của A1 lại quá ư đơn giản. ở đây vắng mặt gấm vóc ngọc ngà. Cũng vắng mặt cả vàng bạc, pha lê…

Nhưng tôi bị thu hút bởi con người khổng lồ ấy. Mắt tôi rời những đồ đạc và lại tập trung nhìn A1.

Bây giờ thì tôi hiểu cái cảm giác lạ lùng ấy rồi, đó là cảm giác về sự thân quen. Đúng, tôi cảm thấy như đó là một con người đã quen với tôi từ lâu lắm rồi.

Đôi mắt nhỏ và sắc lạnh… Gương mặt vuông chữ điền cứng rắn đến độ lì lợm… Thân hình cao khoảng một mét tám mươi, to lớn… Cái bụng phệ đẫy đà…

Sự tưởng tượng của tôi về A1 lúc chưa gặp mặt so với con người thật lúc này không xa nhau mấy tí. Tôi đã gặp con người này ở đâu rồi nhỉ? Khi ta còn lang thang ở Việt Bắc, Tây Bắc… hay giữa vòng bom đạn khu tư… hay ở ngay trong lòng Hà Nội? Không! Ta nhầm rồi. Con người này hoàn toàn xa lạ. Những con người ta đã gặp có đường bệ như thế này đâu. Kìa cái vung tay đầy quyền uy đối với ta hoàn toàn mới mẻ.

Lúc nãy, Mi đã nói với tôi rằng, được gặp A1 là một đặc ân hiếm có. Cô ta chỉ bảo cho tôi những cung cách đi, đứng, ăn, nói, nhưng lúc này tôi chẳng nhớ gì nữa cả. Thấy tôi ngây người nhìn, Mi tỏ ra lo lắng, cô ta huých khẽ khuỷu tay, nhắc nhở tôi chào hỏi, nhưng tôi vẫn đứng lặng. A1 phải tự thân phá tan không khí lúng túng:

– Ông Hoàng! Ông Hoàng! Đừng nên nghĩ ngợi gì về sự hiểu lầm vừa qua nhé.

Mi rót cho chúng tôi hai cốc bia, rồi bước ra khỏi phòng. Tôi vừa uống, vừa cố nhớ lại quá khứ, để soi tìm nhân dạng con người đang ngồi trước mặt tôi. Trong khi ấy A1 vẫn nói thao thao. Có lẽ ông ta đã khoe khoang với tôi về những dự định to tát sẽ được thực hiện ở Cực – Thiên – Thai. Nhưng tôi có nghe thấy gì đâu. Phải chờ đến lúc bàn tay hộ pháp của A1 đập vào vai, tôi mới sực tỉnh. Giọng ồ ồ của ông ta vang lên như một tiếng chuông rè:

– Ông Hoàng thấy thế nào?

– Ngài muốn hỏi ý kiến tôi về điểm gì?

– Về những điều kỳ diệu mà ông đã tận mắt thấy, tai nghe.

– Choáng ngợp!

– Hay! Hay! – Ngài A1 vui hẳn lên – Một tính từ có tính chất tâm lý, diễn tả sự ngây ngất của con người trước những thành tựu ngoài trí tưởng tượng. Nhiều người trên khắp thế gian đã đến đây: những nhà bác học, những nhà văn, những danh nhân cỡ lớn. Tất cả đều ca ngợi: nào là vĩ đại, nào là tuyệt diệu, nào là không thể tưởng tượng, nào là cực kỳ hiện đại… Nhưng, xin lỗi ông, tôi nghe những từ ấy đã quá nhàm tai, toàn những lời mòn cũ, sáo rỗng… Bây giờ, ông lại khen chúng tôi bằng một từ hoàn toàn mới mẻ: Choáng ngợp. Hay! Hay! Để cho gọi ông tiến sĩ ngôn ngữ C2 lại đây, ghi từ ấy vào cuốn sổ vàng.

Tôi mỉm cười:

– Xin lỗi ngài A1. Từ Choáng ngợp của tôi mang hai hàm nghĩa; nó vừa khen, lại vừa chê.

– Chê ư? – A1 chăm chăm nhìn tôi, dò xét, rồi cười. Ông táo bạo thật. Tôi chưa thấy ai đặt chân lên đất này lại dám chê bai… Nhưng, không sao! Không sao!… À, có thể vì ông chưa hiểu hết những nguyên lý cơ bản… của đất nước chúng tôi.

(Còn tiếp)

N.X.K.

Comments are closed.