Dấu tù

Truyện ngắn Dạ Ngân                                                              

 

Bạn thân của chồng tôi ở P lên. Đi cùng T là một ông già năm ấy chừng tám mươi tuổi, thâm thấp, tóc rễ tre, tráng kiện. Khi chồng tôi reo lên tên của ông già và chạy xuống chân cầu thang chung cư đón, tôi mới biết thế là dù muộn tôi cũng được diện kiến một con người đáng để tò mò nhất trong số những người Hà Nội bí ẩn. Một ý nghĩ lóe lên như một ánh dao: Trời ơi, hai vị tù nhân nổi tiếng đang cùng đi với nhau và cùng đến nhà tôi, thật là vinh dự nhưng là thứ vinh dự chết tiệt nào đây?

T hăm hở đi trước, dù anh đã sắp lên thất tuần thì so với Ông già, người tù nhiều thâm niên kia, anh cũng còn trẻ chán. Gương mặt thâm trầm, ánh nhìn điềm đạm, T như một người đã đi qua một cuộc chiến của chính mình và đã tìm lại được những gì thân thuộc nhất. Tôi ôm lấy vai T, cảm thấy sự ấm áp đặc biệt giữa tình bạn của anh và chồng tôi, những người đàn ông có cùng mẫu số chung: thời niên thiếu trong cuộc chiến thứ nhất, thời thanh xuân trong cuộc chiến thứ hai và thời trung niên cơ khổ dù người ở trong song sắt và người kia, cũng dưới một cái lồng mà nhà văn nào cũng cảm thấy.

Chung cư cũ đất Hà Nội, phòng khách “nhỏ bằng lỗ mũi” – chữ của chồng tôi, đúng hơn, đó là một cái ổ của hai con kiến cần mẫn. Có khu nhà, chạm toa-lét trước rồi mới phòng khách sau, nghe đâu hồi đó là sáng kiến đầy tinh thần hữu nghị của người Bắc Triều Tiên anh em. Ở chỗ chúng tôi không đến nỗi như thế nhưng một căn hộ phân phối cho hai gia đình và chúng tôi đã mua lại cả sự phiền toái ấy. Đang ngày áp Tết, hai lớp chiếu trên nền gạch, chủ và khách đều không lấy đó làm ngượng, T còn nói vui, đó là văn hóa Hà Nội có từ thời ước mơ thế giới đại đồng. Tôi để ý đến chiếc túi vải màu nâu trên tay T, nó khá nặng nhưng có vẻ rất kín đáo và anh đang lui cui xem nên cất nó vào chỗ nào. Sao vậy T? Sao anh lóm khóm với cái túi đó vậy? Tôi nói to lên và T vẫn cứ mắt trước mắt sau khi tìm chỗ cho cái túi.

– Sách mới của cậu hả? – chồng tôi đoán – Hay quá, bọn mình đã đọc nó từ cô bạn đầu nậu. Tuyệt vời!

 Lúc này T mới lấy lại bộ dạng bình thường, hào sảng:

– Thế a? Mình phải cảm ơn cậu đã khuyên mình viết lại nó với tâm thế khoan hòa. Chính vì vậy mà mình phải đến tận nơi để biếu sách cho vợ chồng cậu. Chuyện đó để sau, bây giờ bọn mình phải dành thời gian cho ông anh đây đã.

Từ nãy đến giờ, Ông già vẫn chưa nói tiếng nào. Ông như một cái cây trụi cành, người ta công kênh đi như thể triển lãm di động từ ngày ông lấy lại quyền công dân, tôi đoán vậy trong sự tò mò ngày càng trầm trọng. Kín tiếng nhưng tao nhã. Khỏe mạnh so với tuổi nhưng rất hay nhìn xuống. Hình như không còn thói quen ngước nhìn khi trò chuyện với người đối diện. Chúng tôi vui mừng thực sự, chúng tôi ngưỡng mộ và quan tâm đến ông thực sự nhưng ông vẫn ngồi cúi gằm như thể đang “đi cung” vậy. Đó là dấu hiệu lạ đầu tiên, đập vào mắt tôi về một người liên quan đến vụ Nhân văn Giai phẩm và là người đi tù lâu đến nỗi còn không hay đất nước đã hòa bình, đã hết chiến tranh, đã ai về nhà nấy!

Đã đến lúc tôi xin phép để vào bếp. Chồng tôi xuống theo, như thể van cầu:

– Tủ lạnh nhà mình có cá không? Anh biết Ông già đặc biệt thích cá. Em xem đi tù cả một đời thì gì mà chả thèm. Nhưng ông không vợ không con, cá chắc là thứ đàn ông độc thân khó thực hiện nhất.

Tôi không khó chịu khi chồng bỗng dưng lắm lời. Trông anh đặc biệt ân cần và trang trọng. Anh có bốn người bạn chí cốt, một người độc thân để nói mọi chuyện ngả ngớn về đàn bà; một người để tranh cãi và “khai sáng anh ta” – chữ của chồng tôi – về triết lý sống nhập cuộc hay đi ở ẩn; một người cùng thời thơ ấu để thù tạc chuyện quê và những món ăn “dân tộc Nghệ Tĩnh”. Riêng T là để tri kỷ về mọi lẽ, về nghề, về đời, về thời và thế. Tôi thuộc lòng những vấn đề mà chồng và T nói với nhau và tôi ít khi rời mắt khỏi T vì dấu tù không thể phai mờ trong cung cách của anh, thậm chí trong con người anh. Nhưng nay, trước mắt tôi, bên cạnh Ông già thì T lại giống một “bệnh nhân đã cũ”, có thể nói, so với ông, T đã “hồi phục” hoàn toàn. Chồng tôi trọng thị Ông già không phải vì trắc ẩn. Anh có nhiều lý do để cảm ơn sự can cường của ông trong lao tù để ông trở thành một người như hôm nay, một tượng đài về ý chí và sự ngay thẳng.

Dạo ấy cá mè Hồ Tây của Hà Nội còn được kính trọng. Hồ khá sạch nên cá còn thơm. Tôi đặt các thứ lên mâm rồi đưa nó lên tấm chiếu trong phòng khách, nơi Ông già chưa rời khỏi nó từ nãy đến giờ. Nguyên cái đầu và đuôi cá nấu riêu, tôi đưa chúng ra để trên hai cái dĩa, tô nước canh để ở giữa, lất phất thì là và hành tươi. Cả khúc giữa của cá tôi hấp gừng, ăn kèm với xà lách và rau kinh giới. Tôi từng được T khen là “nhà văn nữ có biết nấu ăn”. Chồng tôi rất hay tiếp bạn ở nhà cũng vì tôi giỏi gói ghém, công phu. T nhìn chai rượu nếp chủ nhà khoe mua từ một nhà hàng xóm, T bảo chỉ thiếu cái nút lá chuối nữa thì không khác thời của Nguyên Hồng. Chồng tôi tự trào, hôm nay không nói chuyện tội tù và chính trị, chỉ nói chuyện Nhân văn giai phẩm thôi. Chúng tôi cười lớn, riêng Ông già vẫn ngồi lắc lư và gừ gừ trong cổ họng. T khẽ lắc đầu:

– Tớ không dại nói chuyện Nhân văn, tớ không muốn đi tù nữa đâu.

Thực ra T chỉ là nạn nhân của hai vị lãnh đạo công an ở P, kiểu “trâu bò húc nhau ruồi muỗi chết”. Ông già mới thực sự bén duyên với “bè lũ Nhân văn”, có lẽ vì vậy mà ông mới lập kỷ lục về thâm niên tù. Xem ra ông không còn thiết đến những chuyện ông đã trải qua và phải kể đi kể lại khi nhiều người tìm đến để an ủi, cảm thông và giúp đỡ. Xem ra ông chỉ muốn nhanh chóng được cầm đũa mà thôi.

Màn nâng ly thuần túy thủ tục vì Ông già vẫn dán mắt vào mâm. Có thể nghe cả tiếng ông nuốt nước miếng vì thèm. Chúng tôi đưa mắt cho nhau và lẳng lặng để ông bắt đầu hành trình tự bù đắp của người kinh niên thiếu thốn. Hình như T đã quen với cung cách của ông nên anh đứng dậy, đi lấy sách để ký tặng chúng tôi. Thế là hai con người tri kỷ đã có đề tài riêng để nâng lên và đặt xuống. Tôi dành lấy phần ngồi yên với Ông già. Hình như người tù lâu năm đặc biệt thích đầu cá. Ông lặng lẽ xộc đũa vào mọi góc, lặng lẽ và mê mải. Một đũa cho cái môi. “Đầu trôi môi mè”. Tại sao tôi lại có vẻ mất lịch sự khi không rời mắt khỏi ông, cái thói quen nghề nghiệp chết tiệt đây mà. Hai lần đũa cho hai hố mắt. Đừng sợ ông mắc xương, ông rất thạo và rất giỏi, như một con báo với miếng mồi của nó. Tôi đẩy sang phía ông cái đuôi cá. Ông đặc biệt thích xương, cái chút đuôi béo ngậy. Nhanh và khéo. Đến khúc cá hấp thì ông chậm lại, và xộc thẳng vào phần bụng, nơi trắng nhất và ngon nhất của con mè.

Tôi chợt nhớ một người cũng từng bị tù. Nhưng mà là tù của chế độ Ngô Đình Diệm. Khi tôi vào Cứ ở miền Tây thì ông đã ở đó, tức là đã thành cựu tù nhân Chí Hòa. Ba tôi là liệt sĩ Côn Đảo nên ai bị tù mà thoát được, tôi phục lắm. Sâu xa, tôi thấy gắn bó với người này chỉ vì ông có cái mác tù, giống ba tôi. Ông hiểu rộng, biết nhiều, Việt văn giỏi, nói chung tôi học được ông rất nhiều từ kiến thức đến cách hành văn, đặt chữ. Nhưng tôi đặc biệt khó chịu khi đến bữa cơm mà có ông. Ông ăn uống quá cần mẫn, không khi nào gác đũa để dừng lại chuyện trò và rất hay ngồi xổm trên nền tấm liếp, chỗ đặt mâm ở chòi Cứ. Tình cảm với ông trong tôi lên bổng xuống trầm mỗi ngày như vậy. Đơn giản vì ngày luôn có hai bữa cơm và hai buổi làm việc. Ông là thầy của tôi về nghề nhưng ông là đứa con nít không biết kềm chế khi ăn uống. Một lần đang khuya, bỗng tôi nghe thấy từ trong chiếc mùng của ông vọng ra tiếng cắn và tiếng nhai lóc cóc. Thời đó người kháng chiến hay bù đắp năng lượng bằng những gói kẹo đậu phộng mua ở xuồng hàng của phụ nữ nông dân, từng gói nửa ký một, ăn tới đâu ngọt thao miệng mồm tới đó. Người ở Cứ không lương, ai được gia đình chu cấp nhiều thì xênh xang trà lá kẹo thuốc, ông chú thầy chữ của tôi cũng có bà vợ đảm đang ở hậu phương nên ông luôn có kẹo đậu phộng trong ba lô. Nhưng ăn cùng với đồng đội khác với ăn chui ăn lén một mình, trong đêm. Từ phát giác đó, tình cảm với ông trong tôi cạn kiệt hẳn. Hòa bình, ông trả áo cán bộ về quê với vợ, chắc sự thiếu đói trong ông đã tới đáy, ông không chịu đựng nổi nữa. Tôi vẫn nhớ ông, loáng thoáng ân hận đã lạnh nhạt mà không giải thích, vì cái tiếng nhai kẹo lóc cóc trong đêm khó diễn tả quá. Cho đến khi tên tuổi ông lại nổi lên, ông là Hội đồng nhân dân huyện và ông “bị” mang tiếng là “đầu têu cho dân khiếu kiện đất đai”. Một lần ông tìm đến chỗ tôi, bảo phải giúp ông, nghĩa là giúp dân huyện trị mấy thằng quan thằng quyền nó cướp hết đất đai của dân. Tôi mời ông ở lại. Và ông ăn, bữa cơm ông vẫn ngồi xổm trên ghế, vẫn cần mẫn không thôi. Sao lại có hai con người trong ông như vậy, nhiệt thành với người khác với lẽ phải nhưng riêng với cái nết ăn thì ông không phải chút nào?

Khi T và chồng tôi quay lại với mâm cơm thì Ông già đã tấn công gần xong khúc cá hấp trên dĩa. Cái đầu con mè trơ lại một đống xương trắng hếu. Tôi đã hình dung được. Bạn tù Côn Đảo của ba tôi sau này kể rằng, một ngọn cỏ bên miệng cống họ cũng ngấu nghiến được vì thèm rau xanh quá. T cũng từng kể, rằng đang đi lao động, anh vớ được con rắn mối nhỏ xíu, thế là ép trong ống tay áo và khi các bạn tù không để ý, anh đã nhai sống nó. Còn Ông già, ông đã lén ăn gì để vẫn chịu đựng được từng ấy năm và vẫn có sức khỏe khác thường kia? Im lặng đã là thuốc, không sợ bẩn cũng là một phương thuốc và có thể cúi đầu trước sự nhục mạ, cũng là thuốc để vượt qua tháng ngày. Chính vì vậy mà mới có hôm nay, ngày một cây khô trụi cành được người đời công kênh lên giữa trời và đất. Ông đâu phải loại tù chết cũng vinh quanh, ông là người bị cho là phản loạn, ông chết người ta sẽ vui mừng. Nhưng ông đã không chịu chết!

T đứng lên để lại tìm chỗ cất kín cái túi vải màu nâu dù là anh đang ở trong nhà của chúng tôi, không việc gì phải sợ. Dấu tù ở T dù nhạt, nhưng vẫn còn đó, sự cóm róm quen thuộc và luôn sợ bị lấy đi cái quý nhất của mình. Dấu tù của Ông già đậm quá, tôi nghĩ, đậm đến nỗi ông không còn biết nó đang tồn tại dai dẳng trong ông, ông không biết để mà điều chỉnh hay tẩy rửa nó nữa.

Có tiếng đập cửa. Người cùng căn hộ, tức cùng cửa chính với chúng tôi đang về. T hốt hoảng bảo tối nay bọn mình ngủ lại thì có cần đăng ký với công an không? Chồng tôi cười lớn, sắp sang thế kỷ Hai mươi mốt rồi ông bạn ơi. Ông già mặc hết, khúc cá hấp đã được thanh toán, gọn gàng, sạch sẽ, mớ xương lại được thu xếp một cách ngăn nắp trên mâm nữa chứ. Ông sợ gì mà dọn cả xương vậy Ông già?

Nhưng tôi, tôi đã sợ gì mà mãi tới bây giờ tôi mới dám viết về loại chuyện này, tôi chần chừ hay tôi cũng có dấu tù mà không biết?           

Thanh Đa, tháng 12/ 2011

 Tác giả gửi Văn Việt.

Comments are closed.