Hoàng Lan giới thiệu
Hôm nay, chúng tôi xin tiếp tục giới thiệu những bài thơ xuất sắc nhất của những tác giả tài danh trong lâu đài thi ca Đức, được thể hiện trong tập thơ dịch “Nước Đức – Cổ tích mùa đông” của TS Phan Kim Hổ. Sau Goethe, chúng ta có thể nghĩ ngay đến Heinrich Heine, mà tên tuổi không còn bị gò bó trong ranh giới nước Đức, mà đã trở thành ngọn hải đăng của văn học thế giới. Ngày hôm nay, cùng với Goethe, ông là tác giả Đức danh giá bậc nhất, mà tên tuổi còn được lưu truyền trong nhiều quốc gia. Một số lượng không nhỏ các bài thơ của Heinrich Heine đã được phổ nhạc bởi những nhạc sĩ tài danh như Robert Schumann, Franz Schubert, Richard Wagner. Những bài hát đó vẫn chạm đến cảm xúc người nghe và lay động chúng ta cho đến tận bây giờ. Heinrich Heine được xem là một trong những đại diện cuối cùng và đồng thời là người vượt qua Chủ nghĩa Lãng mạn, để bước vào giai đoạn mới, làm người tiên phong của Thi ca hiện đại. Ông đã đưa ngôn ngữ đời thường vào thơ ca, nâng thể loại văn học bình dân và bút ký du lịch lên thành một hình thức nghệ thuật, và mang đến cho văn học Đức một vẻ thanh thoát, nhẹ nhàng chưa từng có trước đó. Cựu Tổng thống Đức Roman Herzog từng phát biểu: “Dù Heinrich Heine, như mọi nghệ sĩ, có những người tiền nhiệm và kế thừa, dù ông là đứa con của thời đại mình, ông vẫn là một hiện tượng độc nhất”.
Harry Heine, tức Heinrich Heine (1797-1856) là một trong những thi nhân hàng đầu của chủ nghĩa lãng mạn châu Âu. Nhưng ở Heine, tính lãng mạn không còn bị gò bó trong khuôn thước tình yêu trai gái, mà nó tỏa sáng trong một không gian rộng lớn hơn nhiều. Đó là tình yêu con người, yêu phẩm giá đạo đức, yêu giá trị thiêng liêng trong đời sống, yêu không gian bình đẳng, tự do, trong một thời kỳ khi mà châu Âu vẫn còn bị ngự trị bởi các vương triều chuyên chế hà khắc. Heinrich Heine vẫn tự gọi mình là “đứa con tự do hơn nhiều của sông Rhine tự do”, như ông từng viết trong lời tựa tập trường thi hơn 2000 câu “Nước Đức. Một chuyện cổ tích mùa đông” (Deutschland. Ein Wintermärchen) xuất bản năm 1844, tác phẩm đã làm ông một lần nữa rơi vào tầm ngắm của vương triều Đức. Tác phẩm bị tịch thu và cấm phổ biến. Cuối năm đó, vua Phổ còn phát lệnh bắt Heinrich Heine. May mắn thay, Heine lúc ấy đang còn lưu vong ở Paris.
Cũng chính vì tính lãng mạn nhân văn, mà Heinrich Heine dễ bị cuốn hút vào trào lưu cách mạng ngày càng dồn dập ở tiền bán thế kỷ 19 ở châu Âu. Heinrich Heine chưa bao giờ là một nhà cách mạng, mà chỉ làm người quan sát, ca tụng nó, diễn đạt cảm xúc của mình bằng phong thái lãng mạn đầy tính nhân văn đối với những biến cố cách mạng. Nhưng cũng nhờ thế, thơ của Heine đã làm rung động biết bao trái tim thanh niên trí thức, có tác dụng thôi thúc họ dấn thân tham gia vào cách mạng. Trong tâm thái nhân văn đó, Heinrich Heine dần dần thoát ra khỏi chủ nghĩa lãng mạn cổ điển, để trở thành người tiên phong của trào lưu thi ca hiện đại, mà tinh thần của nó dựa trên ý niệm tự do, trong một thời đại mà đời sống chính trị là biểu tượng của bảo thủ, trì trệ, bạo lực, áp bức. Đó là thời kỳ mà lịch sử Đức gọi là kỷ nguyên Trước Tháng Ba (Vormärz), đánh dấu thời kỳ hỗn loạn chính trị, tranh chấp ý thức hệ giữa chủ nghĩa dân tộc, chủ nghĩa tự do, chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa phục hồi Restauration). Đó là thời kỳ bắt đầu từ cuộc cách mạng tháng 7 năm 1830 tại Paris cho đến cách mạng dân chủ tháng 3 năm 1848 ở khắp các nước Tây Âu.
Những tác phẩm mang phong thái nhân văn, đầy sáng tạo về hình thức, đồng thời mang nội dung phê phán xã hội đã khiến ông trở thành người tiên phong, một ngọn hải đăng của Thi ca hiện đại, với số lượng độc giả yêu mến ngày càng nhiều, nhưng đồng thời, phản ứng của các thế lực thù địch cũng ngày càng gay gắt, nhất là phản ứng của các vương triều chuyên chế. Giống như nhiều trí thức, văn nghệ sĩ cùng thế hệ, Heinrich Heine phải chịu đựng bầu không khí chính trị ngột ngạt của loại nhà nước cảnh sát ở Đức trong thời đại Hậu-Napoléon. Việc sáng tác văn học của Heine bị phủ bóng bởi chế độ kiểm duyệt hà khắc, đi kèm với sự đe dọa, đàn áp đối với những văn nghệ sĩ có xu hướng tự do. Đấy là chưa kể, nguồn gốc Do Thái của mình đã biến ông thành tâm điểm của biết bao cuộc tấn công do sự thù hận từ mọi phía, từ chính quyền, từ môi trường nghề nghiệp, cho đến những hiệp hội, những văn nghệ sĩ có tư tưởng bài Do Thái. Heinrich Heine được nhiều người ca ngợi và cũng bị những người khác ruồng bỏ. Chưa từng có thi nhân Đức nào khác đã tạo ra những phản ứng dữ dội như vậy.
Bị thúc đẩy bởi sự thất vọng và vỡ mộng về tình hình chính trị nước Đức, nơi không có chỗ đứng cho những nghệ sĩ thuộc xu hướng tự do như ông, Heinrich Heine quyết định rời quê hương Đức năm 1831 để sang định cư ở Paris, sau sự thành công vang dội của các lực lương dân chủ tự do Pháp trong cuộc cách mạng tháng 7 năm 1830. Heine hy vọng rằng ở đó, ông với tư cách là một nghệ sĩ tự do, sẽ có một môi trường tốt đẹp để sáng tác. Khi nghe tin cuộc cách mạng tháng 7 ở Paris đã thành công, Heine viết như sau vào ngày 10 tháng 8 năm 1830 trên đảo Helgoland để ca tụng những chiến sĩ cách mạng: “Tôi là đứa con của cách mạng và tôi lại cầm lấy vũ khí được người ban phước. Ôi những đóa hoa! Đóa hoa! Tôi muốn đội vòng hoa lên đầu để chiến đấu đến chết. Và cả đàn Lyra nữa, hãy đưa cho tôi cây đàn Lyra, để tôi hát những bài ca xung trận… Lời ca sẽ giống như những ngôi sao bốc cháy, lao xuống từ trên cao, đốt cháy các cung điện và soi sáng những túp lều …”. Chắc hẳn cuộc cách mạng dân chủ đó làm cho Heine quyết định di dân sang Paris, với hy vọng được sống trong không khí tự do để sáng tác. Paris trước đó đã là biểu tượng của văn chương, nghệ thuật, tự do, tiến bộ. Tưởng rằng chỉ là chuyến đi tạm lánh nạn vài năm, nhưng không ngờ ông đã sống ở Paris suốt nửa đời người, cho đến ngày mất năm 1856. Paris không chỉ là nơi Heine sống lưu vong, mà đã thực sự trở thành quê hương thứ hai của ông.
Vào thập niên 1830, trong lúc ở Đức, Heinrich Heine trở thành người hùng của một thế hệ nghệ sĩ trẻ tiến bộ, thì ở Paris, với phong cách hóm hỉnh, thông minh và nhanh trí, ông là khách mời được săn đón nồng nhiệt trong các câu lạc bộ học thuật của thủ đô nước Pháp. Heinrich Heine nhanh chóng trở thành vị sứ giả văn học cho hai quốc gia láng giềng, một bên là quê hương nơi chôn nhau cắt rốn, bên kia là quê hương thứ hai, nơi tài năng của Heine được phát triển sung mãn. Ông kết bạn với những nhân sĩ hàng đầu của Pháp như Victor Hugo, Alexandre Dumas, Théophile Gautier, Eugène Delacroix…, những nghệ sĩ nổi danh sống tạm ở Paris như Frédéric Chopin, Franz Liszt, Ludwig Böhne, Richard Wagner… Heine giữ liên lạc với những người tiên phong trong phong trào công nhân Đức, với người em họ Karl Marx và những người bạn cấp tiến của Marx.
Heinrich Heine đã làm tròn vai trò sứ giả văn học cho hai quê hương. Ông giới thiệu cho người Pháp về thơ ca và triết học Đức như Về lịch sử tôn giáo và triết học ở Đức (Zur Geschichte der Religion und Philosophie in Deutschland – 1835), hoặc Trường phái Lãng mạn (Die romantische Schule – 1836). Đồng thời ông viết về nước Pháp cho độc giả Đức, thí dụ tình hình chính trị Pháp: Tình trạng nước Pháp (Französische Zustände – 1833), hoặc về nghệ thuật, sân khấu, âm nhạc ở Paris, như Họa sĩ Pháp (Französische Maler – 1833), Về sân khấu Pháp (Über die französische Bühne – 1838). Và khi cuộc tranh luận văn học, chính trị ở Đức được khơi lại vào thập niên 1840, Heine đã lên tiếng từ Paris với những đóng góp được ưa chuộng rộng rãi như Atta Troll. Giấc mộng đêm hè (Atta Troll. Ein Sommernachtstraum – 1843), hoặc Nước Đức. Một chuyện cổ tích mùa đông (Deutschland. Ein Wintermärchen – 1844), hoặc Thơ ca thời đại (Zeitgedichten – 1844). Tiếc thay, cuộc đời không hề ưu ái một tài năng lưu vong. Là một nhà thơ Đức, Heine tất yếu phải dựa vào độc giả Đức; nhưng lệnh cấm hành nghề và cấm xuất bản mà chính quyền Đức áp đặt vào cuối năm 1835 đối với ông và bốn nhà văn trẻ của nhóm “Nước Đức Trẻ – Junges Deutschland” đã giáng một đòn nặng nề lên đời sống kinh tế của Heine, mặc dù ông đang ở nước ngoài.
Nhưng không riêng lĩnh vực văn học, với phong thái nhân văn, Heinrich Heine là cầu nối lý tưởng giữa tầng lớp trí thức, văn nghệ sĩ Pháp và Đức. Ông là một người quốc tế, một vị đại sứ quan trọng bậc nhất giữa Đức và Pháp trong thế kỷ 19. Với đạo đức xã hội của mình, Heine là người con được chào đón trong mọi cộng đồng yêu tự do. Văn sĩ người Pháp Alexandre Dumas từng nói: “Nếu Đức không muốn nhận Heinrich Heine, chúng tôi sẵn lòng cưu mang anh ấy. Nhưng tiếc là anh ấy yêu nước Đức hơn mức nó xứng đáng được yêu đến thế”. Ở Paris, Heinrich Heine luôn mang trong lòng một nỗi buồn man mác, thường mất ngủ vì nhớ nhà, nhưng sáng dậy, khi những tia nắng buổi sáng xuyên qua cửa sổ, ông lại thấy vui mừng vì một ngày mới vui tươi theo phong cách Pháp bắt đầu.
Có lần, Heinrich Heine viết thư cho mẹ: “Mẹ ạ, con chẳng làm nên trò trống gì trên đời này”. Chắc hẳn Heine đã sai khi nói thế. Heine không biết rằng, có hàng triệu người trên thế gian đã được ông ban cho những phút giây xuất thần, những tâm thái bình an khi đọc tác phẩm của ông, dù đó là những bài thơ lãng mạn, hay những câu thơ châm biếm. Những cảm xúc của ông đã êm ái truyền qua độc giả, dù là tình yêu hay thù hận, chúng vẫn bị phong thái hài hước và châm biếm của ông làm hồn thơ trở nên dịu nhẹ. Có nhà phê bình văn học nói rằng, Heine là người đầu tiên mang giọng điệu châm biếm vào thơ ca trữ tình Đức, vốn dĩ có phong thái rất nghiêm túc cho đến lúc đó. Điều này cũng mang tính đột phá như việc ông là người đầu tiên đã tiếp cận ngôn ngữ tiếng Đức đời thường để thi vị hóa nó và đưa vào ngôn ngữ thơ ca. Gia tài mà Heinrich Heine để lại quá đồ sộ, sao có thể gọi là “chẳng làm nên trò trống gì”.
***
Đó là vài nét về cuộc đời Heinrich Heine. Bây giờ, mời các bạn thưởng thức ba tuyệt tác của ông, kèm theo những lời giải thích của chính người dịch Phan Kim Hổ về nội dung, thể thơ và cách gieo vần trong các bài thơ.
Bài số 1: Nước Đức. Chuyện cổ tích mùa đông (Deutschland. Ein Wintermärchen). Trích chương 1.
“Nước Đức, chuyện cổ tích mùa Đông” là tựa một tập thơ 75 trang, bao gồm phần dẫn nhập, 27 chương (Caput), 535 phân khúc, tổng cộng là 2059 câu và phần bổ túc ở cuối, mang tính châm biếm và trào lộng, đả phá nhà nước quân phiệt Phổ và giới tăng lữ.
Trong phần bổ túc, Heine có viết thêm 11 phân khúc, kể lại nguyên nhân, thời lượng của chuyến đi, kèm theo các lời bình luận, những lời châm chọc sâu cay.
Ông sáng tác tập thơ sau chuyến đi từ Pháp về Đức năm 1843, bước qua biên giới, xuyên qua các thành phố, các địa danh nổi tiếng để đến viếng thăm mẹ và nhà phát hành các tác phẩm của ông. Ở mỗi chặng đường, ông ghi lại cảm tưởng và nhận xét của mình.
Mô hình vần: Chỉ có câu 2 và câu 4 vần nhau trong mỗi phân khúc 4 câu thơ
Deutschland. Ein Wintermärchen (1844) Caput I Heinrich HeineIm traurigen Monat November war′s, Die Tage wurden trüber, Der Wind riß von den Bäumen das Laub, Da reist ich nach Deutschland hinüber. Und als ich an die Grenze kam, Und als ich die deutsche Sprache vernahm, Ein kleines Harfenmädchen sang. Sie sang von Liebe und Liebesgram, Sie sang vom irdischen Jammertal, Sie sang das alte Entsagungslied, Ich kenne die Weise, ich kenne den Text, Ein neues Lied, ein besseres Lied, Wir wollen auf Erden glücklich sein, Es wächst hienieden Brot genug Ja, Zuckererbsen für jedermann, Und wachsen uns Flügel nach dem Tod, Ein neues Lied, ein besseres Lied! Die Jungfer Europa ist verlobt Und fehlt der Pfaffensegen dabei, Ein Hochzeitkarmen ist mein Lied, Begeisterte Sterne, sie lodern wild, Seit ich auf deutsche Erde trat, |
Nước Đức. Chuyện cổ tích mùa đông (1844) Chương I Heinrich Heine Tháng Mười Một không gian buồn chán, Bầu trời càng mờ đục từng ngày, Tàn cây tuôn lá theo gió cuốn, Ta trở về nước Đức lúc này. Và khi chân bước qua biên giới, Và khi tai vừa nghe tiếng Đức, Cô bé chơi hạc cầm ca hát. Bé hát về tình yêu, đau xót, Bé hát về trần gian bể khổ, Bé hát bài ca từ bỏ*) cũ, Tôi biết cách thức, luôn bài viết, Một bài thơ mới, bài tốt hơn thật, Chúng ta muốn yên vui trên trần thế, Cõi đời này bánh mì mọc đủ Vâng, đậu Hà Lan cho đồng loại, Và sau khi chết chúng ta mọc cánh, Một bài hát mới, hay nổi trội! Cô gái trẻ Âu châu đính ước Tuy là thiếu phép lành linh mục, Thơ ca lễ cưới là bài hát, Ngôi sao hứng khởi, bùng cháy hoang dại, Từ khi đặt chân lên đất Đức, Phan Kim Hổ dịch 27.10.2021 |
*) Bài ca từ bỏ/Entsagungslied: từ bỏ lạc thú trên đời (trên thiên đàng đời sống tốt hơn, trên trái đất con người nên sống đạo, đạm bạc và nhẫn nhục.)
**) Thần Genius: thần hộ mệnh của đàn ông trong tôn giáo Roma.
***
Bài số 2: Mẹ ơi (An meine Mutter)
Thể thơ xô-nê, gồm 2 phần, mỗi phần 4 phân khúc (4, 4, 3, 3)
Mỗi câu thơ có 11 âm tiết trong bản gốc tiếng Đức (tiếng Việt 8 âm tiết)
Mô hình vần bản tiếng Đức: abba abba ccc ddd (phần 1) và abba abba ccdeed (phần 2)
Ghi chú:
Thơ xô-nê (Sonett) là một thể thơ xuất hiện trong thế kỷ thứ 13 ở Ý rồi dần lan truyền cả châu Âu từ thế kỷ thứ 16. Về niêm luật, thể thơ này có thể tạm so sánh với thơ Đường ở Việt Nam, Trung Quốc, với yêu cầu chặt chẽ về số câu thơ, số âm tiết trong mỗi câu và quy tắc gieo vần.
Một bài thơ xô-nê nhất thiết phải có 14 câu, được chia thành 4 phân khúc, hai phân khúc đầu có bốn câu mỗi phân khúc (Quartett) và hai phân khúc sau có ba câu mỗi phân khúc (Terzett) (4, 4, 3, 3). Mỗi câu thơ có đúng 11 âm tiết, cách gieo vần ở cuối mỗi câu được quy định rõ ràng như sau: abba abba cbc cbc.
Theo thời gian, thơ xô-nê đã có các biến thể khác nhau: số âm tiết trong mỗi câu có thể tăng lên (12, 13 … thay vì 11), vần gieo trong hai phân khúc cuối có thể thay đổi:ccc ddd hoặc ccd eed, v.v.
Bên Anh, nhà thơ William Shakespeare và các nhà thơ khác sáng tác những bài xô-nê 14 câu cũng được chia thành 4 phân khúc, nhưng số câu thơ trong hai phân khúc sau có thay đổi: 4, 4, 4, 2 thay vì 4, 4, 3, 3. Cách gieo vần cũng biến đổi. Biến thể này được gọi là thể thơ xô-nê Anh (hoặc xô-nê Shakespeare).
An meine Mutter (1827) Heinrich Heine1 Ich bin′s gewohnt, den Kopf recht hoch zu tragen, Mein Sinn ist auch ein bißchen starr und zähe; Wenn selbst der König mir ins Antlitz sähe, Ich würde nicht die Augen niederschlagen. Doch, liebe Mutter, offen will ich′s sagen: Ist es dein Geist, der heimlich mich bezwinget, Dein hoher Geist, der alles kühn durchdringet, Und blitzend sich zum Himmelslichte schwinget? So manche Tat, die dir das Herz betrübet? 2 Die Liebe suchte ich auf allen Gassen, Und immer irrte ich nach Liebe, immer Und ach! was da in deinem Aug′ geschwommen, Das war die süße, langgesuchte Liebe. |
Mẹ ơi (1827) Heinrich Heine1 Con đã quen ngẩng cao đầu ngạo nghễ, Tính cũng hơi ngang bướng lẫn chai lì; Nếu chính nhà vua tận mặt nhìn kỹ, Con cũng chẳng buồn chớp mắt tránh đi. Nhưng, mẹ yêu, trải lòng con muốn kể: Có phải tinh thần mẹ ngầm chiến thắng, Nhiều hành vi, khiến tim mẹ đau đáu? 2 Con tìm tình yêu trên mọi ngõ hướng, Và lưu lạc theo tình yêu, mãi mãi Ô kìa! cái trong mắt mẹ ngân ngấn, Phan Kim Hổ dịch 30.10.2021 |
Bài số 3: Lời ca chấp cánh (Auf Flügeln des Gesanges)
Mô hình vần: Vần chéo abab trong mỗi phân khúc 4 câu thơ
Auf Flügeln des Gesanges (1822) Heinrich HeineAuf Flügeln des Gesanges, Herzliebchen, trag ich dich fort, Fort nach den Fluren des Ganges, Dort weiß ich den schönsten Ort. Dort liegt ein rotblühender Garten Die Veilchen kichern und kosen, Es hüpfen herbei und lauschen Dort wollen wir niedersinken |
Lời ca chấp cánh (1822) Heinrich Heine Trên đôi cánh của lời ca hát, Em yêu, anh đưa em xa rời, Đến sông Hằng thăm nhiều vùng đất, Nơi anh biết chỗ đẹp nhất đời. Nơi vườn hoa đỏ nở phơi phới Hoa tím khúc khích cười trìu mến, Bầy linh dương thông minh, thuần tánh Nơi chúng ta muốn ngả người xuống Phan Kim Hổ dịch 05.12.2021 |
Nguồn: https://diendankhaiphong.org/ba-tuyet-pham-cua-heinrich-heine/