Đồng bằng (kỳ 4)

Nguyên Ngọc

NGUYEN NGOC.QUANKHU 5.1963

 

Nhà văn Nguyên Ngọc ở căn cứ Quân khu 5, năm 1963

Cuối tháng 4-1965 tôi rời Bình Định, trở về quân khu lúc này vẫn đóng ở vùng núi Nam Quảng Nam. Vùng giải phóng đã mở rộng thênh thang, địch cụm lại ở các thành phố, thị xã và từng đoạn trên quốc lộ 1. Nông thôn đã về ta. Đường giao liên không phải leo mãi Trường Sơn cao tít nữa, nay men dọc theo triền đồng bằng ven núi, xơ xác nhưng vẫn vui.

Nhưng lạ thế, tôi đi, không vui. Ray rứt một nỗi nhớ và lo mơ hồ. Nhớ Tâm không nhiều, thật vậy. Tôi vẫn coi Tâm là cô em gái nhỏ rất thân thương, thương nhất, và biết rõ dầu về sau thế nào đi nữa anh em vẫn sẽ thương nhớ nhau suốt đời. Chỉ hơi ngại cho Tâm. Tôi biết tính Tâm, rất hăng, rất “bôn”, xông xáo và tự trọng cao, những kiểu người như vậy mới chân ướt chân ráo vào chiến trường thường rất dễ hy sinh. Ở chiến trường, phải dũng cảm nhưng phải biết khôn nữa. Tâm thừa dũng cảm, nhưng biết khôn thì chưa nhiều… Nhưng rồi chiến trận sẽ dạy cho tất cả, tôi nghĩ…

Nhớ day dứt là nhớ Phước Lý. Nhớ cô gái biển hồn nhiên và đằm thắm, kín đáo và táo bạo “của tôi” ở đấy. Nhớ chị Ngũ, chị Công, nhớ Trác, Dạt, Tùng, Ngãi… một nhúm du kích Phước Lý của tôi. Nhớ các mẹ, các chị, các cụ, các cháu, toàn một loại dân biển thật thà nhưng táo tợn, ăn sóng nói gió, liều lĩnh và nghĩa tình… Nhớ da diết, dữ dội, cho đến nỗi nhiều lúc đã muốn vứt bỏ tất cả, mặc điện quân khu gọi, cứ liều quay trở lại Phước Lý. Nhớ ghê gớm và đau đớn đến vậy, bởi vì tôi biết, biết một cách vô lý nhưng chắc chắn rồi có lúc tôi sẽ… quên họ, tất cả họ. Bởi vì họ là vô số, vô danh, là tất cả nhưng đồng thời chẳng là gì cả trong cuộc chiến, cuộc đời ồ ạt, nháo nhào này. Họ chỉ là nhân dân. Mà nhân dân thì bao giờ, thời nào cũng sẽ bị bỏ quên, một khi “sự nghiệp anh hùng” đã xong, đã đi qua. Chính tôi cũng sẽ quên. Nhớ đau đớn đến như là một ân hận, một thú tội trước vậy…

Tôi đi lang thang, chần chừ suốt dọc đường giao liên từ Bình Định về Quảng Nam, lẽo đẽo mang cái nỗi buồn nhớ lẩn quẩn vẩn vơ ấy.

Lại nữa, ngày ấy, đầu 1965, thế cách mạng mở ra như chẻ tre, toàn thắng “chiến tranh đặc biệt” gần như đã chắc chắn, có thể sờ mó được bằng tay. Người ta đổ ra tham gia ồ ạt, hồ hởi, đủ loại, người nào mặt mày cũng hớn hở. Tôi thì, thú thật, tôi “thích” những ngày gay cấn, khó khăn, khắc nghiệt hơn. Những ngày đó, đen trắng rõ ràng, nhìn mặt, đánh hơi biết rõ ngay tâm địa từng anh, ai thật ai giả, ai đứng vững, ai sắp gục ngã. Cái tốt sáng trưng, cái giả lồ lộ… Còn như lúc này, tôi chăm chú hàng trăm, hàng ngàn người vui vẻ, ồn ào đi cùng tôi đây trên đường giao liên, lẩn thẩn cố đoán ra, nay mai ác liệt lại, ác liệt hơn, theo kiểu nào chưa biết nhưng chắc chắn, trong số họ ai là người còn tiếp tục trụ được, ai ngay từ bây giờ đã mang trong mình mầm của cơ hội, của giả trá, thậm chí của đầu hàng? Ngay cả trong cơ quan tôi, trong bạn bè, người thân tôi nữa? Ai?

Tôi đi buồn, hơi lạc lõng giữa đoàn người đông nghịt, im lặng trầm ngâm một mình…

Không hề ngờ một sự kiện lịch sử đang chờ phía trước, rất gần.

Tối 6 tháng 5-1965 về đến trạm Tứ Mỹ, chính cái thôn Tứ Mỹ đầu tiên được giải phóng mấy năm trước ấy. Phan Tứ không còn lót ổ ở đấy nữa, anh đã ra Bắc chữa gai cột sống.

Tối vừa đến trạm Tứ Mỹ, mệt, treo võng, chỉ phủi chân, ngủ vùi ngay.

Mờ sáng hôm sau, bị đánh thức vì tiếng bom và tiếng pháo nổ xối xả. “Pháo hạm”, tôi nhận ra ngay, pháo lớn loại trên 200 ly từ các hạm tàu ngoài biển bắn vào. Máy bay rợp trời. Chưa bao giờ tôi thấy máy bay nhiều đến thế. Ba bốn chục cái phản lực. Vài trăm trực thăng, loại “cá lẹp” bắn rốc-két hàng tràng, loại “sâu róm”, loại “quả chuối”… chở mỗi chiếc đúng một trung đội súng ống đầy đủ. Lại nghe cả tiếng xe tăng, khá rõ, âm âm rất sâu trong lòng đất từ phía biển dội lại…

– Chuyện gì thế này?

Tôi chỉ kịp nghĩ: một cuộc càn rất lớn.

Cuốn võng, xốc ba-lô, vội đi thẳng về quân khu nghe nói đóng ở “suối văn công”, cách Tứ Mỹ nửa ngày đường.

Vừa về đến nơi, có lệnh anh Chu Huy Mân gọi sang, tất cả các trưởng phó phòng ban. (Tư lệnh Chu Huy Mân rất lạ, anh đặt ra ở Cục Chính trị quân khu một cái gọi là Ban Văn học, không hề có trong biên chế chính thức của quân đội. Tôi được cử làm trưởng ban. Nguyễn Chí Trung vẫn là bí thư chi bộ.)

Anh Chu Huy Mân nói rất chậm rãi:

– Sáng nay, mồng 7 tháng 5-1965, sư đoàn thủy quân lục chiến đầu tiên quân viễn chinh Mỹ đã đổ bộ vào Kỳ Liên, Nam Tam Kỳ. (Lúc này chưa có tên Chu Lai, tôi có đọc một bài trên báo Sao và vạch của quân đội Mỹ viết rằng chính họ cũng không biết tên Chu Lai do ai đặt ra. Có đủ thứ thuyết.)

À, ra thế. Cái cảnh tôi tình cờ được chứng kiến sáng nay là vậy: cảnh mở đầu cuộc chiến tranh cục bộ của Mỹ ở miền Nam, bước ngoặt lớn nhất của chiến tranh Việt Nam, nước Mỹ chính thức đánh nhau với Việt Nam. Cũng lạ, điều ấy không khiến ai trong chúng tôi ngạc nhiên, bất ngờ. Mỹ thì Mỹ, biết tay nhau phen này.

Cuộc họp của tư lệnh Chu Huy Mân không kéo dài, hẳn anh đã tính toán khả năng này không chỉ mới hôm nay. Bàn bạc qua lại một chút, rồi anh kết luận, ra lệnh ba việc rõ ràng: Một, nhanh chóng tổ chức lực lượng du kích bao vây quân Mỹ vừa đổ ở Kỳ Liên lại. (Thực ra lúc ấy hầu hết chúng tôi không ai biết Kỳ Liên chính xác là chỗ nào, phải mở bản đồ ra tìm mãi: một xóm nhỏ không tên tuổi toàn cát trắng và phi lao, nằm gần quốc lộ 1, sát ranh giới Quảng Nam và Quảng Ngãi, gần chỗ gọi là Dốc Sỏi.) Cái gọi là “tổ chức du kích vây ngay quân Mỹ lại” chỉ mấy tháng sau đã trở thành “Vành đai diệt Mỹ” nổi tiếng và lan ra khắp nơi.

Hai, lệnh: Tham mưu, chính trị, hậu cần quân khu nhanh chóng xuống Quảng Nam, tìm chọn một đại đội bộ đội địa phương, tập trung chuẩn bị đánh một trận tiêu diệt gọn cho kỳ được một đại đội Mỹ. Nhắc đi nhắc lại: một đại đội bộ đội địa phương, tuyệt đối không dùng đến quân chủ lực. Chứng minh một đại đội bộ đội địa phương ta đủ khả năng tiêu diệt một đại đội quân chính quy Mỹ.

Và lệnh thứ ba, rất bất ngờ: chuẩn bị đến tháng 12 năm nay tổ chức Đại hội Dũng sĩ diệt Mỹ toàn quân khu.

Thôi, giải tán! Anh tuyên bố. Tôi vừa bước ra được mấy bước, nghe tiếng anh gọi: Ngọc, ở lại với mình một chút. Tôi quay lại. Ngồi xuống đi, anh bảo. Có việc này mình muốn nói riêng với cậu. Tình hình bây giờ, cậu biết rồi đấy. Số phận dân tộc treo đầu sợi tóc. Cậu có thể viết cho mình một Hịch tướng sĩ của thời đánh Mỹ không? Cần lắm lúc này.

Tôi đứng dậy: Báo cáo anh, được, tôi làm được.

Xin nói thêm một chút về tướng Chu Huy Mân. Đó là một vị tướng hơi khác thường. Anh vào thay tướng Nguyễn Đôn năm 1964. Tướng Đôn chuyển sang Lào. Việc đầu tiên tướng Mân làm là ra lệnh “Hạ sơn!”, không lẩn quẩn bám dựa mãi trên núi cao nữa, kiên quyết đưa bộ đội chủ lực xuống đồng bằng mà đánh, đánh giữa ban ngày, tất nhiên phải tập dần từng bước, từ trung đội, đại đội, tiểu đoàn, rồi trung đoàn, sư đoàn. Đấy cũng là lúc Mỹ bắt đầu triển khai chiến thuật trực thăng vận và thiết xa vận, rất ác liệt. Đánh giữa đồng bằng trống trải tất phải đào công sự, thiếu xẻng, anh ra lệnh mỗi người lính chặt một khúc gỗ, vót nhọn, đào công sự thay xẻng. Vào chiến trường tướng Mân mang theo cả một tủ sách toàn tác phẩm kinh điển, từ Tolstoï, Dostoïevski cho đến Pouchkin, Lermontov… Có hôm anh goi điện, rủ tôi sang ăn cơm, “Bà xã mình mới gửi cho một hũ mắm tôm, sẵn rau rừng, ngon tuyệt!…”. Tôi luôn gọi anh bằng anh, vì thật sự rất thân.

Bây giờ anh giao nhiệm vụ cho tôi: một Hịch tướng sĩ của thời hiện đại.

Đêm ấy tôi về ngồi viết tùy bút Đường chúng ta đi. Không dầu đèn gì cả, chuẩn bị một lô cây trúc khô chẻ sẵn làm đôi, đốt lên và đặt hơi chúc nghiêng để giữ cháy liên tục, hết cây này nối cây khác. Viết một mạch. Đến sáng thì xong.

Vừa lúc máy in từ Hà Nội gửi cho Khu 5 vào đến nơi. Chuyện này cũng khá nhiêu khê và buồn cười. Từ khi tôi vào và gặp tướng Nguyễn Đôn hồi 1962, Khu 5 đã điện Hà Nội xin máy in. Đáng lẽ gửi cho chúng tôi một máy Minerve loại máy đứng, đạp bằng chân, nhỏ, tương đối gọn nhẹ, dễ sử dụng, di chuyển, cũng in được một trang khổ báo Nhân Đân, Hà Nội lại theo phương châm ưu tiên tất cả cho chiến trường, gửi cho chúng tôi một cái máy nằm hiện đại hiệu Osaka của Nhật, to bằng ba bốn cái mặt bàn bình thường, vốn phải chạy điện. Cái khối sắt to đùng ấy khiêng từ Hà Nội, mất ba năm, thì vào tới trạm đầu mối, tức là ranh giới đầu tiên của Khu 5. Được tin chúng tôi mừng quá, lập tức cử Thu Bồn là tay trẻ khỏe. tháo vát nhất, dẫn theo một đại đội công binh phá đá chặt cây mở đường ra đón, hì hục hơn tháng mới đưa được vào vị trí đã chuẩn bị. Nguyễn Chí Trung bàn với tôi ta ra ngay tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Khu 5 số 1. Đường chúng ta đi của tôi đăng số ấy. Cách chúng tôi làm báo lúc bấy giờ: cặm cụi ngồi viết, duyệt, xúm nhau lại cùng làm mise (dàn trang), rồi tự mình cầm bản thảo chạy đi nhà in thường cách một ngày đường để khỏi chết chùm vì bom, lao vào sắp chữ cùng anh em, đọc dò morasse, rồi cùng anh em hì hục quay máy vì làm gì có điện. Nguyên tắc bấy giờ là hạn chế tối đa những vị trí phát nhiệt bất thường, bọn Mỹ thậm chí chơi trò thả những chiếc đài ngửi hơi nước đái dọc các đường hành quân của ta, chỗ nào lính Việt Cộng tập trung đái nhiều là lộ, liền bị ăn bom.

Chúng tôi thậm chí còn tham gia đi phát hành đưa tạp chí đến từng đơn vị…

Ra xong tạp chí số 1 rồi, đang đà, phải làm tiếp số 2 chứ. Nguyễn Chí Trung bảo lần trước cậu viết tùy bút rồi, lần này phải làm truyện ngắn. Cậu vừa đi Bình Định về, làm tiếp một truyện ngắn về đồng bằng cho ngon… Tôi ngồi mấy đêm, thử viết về Bình Định, chẳng ăn thua, chữ nghĩa cứ nằm bẹp ra giấy, đành bỏ. Trở lại với miền núi thôi. Trước đó tôi có đi một chuyến xuống Quảng Nam, lúc trở về đáng lẽ lên ngõ Trà Mi, nhưng gặp một trận càn cản đường, phải ra tận miền núi phía Bắc tìm lối vòng về. Mấy ngày thì hết gao, tạt vào một làng người Cơ Tu xin ăn. Sau này mới biết làng đó tên là Nóc Ông Tía. Làm quen với một anh tên là Đề, lân la hỏi chuyện biết hồi 1959 anh từng đứng đầu một nhóm thanh niên nổi dậy dùng giáo mác tiêu diệt một tiểu đội quân Sài Gòn vào khủng bố dân làng. Đấy là cuộc khởi nghĩa đầu tiên ở miền núi Quảng Nam và miền Trung, trước cả Trà Bồng. Hay dựng một truyện ngắn lấy vụ này làm cốt nhỉ, tôi nghĩ. Tôi chắc những người cầm bút đều biết rằng viết trước hết không phải chỉ cần có một ý tưởng, nhất là một ý tưởng chính trị dù to tát hay ho đến đâu. Mà là phải làm cho kỳ được cái trò ma thuật này: bằng các con chữ là cái thứ vốn nằm bẹp nối tiếp một cách tuyến tính trên mặt phẳng của trang giấy chỉ có hai chiều, bỗng đứng dậy sống động và rộn rã, không còn là đồ vật nữa mà là sinh vật, trên trang giấy cũng bỗng hóa thành không gian ba chiều (hay như vật lý hiện đại ngày nay cho biết, có thể còn nhiều chiều hơn nữa bị cuộn lại đâu đó), nghĩa là đã trở thành một thế giới, có bầu khí quyển, có gió có nắng có mưa, có hệ thực vật và động vật, có một nhân loại, một hệ sống với thậm chí cả hệ đạo đức của riêng nó, vừa có thực vừa hoàn toàn chưa hề có, và quan trọng hơn nhiều, hoàn toàn độc lập với chính anh. Nó dắt dẫn anh đi, và anh, người cầm bút chỉ có việc, chỉ có thể đi theo nó, cho đến cùng…

Những ngày ấy, quân viễn chinh Mỹ đổ vào, bỗng nhớ Nguyễn Thi quá chừng, Thi đang sống thế nào, đang làm gì trong ấy… Cánh rừng Tây Thừa Thiên là chỗ Thi và tôi dừng lại một ngày treo võng năm tâm sự cùng nhau trước khi chia tay, có thể là lần cuối cùng, Thi sẽ tạt qua phía Tây mượn một đoạn đường trên đất Campuchia rồi vòng về Tây Ninh, Nam Bộ, tôi sẽ vượt qua quốc lộ 14, tạt về Kontum rồi xuống Quân khu 5. Hai anh em dặn nhau ba điều: một, tình hình này, về trong ấy nhất thiết không tự xưng là nhà văn, làm tất cả những gì cuộc chiến đang cần không đòi hỏi bất cứ điều kiện gì, chỉ trở lại cầm bút khi việc cầm bút thực sự cần thiết hơn cầm súng; hai, chỉ trở ra Hà Nội bằng đường số 1, quyết không thèm leo Trường Sơn nữa, nghĩa là toàn thắng mới trở ra; và ba, chết hết cả hai thì thôi, còn một đứa thì đi tìm gia đình cho đứa kia. Thi nói riêng với tôi, anh còn một đứa con gái sinh ở Sài Gòn mà anh chưa hề biết mặt, nó tên là Trang Thu, nếu sau chiến tranh Thi không còn, “thì Ngọc cố đi tìm nó cho mình”… Nơi chúng tôi nói với nhau những lời hóa ra là cuối cùng đó là một rừng xà nu. Xà nu là loại thông ba lá chỉ mọc ở độ cao trên 1500 mét, vạm vỡ và hùng vĩ. Xà nu là tiếng Xơ Đăng… Tôi bỗng hiểu nếu tôi tả được một rừng xà nu thật xà nu, đến mức có thể sờ mó được trên mặt giấy lớp vỏ nhám sì sần sùi của nó, có thể chạm nhẹ ngón tay vào những giọt nhựa ứa ra từ thân cây, thoạt đầu trong veo như những hạt ngọc long lanh, rồi mỗi lúc một đầy và to lên, trở màu vàng óng, thơm một vị thơm thanh nhã có chút ngọt, một phần biến thành bụi vàng bay lả tả trong những luồng nắng chiếu từ trên cao rọi thẳng xuống cũng bỗng vàng óng lên vị bụi nhựa xà nu. Phấn thông vàng của Xuân Diệu chính là đây. Riêng từ những vết thương do người chặt hay bị trúng mảnh pháo thì nhựa ứa ra rất nhọc nhằn, vón lại thành từng cục máu lớn, lâu lắm mới lành…

Tả được một rừng xà nu thật xà nu rồi thì bỗng nhiên bao nhiêu các thứ khác ùa đến, không còn là kỷ niệm nữa mà sống động và chủ động khác thường, anh Đề của Nóc Ông Tía, cụ Mết của làng Xốp Dùi tôi từng biết từ hồi kháng chiến chống Pháp (bấy giờ Tây Nguyên có hai nhân vật đặc sắc, ông Núp người Ba Na ở làng S’tor tỉnh Gia Lai và ông Mết người Xơ Đăng ở làng Xốp Dùi tỉnh Kontum, đều định phong Anh hùng, nhưng rồi đang thời Khu 5 bắt đầu giảm tô và thí điểm cải cách ruộng đất, có ý kiến ông Mết là già làng, tầng lớp trên, gần như địa chủ hay phú nông ở miền núi, nên thôi!). Chị Dít là một cán bộ phụ nữ Dẻ Triêng tôi từng gặp trong một hội nghị nào đó. Tất nhiên tôi cần thêm một cô chị gái của Dít, bịa ra một cô Mai không khó gì, cả một cậu bé Heng của thế hệ nối tiếp nữa, và những bà cụ già lụm cụm bò xuống thang nhà sàn… tôi từng gặp, thân thiết suốt mấy mươi năm Tây Nguyên, chỉ cần nhắm mắt lại là nhìn thấy họ, nghe họ ăn nói và đi lại. Họ đến, tự chọn vai, tự nhận lấy số phận riêng và ràng buộc các số phận lại với nhau, tự tạo ra và dắt dẫn câu truyện, đến từng chi tiết hành vi, tính cách… mặc xác ý đồ tác giả. Chỉ có một điều: cái tên nhân vật Đề có thật ở Nóc Ông Tía rất không ổn. Nó Kinh quá. Tôi có biết một chút tiếng Xơ Đăng, tôi gọi anh là Tơ Nú, trong tiếng Xơ Đăng có nghĩa là dũng sĩ. Gọi tên Tơ Nú tức thì hiện ra một chàng trai trẻ Xơ Đăng cường tráng, không thể khác. Cũng may, tôi đã không thô bạo can thiệp gì vào hành động và số phận của họ, dù họ vốn có nguyên mẫu thật ngoài đời hay mới được bịa thêm. Hành động của họ nhiều khi khiến tôi bất ngờ. Tôi biết nhựa xà nu cháy rất đượm và lỡ bết vào tay thì rất khó gỡ ra, vậy là chi tiết Tơ Nú bị đốt mười đốt ngón tay bằng nhựa xà nu tự nó đến, và việc Tơ Nú khi đã dồn được thằng Dục vào đáy hầm rồi, không dùng súng cũng không rút dao găm mà chỉ nhất thiết bóp cổ nó cho đến chết bằng mười ngón tay mỗi ngón chỉ còn hai đốt cũng là tất yếu của truyện, tôi có muốn khác cũng chịu (ở chỗ này tôi có nhầm: Tơ Nú bị đốt cả mười đầu ngón tay thì hai ngón cái chỉ còn một đốt thôi chứ, không thấy người đọc nào nhắc nhở, chắc họ rộng lòng tha cho tôi)… Rừng xà nu được in ở tạp chí Văn nghệ Quân giải phóng Khu 5 số 2.

Những ngày quân viễn chinh Mỹ mới đổ vào, ở bãi Xuân Thiều, Đà Nẵng ngày 8-3-1965, ở Chu Lai ngày 7-5-1965, tình hình thực tế trên chiến trường chưa có gì thay đổi rõ rệt. Đúng ra là một tình trạng xen kẽ giữa chiến tranh đặc biệt đã hấp hối nhưng còn chưa chết hẳn và chiến tranh cục bộ chớm bắt đầu. Ngày 26-5-1965 đại đội 2 của tiểu đoàn 70 bộ đội địa phương Quảng Nam đã đánh trận Núi Thành, tiêu diệt một đại đội Mỹ trên vành đai bao quanh căn cứ Chu Lai. Nhưng đến ngày 29-5 trung đoàn 1 của anh Lê Hữu Trữ còn đánh trận Ba Gia tiêu diệt một chiến đoàn quân Sài Gòn do tướng Nguyễn Chánh Thi chỉ huy. Vùng giải phóng ở đồng bằng Khu 5 vẫn còn khá rộng rãi và tự do. Sau chuyến Bình Định, tôi tranh thủ một chuyến xuống Quảng Nam.

Và lại có chuyện về Thu Bồn, chuyện khá dông dài, xin kể dần. Khởi đầu từ hồi 9 năm chiến tranh chống Pháp kia. Suốt 9 năm ấy, Quảng Nam giữ được một nửa tỉnh phía Nam là vùng tự do, có chính quyền của ta đàng hoàng. Ủy ban hành chính – kháng chiến Quảng Nam thường đóng ở vùng bán sơn địa hai huyện Quế Sơn, Tiên Phước. Thu Bồn có một người anh trai là cán bộ ủy ban ấy, và Thu Bồn bấy giờ khoảng 15-16 đi theo anh. Lại có một anh cán bộ khác của ủy ban có cô em gái đi theo, tên là Thu, nhỏ hơn Thu Bồn khoảng vài tuổi. Dễ hiểu thôi, trên núi quanh đi quẩn lại có ai nữa đâu: hai cô cậu yêu nhau. Trong quân đội ta có một lớp lính gọi là “lính Genève”, họ vào bộ đội đúng lúc hiệp định Genève vừa ký, chưa đánh nhau ngày nào thì đi tập kết. Thu Bồn thuộc lớp lính ấy. Anh đi tập kết, Thu ở lại. Tôi đi xuống Quảng Nam, Thu Bồn đưa cho một tấm ảnh Thu, nhờ tìm hỏi xem giờ cô ấy ở đâu. Yêu cầu rất lạ lùng, tấm ảnh nhỏ bằng đầu ngón tay cái, chụp từ thời còn lận đận đánh Tây, tôi gói kỹ trong ni lông, giữ bo bo trên túi áo ngực, đi giữa một vùng chiến tranh, gặp ai cũng đưa ra hỏi: Có biết cô này không… Vậy mà sự đời chuyện gì cũng có thể xảy ra: gặp anh Mẫn, trưởng ban Tuyên huấn Quảng Nam, thường gọi là Mẫn Lồi, anh có cặp mắt hơi lồi, đưa ảnh, anh cầm, nghiêng đầu ngắm qua ngắm lại một hồi, rồi… “Con ni… con ni… là con Thu chớ ai nữa, con bà Cọng ở ngoài Điện Tiến, Điện Bàn, nhà bà Cọng là cơ sở quen thuộc mà, bây giờ con Thu ở trong Sài Gòn, cán bộ hợp pháp của đặc khu ủy Sài Gòn – Chợ Lớn…”. Tôi về báo lại Thu Bồn, anh viết thư cho Thu, nhờ cơ sở gửi qua bà Cọng, chuyển vào Sài Gòn. Ngày ấy, người ta xử sự với nhau rất tình nghĩa. Ít lâu sau chúng tôi nhận được điện của đặc khu ủy Sài Gòn đề nghị nếu Khu 5 đồng ý, trong ấy sẽ bố trí cho chị Thu ra đoàn tụ với “chồng chưa cưới”. Thu bay từ Sài Gòn ra Đà Nẵng, đi xe đò từ Đà Nẵng vào Tam Kỳ, rồi lần tìm lên đến chỗ chúng tôi, bấy giờ đóng trên đầu một ngọn thác gọi là Thác Nước Trắng, thuộc Trà Mi. Thu đến trạm B, là trạm đón tiếp của quân khu, trạm báo vào, Thu Bồn ra đón, đưa về khu A. Quá vui. Chúng tôi cho người xuống đồng bằng, mua hơn chục gà vịt và đủ các thứ, chuẩn bị làm đám cưới cho hai cô cậu… Thì đúng đêm 2 tháng 8-1965. Cơ quan bộ tư lệnh quân khu bị một trận B32 như trời giáng, trận B52 đầu tiên ở Khu 5. Chúng tôi ăn ở còn quá sơ hở, đêm thắp cả măng-sông, lộ là phải. Chúng bắt đầu thả từ 1 giờ sáng, 11 tốp, mỗi tốp 3 chiếc, vị chi tất cả là 33 chiếc, mỗi chiếc vài trăm trái bom đủ loại. Chúng tôi đã biết là B52 đâu, từng loạt bom trút xuống rào rào, ngồi dưới hầm cứ tưởng là tiếng máy bay phản lực lao xuống. Toàn bộ khu vực cơ quan bộ tư lệnh đều trúng bom. Vậy mà, rất kỳ lạ, chẳng chết ai cả, chỉ có một cậu thông tin điện đài xuống hầm không dứt khoát, bị mảnh bom phạt mất một miếng mông. Lúc đã im, chúng tôi ngoi lên, thấy cứ giữa hai chiếc hầm có đúng một quả bom, không quả nào trúng ngay hầm, kỳ thế… Sau bom, vẫn còn là đêm, không khí bỗng lạnh tanh đáng sợ. Anh Đặng Vũ Hiệp, chủ nhiệm chính trị quân khu, gọi các trưởng phòng ban hội ý, xem nên xử trí thế nào lúc này đây, rút ra hay cứ trụ lại? Trụ lại, nếu trận bom vừa rồi là chúng dọn bãi, sáng mai sẽ đổ quân, cơ quan toàn lính cùi chỏ, đánh đá thế nào? Còn rút ra bây giờ, nhỡ chúng quay lại ném bom tiếp, mình đã thoát ly công sự, thương vong sẽ rất lớn. Bàn qua tính lại, chưa dứt khoát, cuối cùng anh Đặng Vũ Hiệp đứng dậy: Thôi, tao đánh bạc: Rút ra!… Không dễ chút nào, chúng tôi men theo bờ thác lần xuống. Cây rừng đổ ngổn ngang chặng chịt. Đang vật lộn với đám cây đổ và dây rừng, bỗng nghe tiếng máy bay âm âm. Nằm xuống! Ai đó hô to. Một loạt ánh chớp. Anh Nguyễn Hồ, cán bộ bộ phận thi đua Cục Chính trị hét to: Hô khẩu hiệu đi! May quá, chưa ai kịp hô; sẽ là “Hồ Chí Minh muôn năm!”, “Đảng…”. Chờ mãi, chẳng nghe bom nổ. Thì ra, đúng cách của Mỹ, sau trận oanh tạc, sẽ đến máy bay chụp ảnh hiện trường… Sáu giờ sáng chúng tôi mới ra khỏi rừng. Gì thì gì, tìm một chỗ tương đối kín đáo, ngồi nghỉ đã. Và mở đài Hoa Kỳ. Đài trịnh trọng loan báo: đêm qua pháo đài bay B32 của quân đội Hoa Kỳ đã tiêu diệt hoàn toàn bộ tư lệnh Quân khu 5 của Việt Cộng. À, ra là B52 lừng danh, biết nhau rồi nhé, cũng chẳng ghê gớm lắm… Thiệt hại nặng nhất vụ này là Thu Bồn và Thu, toàn bộ gà vịt và mọi thứ chuẩn bị đám cưới bay sạch. Anh Đặng Vũ Hiệp tuyên bố: Coi như cưới xong rồi, cho hai đứa tha hồ!…

Quân khu có một bệnh viện, gọi là C17, do anh V. là chỗ khá thân với chúng tôi làm giám đốc. Thu có chút tay nghề y tá, chúng tôi bàn, anh V. đồng ý nhận Thu về đấy.

Năm sau, Thu sinh cháu trai đầu tiên, đặt tên là Hùng.

Nói thật, hồi ấy chúng rất sợ cảnh lấy vợ ở chiến trường mà lại phải sống chủ yếu trên rừng. Tôi biết có anh đội trưởng văn công lấy vợ trong hoàn cảnh đó. Suốt thời gian chị ấy có thai, anh lụi hụi đi đốt than tích trữ cả bao tải to tướng. Đến lúc chị nằm nơi, theo đúng tục ở quê ta, trong rừng lại rất rét, anh phải còng lưng thổi từng chậu lửa cho chị hơ, cả mái tóc từ đó về sau quăn tít và vàng sém gội rửa bao nhiêu cũng không đen lại được… Nhưng Thu Bồn là tay rất khỏe, sức vóc cứ như bất tận, lại rất tháo vát, anh vượt qua được hết. Và tôi phải nói điều này: Thu Bồn một khi đã yêu thì yêu đến hết mình, tận tụy đến cùng (… cho đến khi chuyển sang yêu người khác, cũng sẽ lại hết mình, tân tụy, đến cùng như thế…, chuyện này tôi sẽ nói tiếp sau. Anh là người thừa sức cho nhiều tình yêu liên tiếp, cuộc nào cũng chung thủy hết mình…)

Mỹ vào, chúng tôi càng lao xuống chiến trường.

Nguyễn Chí Trung đi Ba Gia. Rồi sau đó bám riết đến thành chuyên gia sâu về mảng mặt trận Quảng Ngãi, đặc biệt vùng Đức Phổ rất ác liệt và phức tạp.

Phan Đình Côn đi Ba Tơ, hy sinh trận đánh đồn Minh Long.

Liên Nam đi hai chuyến về quê hương Phú Yên của anh, chuyến đầu tuy Mỹ đã vào nhưng chưa triển khai hoạt động bao nhiêu, nông thôn còn giải phóng rộn ràng, anh gặp và yêu một cô du kích. Anh trở về quân khu, xin đi tiếp chuyến thứ hai định cưới cô gái đã hẹn, chẳng ngờ tình hình đã khác hẳn, Mỹ mở chiến dịch “Hải Yến” đánh Phú Yên tơi bời, cô du kích hẹn hò của anh đã bỏ chạy theo địch. Liên Nam trở về ốm liệt giường, và… có dấu hiệu muốn tháo lui. Thật tình chúng tôi rất ngại những anh đã có biểu hiện muốn rút lui. Nhỡ … Chúng tôi bố trí cho anh ra Bắc. Tôi viết một lá thư gửi anh Vũ Cao, nhờ giúp Liên Nam chữa bệnh và học hành…

Thu Bồn và tôi đi Quảng Đà.

Cuối 1965, Hà Nội bổ sung thêm cho chúng tôi một loạt anh chị em: Vương Linh, Bùi Minh Quốc, Nguyễn Mỹ, Khánh Cao, Phương Thảo, Trần Vũ Mai… Chu Cẩm Phong đã vào trước, từ cuối 64. Trừ Vương Linh ở núi giữ nhà, tất cả đều lao xuống Quảng Đà, chiến trường trọng điểm vì bao quanh căn cứ hải lục không quân lớn của Mỹ ở Đà Nẵng. Cả Nguyễn Chí Trung, Bùi Minh Quốc từ Quảng Ngãi cũng dồn ra đây…

Củng cố xong các căn cứ lớn Đà Nẵng, Chu Lai, Mỹ mở rộng hoạt động, ác liệt tăng từng ngày.

Tháng 12-1965, giữ đúng kế hoạch định từ tháng 5, quân khu mở Đại hội dũng sĩ diệt Mỹ. Trong số đại biểu Quảng Đà lên đại hội, có cô Hoa, xã đội phó xã Điện Hòa, nơi tôi từng quen biết hồi chống Pháp. Tôi đề nghị cho tôi theo cô Hoa ra Quảng Đà, ý định sẽ xuống Điện Hòa.

Anh Võ Chí Công dặn:

– Ra Quảng Đà, chỉ được ở tỉnh, không được xuống huyện.

Lại viết cả một lá thư cho anh Hồ Nghinh, bí thư Quảng Đà: Không được cho thằng Ngọc xuống đồng bằng. Có chuyện gì, khu sẽ “bắt đền”!

… Nhưng tôi thuyết phục anh Nghinh:

– Ở quân khu là núi, ở chỗ anh cũng là núi, có khi còn nguy hiểm hơn núi quân khu. Anh không cho tôi xuống đồng bằng, thà trả tôi về quân khu còn hơn.

Anh Nghinh nghe đã hơi xiêu. Nhân có anh Quốc, bí thư Điện Bàn lên tỉnh họp, tôi đề nghị anh Nghinh cho tôi theo anh Quốc xuống Điện Bàn. Anh Quốc cũng vận động hộ tôi. Anh Nghinh bảo:

– Ừ, đi thì đi. Giao cho ông Quốc chịu trách nhiệm đó nghe.

Quốc nói cứng:

– Đảm bảo. Tôi chết thì ông Ngọc mới chết.

(Về sau anh Quốc hy sinh năm 1969.)

Vậy là tôi được xuống Điện Bàn. Cơ quan huyện đóng ngay Gò Nổi, một cái cù lao lớn giữa hai nhánh sông Thu Bồn. Đóng nghênh ngang giữa đồng bằng, cách quốc lộ 1 vài cây số, cách Đà Nẵng chỉ mươi cây đường chim bay.

Quốc giữ rịt tôi ở cạnh anh suốt hai tuần. Hai tuần ấy, tôi khám phá ra được “chỗ yếu” của anh. Số là bấy giờ có chế độ phân công từng huyện ủy viên xuống phụ trách từng mảng vài ba xã. Vừa lúc có một huyện ủy viên hy sinh. Tôi gạ Quốc:

– Để mình ra thay ông ấy cho!

Quốc đang bí. Anh phân vân, nhưng cuối cùng đồng ý: “Tui coi bộ ông cũng đánh nhau được. Nhưng mà cẩn thận nghen, có chuyện gì ông Nghinh lại gõ đầu tui…”

Tôi vượt sông Thu Bồn, băng qua tỉnh lộ 100 tại cây số 6 cách đồn Bình Long không xa, qua xã Điện Thọ, băng một cánh đồng có cái tên rất lạ, “cánh đồng thí thân” (nghe nói ngày xưa có một cuộc huyết chiến của nông dân mấy xã giành đất ở đây). Thì đến bờ sông La Thọ, bên kia sông là Điện Hòa, một xã xung yếu nằm trên “vành đai diệt Mỹ”, cách sân bay Đà Nẵng chỉ 4, 5 cây số đường chim bay. Vừa tới bờ sông, nghe bên kia súng nổ ran. Tôi thấy một đám hơn 10 du kích đang túm tụm bàn tán chuyện gì đó sau một bụi tre. Chen vào, thì gặp Hoa, cô xã đội phó từng quen ở đại hội thi đua quân khu. Hoa reo lên:

– Ô, anh Thành, may quá! (Bấy giờ tôi lấy tên là Thành).

Cô ríu rít giới thiệu với đồng đội, rất oai: “Cán bộ quân khu về”.

Tôi sà luôn vào đám. Ra đó là đám du kích Điện Hòa bị bọn Mỹ đổ lên càn đột ngột, chạy dạt tạm sang bên này sông, đang bàn kế hoạch trở về đánh. Vẫn cái thói việc gì cũng tham gia, tôi hỏi qua tình hình, rồi ngồi bệt luôn xuống đó, dùng que vẽ sơ đồ ngay mặt đất, tính kế hoạch cùng anh em. Trong đám có một anh chàng rất trẻ, người đậm, chắc: Trương Văn Hòa, xã đội trưởng, sau này là anh hùng quân đội.

Hòa hỏi:

– Ý anh Thành răng?

Tôi đề nghị chia hai mũi, một bám chắc đường xe lửa, nơi có địa hình cao khống chế, dùng trung liên bắn rát toàn cánh đồng từ sông Bàu Sấu vào sông La Thọ, không cho bọn Mỹ ào lên, ép nó xuống phía Phái Nhì và Xóm Bùng. Mũi thứ hai vòng xuống phía Đông, bí mật vượt sông La Thọ, bất ngờ đánh thọc hông. Chắc chắn nó sẽ tháo chạy.

Hòa bảo:

– Quân khu có vẻ sáng suốt đấy!

Tôi đi cùng mũi thứ nhất, có cả Hoa.

Hòa dẫn mũi thứ hai.

Trận đánh thành công thật.

Đó là cuộc “nhập tịch” của tôi vào Điện Hòa. Từ đấy tôi được chính thức công nhận là dân Điện Hòa chính cống.

Và tôi ở đấy một năm rưỡi.

Giả là bí thư xã. Nhưng anh bảo:

– Thôi cứ coi như tôi là phó bí thư, anh là chánh bí thư. Ta cùng nhau.

Điện Hòa bị cắt đôi bởi con sông Bàu Sấu, hẹp mà rất sâu. Chúng tôi tạm chia làm hai cánh: tôi phụ trách cánh Bắc sông, có thôn Bích Bắc, giáp với Hòa Vang, đồn Mỹ khoảng đại đội ở Bàu Sấu, và căn cứ trung đoàn Mỹ đóng ở Trảng Nhật, giáp ngoại vi sân bay Đà Nẵng. Giả phụ trách cánh Nam, từ Bàu Sấu tới La Thọ.

Những ngày tháng Điện Hòa, với tôi, là những ngày tháng hạnh phúc.

Địch ê hề ra đó, muốn đánh lúc nào thì đánh. Có lúc trong xã ngang dọc mỗi bề không tới hai cây số vuông, quân Mỹ, quân Sài Gòn, cả quân Nam Hàn, đóng dày tới 11 cái đồn lớn nhỏ. Nhưng dân tốt vô cùng. Trong đồn là địch, ngoài đồn, cách mươi mét, đã là của ta. Địch ra khỏi đồn, bữa nào ta thấy khỏe, vui, tính nước làm ăn được thì tổ chức đánh. Bữa nào chán, mệt, thấy bất lợi, thì chui hầm bí mật, đã có dân bảo vệ. Hay tạt qua Điện Thọ, bên ấy dễ bị ăn pháo, nhưng Mỹ lên khó hơn. Thật lạ, địch hàng ngàn, ta có vài chục du kích. Nhưng quyền chủ động vẫn về mình. Bởi tất cả dân là ta. Tôi có một kinh nghiệm: ở chiến trường, dễ chết nhất là khi đang đi trên đường, chuyển từ xã, huyện này sang xã, huyện khác. Thật tình, những lúc đó tôi rất sợ. Những lúc đó anh có ba cái bất lợi căn bản: quy luật địch, không biết (thì ra mỗi thằng địch ở mỗi đồn đều có những thói quen, những “quy luật” hành động riêng, khác nhau); địa hình, không biết, gặp bí dễ chạy bậy tự đâm đầu vào chỗ chết; và nguy nhất, dân cũng không biết, ai đáng tin cậy, có thể gửi cả tính mạng mình, ai phải tránh xa. Ở xã, trái lại, có thể “bất tử”: anh hiểu tận tim đen tính cách riêng từng đồn giặc; địa hình, anh thuộc hơn lòng bàn tay; và dân là của anh, hơn cả ruột thịt. Mỗi lần đồn địch thay quân, các bà các chị lập tức tìm cách lên đồn, mang quá cáp cây nhà lá vườn lên chào mừng các ông Mỹ mới đến, và về báo cho ta tỉ mỉ coi bộ tính cách tâm địa bọn chỉ huy và lính mới này thế nào.

Tất nhiên, chiến tranh mà lại, cũng hàng trăm phen hút chết.

Tôi có một “gia đình riêng” của mình ở Phái Nhất (ở đây người ta gọi xóm là phái), khi nào hoạt động cánh Bắc mệt quá thì về đó nghỉ ngơi vài ba hôm: gia đình bà Vịnh. Có ông bà Vịnh, chị Liễu, con gái ông bà, hai đời chồng đều là liệt sỹ, con gái chị Liễu tên là Hồng. Sát cạnh đó là nhà anh chị Tới, năm đứa nhỏ, đứa con gái lớn 14 tuổi tên là Lợi, ba đứa trai lút chút và đứa út con gái tên là Ánh. Về sau gia đình anh Tới hy sinh gần hết: anh bị Mỹ bắn chết trên cánh đồng trước nhà khi đang đi gặt; chị bị bắn chết ở bờ sông La Thọ; ba đứa con trai chết vì pháo, một loại pháo Mỹ ác hiểm, chúng tôi gọi là pháo chìm, quả pháo chui sâu xuống đất 3-4 mét mới nổ, chỉ nghe một tiếng “ục” âm sâu trong lòng đất: ba đứa trốn trong hầm, bị trúng một quả pháo chìm, lúc khiêng ra tỉnh khô như không, không xây xát chút nào, nhưng mấy phút sau một đứa ngã ngửa ra chết ngay, đứa thứ hai bỗng vùng chạy một vòng quanh sân rồi gục xuống, máu ộc ra như xối, đứa thứ ba nắm lấy tay mẹ, cắn một cái thật đau, rồi từ từ mở trừng hai mắt trắng dã. Trong suốt đời tôi, bữa đó lần đầu tiên tôi khóc òa. Chỉ còn có Lợi và Ánh. Cho đến nay tôi còn giữ được một lá thư của Lợi viết cho tôi cuối năm 1972, lúc tôi đã về quân khu. Cháu viết: “Bây giờ cháu chỉ còn có con Ánh. Cháu là bí thư thanh niên, có thể hy sinh bất cứ lúc nào. Cháu định gửi con Ánh lên cho chú. Chú nhận nó làm con nuôi, được không chú? Cả dòng họ cháu nay chỉ còn nó là giọt máu cuối cùng…”

Tôi cuống quít viết thư cho Lợi: “Gửi Ánh lên cho chú ngay đi!”

Nhưng… muộn mất rồi. Quảng Đà bấy giờ bị “cày trắng”. Thư đi mất hơn ba tháng. Lợi không kịp nhận được thư tôi. Cháu hy sinh đầu năm 1973, mấy ngày sau hiệp định Paris. Không còn ai để gửi Ánh lên cho tôi nữa.

Năm 1980 tôi có trở về thăm Điện Hòa. Ở trụ sở gặp một cô gái thư ký ủy ban, dong dỏng cao, mũi thẳng, lông mày mảnh, mi cong vút.

Chuẩn, bí thư xã, hỏi:

– Đố chú Thành biết đứa nào đây?

– …

– Ánh, mi không nhận ra chú Thành à? Cái con!

Ông Vịnh cũng chết vì pháo. Chị Liễu, cũng vì trận pháo ấy, bị mất một chân. Cháu Hồng, con gái chị, nay đã có chồng, có con. Bà Vịnh, trên 70 rồi, vẫn còn khỏe. Mấy mẹ con bán một cái quán tạp hóa đủ trăm thứ linh tinh. Hôm tôi về, hồi 1980 ấy, bà Vịnh chửi:

– Tưởng chừ mi làm to, mi đi mất mặt luôn rồi chớ!

Chị Liễu kể với tôi chị được phát thẻ thương binh, rồi sau đó có một đoàn kiểm tra của tỉnh do cái ông gì đó oai lắm dẫn đầu về, hạch sách một hồi, cuối cùng thu mất thẻ thương binh của chị. Lý do: bị thương trong lúc không có ai giao nhiệm vụ! – quy định bằng văn bản hẳn hoi của Bộ Thương binh Xã hội rất bài bản tận ngoài thủ đô. Hồi đó, khoảng 1970-71, địch chủ trương quét trắng đồng bằng Quảng Đà, đẩy quân ta không còn chỗ dựa, Điện Hòa chỉ còn không tới 20 người dân trụ bám đến cùng, chúng tôi giục bà con hoặc lên núi hoặc chạy lánh tạm vào thành phố, chúng tôi có nhiệm vụ chúng tôi phải ở đây, bà con ở đây thì chết hết… Bà Vịnh chửi: Đừng khinh chúng tao. Tao đi rồi, ai nuôi ai coi hầm bí mật cho bọn bay mà nhiệm với vụ…

Vụ tước thẻ thương binh của chị Liễu, tôi giận quá, viết thư cho anh Hoàng Minh Thắng, chủ tịch tỉnh: “Các anh ăn ở bạc với nhân dân lắm. Các anh quên hết rồi!…”

Anh Thắng không giận.

Lần sau tôi về lại, chị Liễu bảo:

– “Nó” trả thẻ lại cho tau rồi… Mà báu gì cái của ấy, tau không thèm nhận!

Anh Thắng phải nhờ tôi về dỗ hoài mới xong.

… Nhưng đó là chuyện mãi về sau.

Hồi giữa 1967, một hôm đi hoạt động cánh Bắc trở về nhà bà Vịnh, tôi chui luôn vào cái hầm tránh pháo đắp ngay giữa nhà, quên báo cho bà Vịnh và chị Liễu hay, định chỉ chợp mắt một lát, không ngờ ngủ say mê mệt.

Chẳng may bọn Mỹ từ đồn Bàu Sấu kéo lên, sục vào xóm. Chị Liễu chui vào hầm, định dọn dẹp vài cái đồ đạc gì đấy, thấy tôi đang ngủ say. Chị lạnh toát cả người.

Tôi tỉnh dậy, đã nghe tiếng tụi Mỹ xì xồ ngay trước cửa nhà.

Tôi cầm khẩu súng ngắn đã lên đạn trong tay, tay trái là quả lựu đạn đã tháo chốt an toàn.

Phen này, chắc chắn toi mạng rồi. Nhưng vấn đề không phải ở đó. Tôi dại, chết đáng đời! Nhưng chúng sẽ giết cả nhà này, bà Vịnh, chị Liễu, cháu Hồng, sẽ tàn sát cả xóm này đã chứa chấp tôi… Tôi sẽ chết không nhắm mắt được.

Chị Liễu ngồi chắn ngay trước cửa hầm. Tôi hiểu: chị quyết chết thì chết, không cho thằng Mỹ nào mò vào hầm. Bà Vịnh – cái bà già hiền khô ấy mới ghê gớm làm sao –, bà nói đủ thứ xí lô xí là lung tung, pha chè, mời nước, bưng cả ổ trứng gà đang ấp ra cho chúng nó ăn sống… Và cả xóm, chẳng biết theo tín hiệu nào, ào đến, quây lấy bọn Mỹ. Lại cảnh các cô gái sà vào ôm cứng từng đứa, để cho chúng làm đủ trò dơ bẩn…

Suốt hai tiếng đồng hồ.

Tôi, cái thằng tôi vô tích sự, được cứu thoát trận ấy.

Bà Vịnh chửi cho tôi một trận như tát nước…

Thân nhất với tôi ở Điện Hòa tất nhiên là Giả, bí thư xã (tuy anh tự nhận là phó, tôn tôi làm trưởng một cách vô nguyên tắc). Giả yêu tôi thật tình, mê nữa là khác. Chúng tôi hai đứa, một cánh Bắc, một cánh Nam, thế nào hai ba bữa cũng phải gặp nhau một lần, chụm đầu bàn đủ thứ công việc. Lần đầu tiên tôi biết thế nào là công việc ở xã: trăm nghìn thứ bà rằn. Chính phủ trung ương có mấy chục bộ, mỗi bộ một chuyên ngành, lại mấy trăm vụ, cục, mỗi vụ, cục một chuyên môn, cái nào cũng “quan trọng nhất”, cũng “cấp bách hàng đầu”; xuống tỉnh, mỗi tỉnh có mấy chục ban bệ; xuống huyện, lại hàng chục phòng… Tất cả cái mớ bòng bong ấy dồn lại thành một đống đổ xuống trên đầu anh xã lơ thơ có vài mống: đánh giặc, lo súng ống đạn dược, tổ chức du kích (và hàng chục thứ tổ chức, đoàn thể nam, phụ, lão, ấu khác), thống kê trâu cày, thống kê trâu đẻ, thống kê trâu bị pháo bắn chết, trâu bị thương, nghé còn lành, bị thương và chết, rồi bò, bê, heo, gà, vịt nữa, hồ sơ công điền công thổ, công tác thương binh và liệt sĩ, thủy lợi, xử kiện đủ loại, cưới xin, gả bán, ghen tuông, li dị, kết nạp Đảng, khai trừ Đảng, giống má loại gì, đủ thiếu, đào hầm bí mật và huy động dân công, mua gạo mua thuốc mua vải mua trăm thứ cho cấp trên, dạy tiếng Anh bồi cho các bà các cô đi đấu tranh chính trị với Mỹ, bắt liên lạc nội thành, tuyển biệt động và lính chủ lực cho tỉnh cho khu,… Cuộc đời có cái gì, ở xã có cái ấy, và tất cả đều phải vừa quần nhau với Mỹ vừa làm. Tôi và Giả chia nhau, quần quật suốt ngày đêm.

Vài ba đêm lại hẹn gặp nhau một lần, hội ý hội báo, rồi kéo nhau đi ngủ lấy sức. Chui ngay vào đám gai ô-rô sát hàng rào Mỹ mà ngủ, đấy là nơi an toàn nhất: địch không thể ngờ và đỡ bị pháo thường bắn cầm canh vào các xóm. Tôi để ý bao giờ Giả cũng nằm chắn ngang người về phía cái lô cốt Mỹ đen lù lù trong đêm: anh có ý che đạn cho tôi, nhỡ thằng lính gác ngứa tay bắn bậy.

Có lần tôi bị một trung đội Mỹ vây, định bắt sống ở cánh Bắc, Giả đang ở cánh Nam huy động tất cả du kích ra sát bờ sông Bàu Sấu, có bao nhiêu súng xả sang bắn rát, yểm hộ cho tôi. Rồi anh dẫn một tiểu đội lội bừa qua sông, liều lĩnh xông vào đánh túi bụi, nhờ thế mà tôi chạy thoát.

Trong xã hầu như ngày nào cũng có người chết vì bom đạn. Có một cô nữ du kích, chỉ mới 15-16, tên là Nghệ, ở xóm Phường, con gái nông dân mà đẹp rực rỡ, nhong nhỏng cao, thân hình như người mẫu, giản dị, chất phác mà cứ như mời gọi, nụ cười sáng trưng. Nghệ đi cùng một số chị em lên căn cứ của tỉnh ở Hòn Tàu lĩnh vũ khí, về đến đầu cầu xe lửa Kỳ Lam thì bị Mỹ phục kích bắn chết, không hiểu sao lần này chúng cố bám giữ cả tháng không cho ta lấy xác, đến khi chúng rút thì xác đã phân hủy bấy ra, chị Lan là xã đội phó ra hốt vừa xương vừa thịt dồn lại chỉ còn được hai rổ, khóc ròng suốt đường gánh về…

Còn cái chết của Luyến, xã đội phó nữa. Rất đẹp trai, đã có vợ, một con trai nhỏ, phụ trách một tiểu đội cùng tôi ở cánh Bắc. Chúng tôi họp du kích thường dặn nhau đánh Mỹ phải cố lấy cho được súng của chúng. Luyến hăng quá, một trận cố xông lên cướp kỳ được khẩu AR15 của một tên lính Mỹ, anh bị thương hôn mê. Anh em khiêng về, để ở nhà ông Hoán nguyên là môt địa chủ rất tốt, đặt nằm trên chiếc bàn dài chỗ cả nhà vẫn dọn cơm. Mò tìm khắp người không thấy vết thương ở đâu. Cuối cùng mới tìm ra một lỗ nhỏ hơn đầu ngón tay út lẫn dưới tóc gần đỉnh đầu: một mảnh đạn M79 chui vào não. Đêm đó có anh bác sĩ ở huyện xuống nhưng đi tay không. Phải mổ gắp mảnh đạn ra. Anh bác sĩ đành dùng đục thợ mộc mà đục sọ chan chát, Luyến hôn mê, nhưng chúng tôi vây quanh rợn người. Dùng kéo nhỏ cố gắp mảnh đạn, nhưng não là chất nhầy, cứ động đến mảnh đạn lại chạy chỗ khác, không sao gắp được. Những ngày sau đó không ngày nào không đánh nhau, không thể để Mỹ bắt sống Luyến, vừa đánh vừa phân một tiểu đội khiêng Luyến chạy. Bàn hay là đưa lên căn cứ trên núi có bệnh viện tỉnh, nhưng gia đình nhất định không nghe. “Lên trên đó núi rừng, về sau mồ mả biết đâu mà tìm…”.

Một đêm tháng chạp, lạnh, chúng tôi ngại chui bụi gai ô-rô hoài, tôi cùng Giả từ cánh Bắc về, rủ nhau vào ngủ nhờ nhà bà Chánh ở xóm Đồng, cạnh sông Bàu Sấu. Trời rét, ngủ như chết. Bỗng bà Chánh đập chân, gọi:

– Dậy, dậy. Địch lên!

Tôi choàng dậy, vừa hửng sáng, ra đứng bờ chè tàu trước sân quan sát. Còn mờ sương. Nhận ra một hàng lính từ phía quốc lộ 1 kéo lên. Chúng tôi đã có kinh nghiệm: bọn lính Sài Gòn thường đi đội hình rất dày, dồn cục lộn xộn. Ngại nhất đám này càn, sục hầm bí mật rất ác. Bọn này đây đi thưa, cự ly rất đều, lại cao lớn, vậy chắc chắn là Mỹ. Mỹ thì không lo, chúng ồ ạt nhưng lớ ngớ.

Tôi hỏi Giả:

– Ta tránh qua sông sang Bích Bắc hay chui hầm bí mật?

– Trời này lội sông ớn lắm. Thôi, chui hầm đi.

May quá chúng tôi đã không qua sông. Sau mới biết, song song với cánh bên này chúng còn lên một cánh bên kia sông đón lõng chúng tôi bơi sang,

Chúng tôi chui một cái hầm bí mật đào sát bờ sông, ngay chỗ có dựng cái xe nước kéo bằng trâu, lợi dụng những tấm vỉ tre đan rất dày chắn bờ xe nước để giấu miệng hầm. Dỡ một miếng vỉ tre ra, chui vào, kéo đậy lại thật khéo, thế là xong.

Chẳng ngờ có một điều chúng tôi không tính hết: bờ xe nước thường đặt chỗ có địa hình cao ven sông, lại có một vành đất đắp cao quanh chỗ dành cho trâu kéo. Trong một trận đánh thông thường, bất cứ anh chỉ huy nào cũng sẽ chọn vị trí khá lợi hại này để bố trí hỏa lực, khống chế trận địa. Hai anh em vừa chui hầm thì một tiểu đội Mỹ kéo tới ngồi ngay trên đầu, khẩu đại liên cực nhanh của chúng đặt cách chỏm đầu chúng tôi chỉ vài tấc đất. Ghé mắt nhìn qua tấm vỉ tre, thấy rõ bụng từng thằng Mỹ cởi trần đỏ au. Chỉ cần một thằng trong bọn ngứa chân đạp mạnh vào miếng vỉ tre là chúng tôi phơi mặt ra, chạy đằng trời!…

Hai chúng tôi ngồi dưới đít Mỹ như vậy suốt một ngày ròng rã. Căng thẳng quên cả đói và buồn ngủ. Thỉnh thoảng lại nghe động rột rột, tưởng chúng mò xuống, sau mới biết bọn Mỹ thấy cái xe nước lạ, bên chúng làm gì có, chúng xúm lại quay thử chơi, nước đổ rào rào…

Tôi với Giả, hai đứa hai khẩu tiểu liên đã lên đạn, lựu đạn mở chốt an toàn cầm tay. Tôi rất ghét và ngại chui hầm bí mật. Đánh nhau, chui hầm bí mật là tự nhốt chặt mình vào thế bị động. Nhỡ lộ, chỉ còn một trong hai cách: hoặc bất ngờ đạp nắp hầm, tung nhanh lên một quả lựu đạn, nhảy phóc lên, quét bừa một loạt tiểu liên, nếu có, lợi dụng lúc chúng chưa kịp định thần, đạp ào qua đầu chúng mà chạy. Tuyệt đối không được chạy ngược lại. Cầm chắc 8-9 phần cái chết, nhưng dẫu sao cũng còn 1-2 phần may thoát, sống… Cách thứ hai: giơ hai tay lên, đầu hàng!

Thú thật chúng tôi đều sợ bị bắt hơn sợ chết. Chết là hết. Bị bắt thì… còn dài: tù tội, tra tấn, sỉ nhục…, và dẫu còn sống sau này trở về, bao nhiêu tra vấn, nghi kị, hạch sách của đồng đội, đồng chí, của tổ chức, của ánh mắt bà con nữa…

Tôi thì thào với Giả:

– Vậy nghe. Thề đi.

“Vậy” tức là quyết phương án một.

Giả nói:

– Thề!

Tôi để ý mấy lần Giả ẩy tôi về phía sau, chen lên trước, sát miệng hầm: anh ấy quyết định lộ sẽ nhảy lên trước, liều chết, cho tôi chạy, may ra còn thoát.

Suốt một ngày. Dài lê thê và căng thẳng đến mức khoảng nửa buổi chiều, không cưỡng nổi, tôi gục ngủ mê mệt. Giả cứ phải véo vào đùi, sợ tôi ngủ say, ngáy to thì nguy. Ở hầm rất dễ ngủ quên…

Tối, Mỹ rút. Chúng tôi thoát. Đêm ấy trở về Phái Nhất, bà Vịnh chửi Giả:

– Bữa ni mà ông Thành chết, thì mi đừng hòng ló mặt về đây với tau.

Giả nói, bình thản:

– Anh Thành hy sinh thì tui cũng không trở về đâu. Bà đừng lo…

Giả với tôi là như vậy, suốt một năm rưỡi Điện Hòa. Sống chết có nhau. Cũng có lần tôi cứu Giả. Nhưng anh bảo vệ tôi là chính, như là vị thần hộ mệnh của tôi. Những ngày ấy tôi hay nghĩ, nhiều lúc một cách khó chịu, bực tức: tôi là cái thá gì trong cuộc chiến sống mái từng ngày này mà bao nhiêu người cứ sẵn sàng chết để cứu tôi: bà Vịnh, chị Liễu, anh chị Tới, cháu Lợi, Giả, Xuân (chính trị viên xã đội), Trương Văn Hòa, cô Hoa xã đội phó… Không tính, không kể hết được bao nhiêu lần.

Còn có bà Cửu Trấu nữa, một “nhân vật” không thể hiểu, đến nay vẫn còn sống.

Bà chẳng làm gì hết, suốt chiến tranh dài. Bà chỉ bán một cái quán mì Quảng. Tôi đã nói ở Điện Hòa, con đường xe lửa chạy qua xã – tất nhiên đã bị phá hoại hết, chỉ còn cái nền đường – chiếm vị trí cao khống chế. Trên cả cái tuyến “chiến lũy” tự nhiên ấy, lại có một chỗ nhô cao hơn hẳn, trước là nền ga Đông Quan, nay quen gọi là “dốc Cửu Trấu”. Dĩ nhiên thằng địch nào cũng dồn hết chú ý vào chỗ đó. Chúng tôi gọi đó là cái “họng ca-nông”: bao nhiêu bom, pháo, rốc-két, tên lửa, napalm, bom từ trường, bom tấn… đều trút hết xuống đấy. “Chiến công” duy nhất của bà Cửu Trấu là suốt chiến tranh, từ đầu đến cuối, cái quán của bà vẫn cứ trơ trơ đứng đó, bà vẫn cứ bán mì Quảng, vậy thôi, như không. Mỹ đốt, làm lại. Bom phá, dựng lại. Nhà cửa thì cần gì. Quyết định là cái cối đá. Mỹ lên, bà đem ném cái cối đã xuống hố bom trước nhà, lúc nào cũng ngập nước. Mỹ rút, bà vớt cối lên, xay bột, vậy là có mì. Mì Quảng là món ăn của con người Việt đang đi, trên đường dài Nam tiến, rất cơ động, miễn có bột tráng ra lá mì, ăn với gì cũng được, thịt heo, thịt bò, thịt gà, thịt vịt, cá, cùng lắm vài con ếch cũng xong. Chúng tôi đi đánh nhau, đi công tác các cánh về, ghé qua ăn mì, trả tiền hẳn hoi. Cũng có khi ăn chịu. Hoặc có lần bà tuyên bố: Bữa ni bọn bay đánh ngon, tau đãi, không lấy tiền!…

Thời 1971-72, Điện Hòa bị “cày trắng”. Một xã gần 5000 dân chỉ còn lơ thơ vài chục người trụ bám. Hoang vu một vùng Điện Bàn, Hòa Vang như mặt trăng. Vậy mà cái quán mì Quảng dốc Cửu Trấu vẫn còn. Đêm chúng tôi đi qua vùng đất bỗng rộng ra mênh mông gần như tuyệt đối không có người, một cái cây xanh cũng không, vẫn có thể ghé ăn mì quán Cửu Trấu. “Lương tâm nghề nghiệp” bà Cửu vẫn nguyên vẹn: vẫn hoàn toàn đúng chất mì Quảng, lát mì bao giờ cũng săn, vàng rộm, phớt một lớp mỡ mỏng, rau sống đàng hoàng, lạc rang giã rất mịn, không quá cháy một hạt, nước lèo ngọt lịm… Chúng tôi yên tâm. Quán mì bà Cửu Trấu còn đó. Vậy là ta vẫn còn. Cuộc chiến đấu vẫn còn…

Gần đây tôi có về thăm. Bà Cửu nay đã 92 tuổi, không còn bán mì nổi nữa. Thằng con trai bỏ đi lang bạt. Bà sống một mình, trong một căn lều rách nát, vẫn đúng nguyên trên nền quán cũ.

– Mẹ có nhận ra con không? – Tôi hỏi.

– Thằng Thành hả? Bao nhiêu đứa chết hết, răng mi còn sống?

Tôi biết trả lời làm sao!

Comments are closed.