Bến lở (kỳ 7 – hết)

Tiểu thuyết

Nxb Lao Động, 2008

Tác giả Đặng Văn Sinh

 

CHƯƠNG 13

Giữa tiết đại hàn. Gió bấc hun hút và mưa phùn giăng giăng làm cho cánh rừng Tà Keo rộng mênh mông lô xô những chóp núi nhọn như co lại. Dưới tán rừng âm u, anh em tù binh lúc nào cũng cảm thấy ngày có vẻ quá ngắn mà đêm lại quá dài. Hết thời gian lao tác và phục dịch, anh em tù binh chẳng biết làm gì ngoài việc đánh cờ và chơi bài. Trại giam được xây khá kiên cố. Nhà bê tông, mái lợp tôn, chung quanh có tường cao bao bọc. Anh Thụ và Phan ở cùng một căng. Bọn cai ngục ở đây không đến nỗi hà khắc lắm. Có thể chúng hiểu, tù binh chiến tranh cần phải được đối xử theo công ước quốc tế, nhưng cái quan trọng là, trên khắp chiến trường miền Nam, quân ta đang thắng lớn, ngày tận số của chính quyền Sài Gòn cùng với đội quân đánh thuê đang đến gần.

Biết  Thụ là kỹ sư, viên giám đốc cử anh phụ trách việc mở con đường xuyên đèo 465 nối với đường 122 để xe nhà thầu chở lương thực, thực phẩm vào tận trại, không phải tăng bo như trước. Trại B42 có khoảng hơn bốn nghìn tù binh, phần lớn quê miền Bắc, bị chúng gom lại từ các mặt trận miền Trung và Tây Nguyên. Trong đám cai tù có một viên trung uý người Bắc tên là Sang cùng làng với Thụ. Sang vốn là sinh viên y khoa, bị bắt lính rồi đưa đi học ở Quân trường Thủ Đức. Trong trận Khe Sanh, do mệnh lệnh ngu xuẩn của viên đại uý, tiểu đoàn 7 của anh ta bị quân Giải Phóng ép vào thế giữa hai gọng kìm ở sườn Rú Lài không có đường rút. Kết quả chỉ có Sang và vài tên lính chạy thoát. Về căn cứ, Sang túm ngực gã chỉ huy dốt nát thoi cho mấy quả đấm vào quai hàm. Tay đại uý bị mất mặt trước đám sĩ quan liền ra lệnh tống giam anh ta. Mấy hôm sau Sang bị chuyển về trại giam Bắc Dương (B42) này coi giữ tù binh.

Khi mối quan hệ giữa hai người đã có chiều thân thiết, Thụ ngỏ ý muốn tổ chức cho một số anh em trốn trại. Nghe xong, Sang bảo:

– Từ mấy năm nay, việc trốn chạy của tù binh hầu như không thể thực hiện được vì chung quanh có lực lượng bảo vệ rất chắc chắn, đặc biệt là hệ thống hoả lực. Anh chỉ cần thoát khỏi tường trại, là lập tức bộ phận báo động điện tử của Hoa Kỳ phát hiện ngay. Đầu năm ngoái, có ba tù binh, trong khi lao tác bỏ vào rừng đã bị bắt lại và xử bắn ngay tại chỗ.

– Vậy là chúng tôi phải sống mòn mỏi ở cái địa ngục trần gian này cho đến lúc hết chiến tranh à? – Thụ lắc đầu chán nản hỏi.

– Theo tôi cũng chẳng còn lâu nữa.

– Anh nói sao? Tình hình chiến cục dạo này có gì biến chuyển?

– Anh đừng tin vào mấy tờ lá cải mà ông trung tá Thăng đưa vào cho tù binh xem. Thực tế Quân lực Việt Nam Cộng hoà đang sa lầy ở khắp các mặt trận. Tôi nghe những nguồn tin từ Tổng hành dinh, có thể quân Mỹ sẽ rút khỏi Nam Việt Nam trong nay mai. Quân Giải phóng đã tràn ngập Tây Nguyên và hoà đàm Ba Lê sắp đến hồi chót.

– Kế hoạch sắp tới của trại này là gì?

– Tôi được biết trung tá Thăng sẽ cho mở con đường phía nam từ trại B42 đến tỉnh lộ 122 mà ông ta gọi là “đường ruột ngựa”. Tôi không biết ngoài việc để cho nhà thầu vận chuyển lương thực, thực phẩm nó còn được dùng vào mục đích gì nữa, nhưng có điều chắc chắn là anh sẽ được giao phụ trách thi công dưới sự giám sát của lực lượng quân cảnh.

– Hôm qua ông Thăng đã nói với tôi việc này.

– Vậy là thuận lợi rồi. Tôi có một vài người bạn ở quân cảnh, nếu có thời cơ họ sẽ tạo điều kiện cho anh.

Thụ trầm ngâm một lúc rồi hỏi:

– Tôi có một cậu bạn, hắn coi tôi như anh, cả hai cùng bị bắt một lượt, liệu các bạn có thể giúp được không?

– Hai người thì được, nhiều hơn sợ khó thành.

Một tuần sau, Sang gặp anh Thụ bảo:

– Các anh chuẩn bị đi.

– Kế hoạch thế nào xin anh cho biết trước?

– Rất đơn giản. – Sang chỉ đoạn đường mới mở phía tây nam thì thầm. – Ngày kia nhà thầu sẽ mang nhu yếu phẩm vào Trại. Tôi sẽ bố trí trước để xe “trục trặc” dọc đường, tối mới đến nơi. Sau khi họ dỡ hàng, các anh phải nhanh chóng chui vào hòm xe lấy bao bố đắp rồi nằm ép vào đống thùng sọt. Ra khỏi trại, đến ngã ba Tuần Lộc, xe dừng, các anh sẽ có khoảng ba mươi phút để chạy vào rừng. Nơi ấy là vùng đồng không mông quạnh rất khó vây ráp. Tôi chỉ có thể giúp các anh được đến thế, còn sau thế nào, cái ấy là tuỳ vào lượng Chúa.

Thụ xiết chặt tay viên trung uý:

– Cảm ơn anh. Nhưng còn anh ở lại, tôi ngại ông trung tá sẽ nghi ngờ.

– Anh yên tâm, tôi sắp phải ra Quảng Trị rồi. Có thể lần này gặp anh là lần cuối cùng…

Ngay tối hôm ấy Thụ báo tin cho Phan. Suốt đêm hôm ấy và cả ngày hôm sau, hai người bồn chồn không yên, tâm trạng luôn phấp phỏng, chỉ sợ kế hoạch thất bại. Thời gian dài dằng dặc, đầu óc Phan bị căng ra. Đây là ván bài liều, anh đánh cuộc bằng chính mạng sống của mình. Được ăn cả, ngã về không, nếu chẳng may thất bại cũng chẳng có gì tiếc nuối. Buổi tối Phan vẫn tỏ ra bình tĩnh tham gia các cuộc chơi bài với anh em trong căng. Đó là những người bạn cùng cảnh ngộ. Họ đối xử với anh chân thành, đầy tình nghĩa. Họ là chỗ dựa tinh thần cho anh những lúc tâm hồn bị vẩn đục. Vậy mà, trước lúc ra đi anh không thể nói với họ một lời. Hãy thông cảm và tha thứ cho tôi. Tôi ra trước, nếu trót lọt, sẽ tìm về đơn vị chiến đấu để sớm giải thoát cho các anh.

Ngày 27 tháng chạp, đúng như kế hoạch, chiếc xe thùng nhà thầu mãi đến bảy giờ tối mới vào trại Bắc Dương. Người ta nhanh chóng dỡ hàng rồi quay đầu xe. Đúng vào lúc ấy Thụ và Phan từ phía sau nhà bếp lẻn ra chui vào thùng xe. Hai anh em quờ quạng lôi được tấm bao bố khoác vào người, sau đó nằm đối đầu nhau co như con tôm ép vào giữa đống bao gì, sọt tre đựng cá và rau quả. Ra khỏi trại chiếc xe tải hòm nhãn hiệu Mitsubishi chạy như hoá rồ. Đường xấu, trời lại mới mưa, lầy lội, hai anh em bị giáng những cú sóc kinh người. Ước chừng được khoảng bốn mươi phút, xe đột ngột dừng. Một giọng Quảng Nam nằng nặng nói vọng vào:

– Xin mời hai quý anh ra cho. Đây là ngã ba Tuần Lộc rồi.

Thụ và Phan vừa từ trên thùng bước xuống người lái xe đã ấn vào tay Phan một gói:

– Trong này có tấm bản đồ, hai bộ quần áo bà ba với bọc thức ăn khô ông trung uý gửi quý anh. Từ đây vào đến vùng Giải phóng kiểm soát còn rất xa, mong các anh đi an toàn.

– Chúng tôi vô cùng biết ơn ông Sang và anh, mong rằng sau này có dịp gặp lại.

Chiếc xe vừa đóng sập cửa, lao vút đi, Thụ và Phan cũng nhanh chóng lẩn vào rừng. Việc đầu tiên họ phải làm là trút bộ quần áo tù, giấu đi, rồi mặc bộ bà ba, sau đó cứ theo hướng tây mà chạy. Đến gần sáng, anh em gặp một nương ngô trên sườn núi, giữa nương có chiếc chòi xiêu vẹo. Phan vừa mệt, vừa đói, ngồi phệt xuống đống thân cây mục nát thở dốc. Anh Thụ bảo:

– Ta lên chòi nghỉ một lúc. Ở trên ấy cao dễ quan sát.

Hai người vừa ăn lương khô vừa cảnh giới. Trời đã sáng nhưng rừng núi vẫn còn nhoè nhoẹt bởi màn sương đục như khói đang lởn vởn khắp nơi. Những chú chim xanh có cườm óng ánh như cu gáy bất chấp thời tiết giá lạnh, chẳng biết từ đâu bay đến lượn một vòng rồi đỗ xuống khoảng đất trống phía sau nhà chòi mổ những hạt đậu đỏ dại. Thứ quả này, Phan đã một lần thấy ở Cao Bằng, ăn có vị ngăm ngăm.

Trong khi Phan tranh thủ chợp mắt thì anh Thụ giở bản đồ nghiên cứu. Tấm bản đồ thật quý giá. Xem đi xem lại, cuối cùng anh đã xác định được toạ độ khu trại giam B42 và hướng chạy của hai người từ đêm qua đến giờ. Trưa hôm ấy, sau khi đã chợp mắt được một lúc, Thụ bảo Phan:

– Ta đi thôi, anh bạn.

– Bây giờ theo hướng nào hả anh? – Phan vẫn còn ngái ngủ, vừa ngáp vừa hỏi.

– Chếch về phía tây nam một chút, nhưng phải tránh các đường mòn. – Thụ chỉ ngón tay vào một vệt xanh nhạt trên bản đồ nói. – Trước hết phải vượt qua con suối này.

Chập tối, hai anh em đến một bản hoang. Bản này nằm giữa khu rừng tương đối bằng phẳng, có vẻ như mới bị cháy. Đây đó thỉnh thoảng vẫn còn những bụi chuối cao vóng, bị gió cao nguyên đánh tướp lá, những cây sau sau cằn cỗi mọc xen kẽ giữa những nền nhà trơ trụi, nhô lên vài cột gỗ cháy dở hoặc mấy mảnh lu vỡ. Cái bản hoang này hoàn toàn không còn sự sống. Từ đầu đến cuối, Phan chỉ thấy một quang cảnh âm u, cô đơn. Vượt qua khe nước, Phan nhìn lên thấy sườn núi lốm đốm trắng bạc xen kẽ những mảng xanh sẫm trông giống như hoa dẻ ngoài Bắc liền hỏi:

– Hoa gì thế anh Thụ nhỉ?

Anh Thụ cũng lắc đầu:

– Từ trước đến giờ mình chưa gặp loại hoa này, có thể là hoa ê pang hoặc hoa pơ rao gì đó.

– Đẹp thật, trông như tấm thảm Ba Tư ấy.

– Cậu lãng mạn quá. Thôi đi!

Đêm ấy, hai anh em tìm được cái hang trong lèn đá. Lèn đá này gần con suối lớn, nhưng vì là mùa khô nước cạn, lội qua dễ dàng. Mỗi người ăn một chút lương khô xong, cả hai đều quá mệt mỏi, lăn ra ngủ chẳng kể đến trời đất gì nữa.

Sáng hôm sau, khi vừa thức dậy, đang mắt nhắm mở, Phan bỗng lạnh toát người, lưỡi líu lại không nói được mà chỉ lấy tay kéo áo anh Thụ. Ngoài cửa hang có ba người đàn ông, một cầm khẩu ga răng, còn hai người kia cầm nỏ đang nhắm vào mình. Anh Thụ có vẻ bình tĩnh hơn, nhìn người thanh niên cầm súng hỏi:

– Các anh là du kích giải phóng phải không?

Anh ta không trả lời mà ra lệnh bằng thứ tiếng Kinh lơ lớ hoàn toàn không có thanh điệu:

– Chung may đa bi bat. Ra khoi cai hang ngay! (Chúng mày đã bị bắt. Ra khỏi cái hang ngay!)

– Chúng tôi là bộ đội giải phóng mà. – Anh Thụ giải thích cho ba người hiểu.

– Chieu hôm qua A Tiêng đa nhin thay chúng may xem ban đo (Chiều hôm qua A Tiêng đã nhìn thấy chúng mày xem bản đồ) – Một người cầm nỏ, nước da nâu bóng chừng năm mươi tuổi, mắt xếch, tóc xoã xuống tận vai nói. – Chúng may lam tham bao cho My, tội nhêu nhieu, bay giơ đi theo chung tao vê Ban Xa đoi (Chúng mày làm thám báo cho Mỹ, tội nhiều nhiều, bây giờ đi theo chúng tao về Ban Xã đội)

Không để cho Thụ và Phan trình bày, họ lấy dây dù trói gô hai anh em lại rồi điệu ra khỏi hang. Ông già tóc xoã và chàng thanh niên trẻ cầm nỏ đi trước. A Tiêng đi sau, súng lăm lăm trong tay, giục hai người lội nhanh qua suối. Cả bọn luồn lách trong rừng khá lâu trên những con đường mòn bí mật, gần trưa, thì đến một khu rừng rậm rạp, cây cối, dây leo chằng chịt tối om như rừng nguyên sinh. Thấp thoáng dưới lùm cây kê tang là một căn nhà lợp tranh vách thưng phên nứa, chung quanh có hàng rào tre gai. Một thanh niên mặc bộ quần áo rằn ri rộng thùng thình, vai khoác khẩu AK 47, đầu đội mũ tai bèo từ trong nhà bước ra, nhìn thấy hai người anh ta hỏi ông già:

– Biệt kích hả? Tóm được ở đâu?

– Tui nay la tham bao, đêm qua chui vao hang ngu, chung tao bi mât theo doi mai mơi băt đươc (Tụi này là thám báo, đêm qua chui vào hang ngủ, chúng tao bí mật theo dõi mãi mới bắt được).

– Đưa vao trong nay cho Bleo hoi toi chung (Đưa vào trong này cho Bleo hỏi tội chúng ).

Trong nhà xã đội có hai người. Xã đội trưởng Bleo mặc áo bông tay cầm con dao nhọn đang gọt chiếc tẩu gỗ. Người thứ hai mặc bộ đồ bà ba, khoác thêm chiếc đại cán ka ki. Anh này tóc cắt cao, lông mày rậm, mắt hơi xếch, đang hý hoáy viết gì đó vào cuốn sổ tay. Nhìn thấy Thụ và Phan bước vào, Bleo hỏi ngay:

– Chung may ở Chi khu Binh Đien phai không? Khai mau ra! (Chúng mày ở chi khu Bình Điền phải không?)

– Chúng tôi không phải thám báo mà là tù binh trốn trại.

– Nói láo! – Người đàn ông mặc đại cán chen vào bằng thứ tiếng Kinh rất chuẩn. – Chung quanh đây là căn cứ của du kích giải phóng, làm gì có trại tù binh nào?

– Chúng tôi trốn từ trại B42 ở Tà Keo, sau đó chạy vào rừng từ ngã ba Tuần Lộc tối ngày hôm kia.

– Các anh có bằng chứng gì không?

– Không, chỉ duy nhất có tấm bản đồ mà người bạn đồng hương là sĩ quan trại giam cho để tìm đường.

– Tất cả có mấy người trốn và thoát được những ai?

– Chỉ có hai chúng tôi.

Người mặc áo đại cán ngẫm nghĩ một lúc rồi bảo:

– Chưa thể tin các anh được. Bọn thám báo nhiều mánh khoé lắm. Bây giờ các anh hãy theo Bleo vào lán trong rừng và làm bản khai thật đầy đủ quá trình bị bắt, bị giam cho đến lúc trốn trại, để chúng tôi báo cáo lên cấp trên.

Ngày hôm sau Thụ và Phan vẫn bị giữ trong rừng dưới sự giám sát chặt chẽ của mấy du kích người Ê đê. Đến bữa, họ đưa cho anh em thứ cháo ngô nấu với thịt lợn hộp rất khó nuốt. Sang ngày thứ ba, người mặc áo đại cán xuất hiện. Anh ta hỏi riêng Thụ và Phan những điều chưa rõ ràng trong các bản khai. Sau khi căn vặn đủ điều, thấy không có sự mâu thuẫn anh mới bảo:

– Tôi là Lễ, cán bộ huyện đội phụ trách mấy xã khu vực núi Chư plênh này. Lúc đầu tôi đã ngờ ngợ các đồng chí là người mình nhưng vẫn phải đề cao cảnh giác vì kẻ địch lắm mưu kế thường tìm mọi cách đưa người của chúng vào hàng ngũ ta. Trường hợp của hai đồng chí, tôi đã cử người về huyện đội báo cáo. Huyện đội có chỉ thị, trước mắt hai người sẽ tạm ở với đội du kích. Thời gian tới, nếu có đơn vị chủ lực nào qua đây chúng tôi sẽ đề nghị họ tiếp nhận.

Thụ và Phan bấy giờ mới biết mình thoát nạn. Hai anh em gia nhập đội du kích Chư plênh và đã tham gia đánh mấy trận. Mấy tháng sau, biết Thụ là kỹ sư giao thông cấp trên đã rút anh về cử làm tiểu đoàn trưởng công binh. Phan được phiên chế vào một đại đội pháo binh, thuộc trung đoàn bộ binh của Quân khu. Cuối năm, trung đoàn hành quân ra Quảng Trị. Đang giữa chiến dịch, Phan bị thương nặng vì dính bom B52. Mảnh bom xé nát phần ngực, mất máu khá nhièu. Cũng may, bộ phận cứu thương đưa anh đến trạm phẫu kịp thời, chậm nửa giờ nữa là không cứu được. Mổ xong, người Phan xanh như tàu lá chuối, những đường tĩnh mạch ở cổ phập phồng. Khi tỉnh dậy, Phan thấy bên cạnh mình là một thiếu nữ mặc blouse trắng, chừng hăm hai hăm ba. Cô mừng quá reo lên:

– Anh ấy tỉnh rồi!

Nghe tiếng cô, ông bác sĩ quân y từ gian hầm bên chạy sang, cầm tay Phan xem mạch một lúc rồi bảo:

– Mạch vẫn còn yếu. Cô Huệ cứ ở đây theo dõi, có gì không ổn phải gọi tôi ngay.

– Được ạ. Bác sĩ cứ về hầm mổ đi…

Cô gái nói giọng nhỏ nhẹ rất dễ thương. Hai hôm sau, khi đã dậy được, Phan hỏi cô y tá:

– Huệ quê ở tỉnh nào?

– Em ở làng Vòng tỉnh Đông.

– Thế là đồng hương rồi đấy.

– Thật hay anh nói đùa?

– Tôi ở làng Yên cách làng Vòng một con sông, hồi còn ở nhà, thỉnh thoảng vẫn sang Cồn Láng đánh giậm.

– Cồn Láng trồng khoai lang Vân ngon lắm, đặc sản của làng em đấy.

Phan tủm tỉm cười:

– Ngon… thỉnh thoảng bọn tôi bới trộm nướng ăn, có lần bị bắt quả tang, bỏ cả giậm nhảy xuống sông bơi về.

– Con trai các anh là tai quái lắm. – Huệ chợt nhớ đến những kỷ niệm ở làng lúc còn bé sang cồn cắt cỏ. – Anh có nhớ cái năm thanh niên hai làng suýt nữa đánh nhau chỉ vì một con diều sáo không?

– Nhớ chứ… – Phan lẩm bẩm như là tự nói với mình. – Nghĩ lại mới thấy cuộc đời của người ta thật ngắn ngủi và lắm nỗi éo le. Huệ có biết không, tôi đã từng bị địch bắt giam mấy năm trời trong một cái trại giữa rừng già cách biệt hẳn với thế giới bên ngoài.

– Rồi sau anh làm thế nào mà thoát ra được?

– Có một người đồng hương là sĩ quan quân cảnh bố trí cho hai anh em trốn ra lúc chập tối rồi lội suối băng rừng mấy ngày mới gặp đồng bào mình.

 Huệ nghe xong nhoẻn cười nói đùa:

– Như vậy là anh đã qua cả lửa, nước và ống đồng… Sau này bản mệnh sẽ tuyệt đối an toàn, hạnh phúc trọn vẹn.

Phan lắc đầu khẽ bảo:

– Trong chiến tranh chỉ có may rủi thôi. Khi anh thoát khỏi nạn này sẽ có những nạn khác rình rập. Huệ nên nhớ rằng, cuộc đời ta lúc nào cũng nằm trong tay thần Số mệnh…

                                                  *

Cuối tháng tư, vết thương của Phan đã ổn định, anh được đưa ra Bắc về Đoàn 253 ở Hải Dương an dưỡng. Sức khoẻ của Phan lúc ấy còn yếu, lại phải chịu đựng cuộc hành trình dài ngày trên đường, đến nơi tập kết anh bị sốt cao lại phải vào bệnh viện. Đoàn an dưỡng đóng trên một khu vực khá rộng thuộc địa phận thôn Đông cạnh sông Kinh Thầy. Hàng ngày, cứ chiều chiều, mấy anh em lại rủ nhau ra bờ đê ngồi dưới lùm tre hóng mát ngắm những con thuyền buồm xuôi ngược. Sông Kinh mùa này chưa dữ dằn như dịp tháng bảy ta. Mùa lũ, có năm nước mấp mé con chạch. Ban đêm, dân làng nghe tiếng trống thúc liên hồi giật mình thon thót chỉ lo đê vỡ. Gần trại còn có ngôi chùa cổ trăm gian tương  truyền được làm từ thời Lý thờ một vị công chúa có công đánh giặc cứu nước. Đã mấy lần Phan vào vãn cảnh. Không khí trong chùa thật yên tĩnh dù rằng chỉ cách với thế giới trần tục bên ngoài một mái tam quan.

Sau hai tháng an dưỡng, Phan xin phép về thăm nhà nhưng đến lối rẽ xuống làng Yên, ngẫm nghĩ thế nào anh lại quay ra bến đò, qua sông sang làng Vòng. Cho đến bây giờ, dù đã xa nhà bảy, tám năm, Phan vẫn chưa một lần về, thậm chí ngay cả thư anh cũng không hề viết. Ký ức tuổi thơ nhọc nhằn với những trận đòn như cơm bữa và cung cách đối xử nghiệt ngã của ông bố gia trưởng đã làm bước chân anh bỗng nhiên đổi hướng.

Nhận thư và múi dù hoa Huệ gửi về bà mẹ mừng lắm, dứt khoát giữ Phan lại đến ngày hôm sau. Huệ còn một cậu em trai đang học lớp chín, nghe Phan kể chuyện chiến trường rất mê. Cậu bảo là đã làm đơn tình nguyện nhập ngũ nhưng xã không cho đi vì đã có chị đang ở chiến trường.

Hôm sau, Phan từ biệt mẹ con bà Đức, ngược sang Kinh Bắc tìm về làng Hạ hỏi tin tức của Sa. Người làng cho biết, bà Trầm đã mất mấy năm, còn Sa, sau khi chôn cất mẹ lại ra đi và từ bấy đến nay không thấy về. Băn khoăn mãi, chẳng biết làm cách nào, cuối cùng anh lại ra ga lấy vé tàu về Đoàn an dưỡng. Phan viết thư cho các bạn thời còn ở Công trường cầu đường Cao Bằng nhưng phần lớn đều không có hồi âm, vì công trường đã giải thể, anh chị em phân tán khắp nơi không có địa chỉ cố định.

Cuối năm, Phan được xét cho đi học đại học Giao thông. Anh về Hà Nội làm một số thủ tục cần thiết, sau đó lên trường, lúc ấy đang sơ tán ở Hà Bắc. Trường cách làng Hạ không xa, tháng nào Phan cũng đạp xe về hỏi thăm nhưng Sa vẫn như chim trời cá nước, bặt vô âm tín. Hè năm ấy,  được nghỉ một tháng, một bạn cùng lớp rủ ra Hà Nội làm gia công cắt dán hộp cho nhà máy xà phòng. Được ít tiền anh về Hải Phòng tìm đến nhà Nhàn hỏi tin của Sa. Vừa bước vào nhà, Phan chợt sững người khi nhìn thấy tấm ảnh phóng to của bạn viền khung đen trên bàn thờ. Nghe Phan kể về tình bạn của hai đứa bà mẹ Nhàn cứ khóc mãi. Chuyến đi không có kết quả nhưng Phan biết thêm được một điều là Nhàn đã hy sinh. Thế là anh lại mất đi một người bạn. Vậy còn Sa bây giờ ở chân trời góc bể nào?

                                        *

Tháng 4 năm 1975, lúc ấy Phan đang học năm thứ tư, còn một năm nữa mới ra trường. Sau tháng 4, nhiều bạn từ chiến trường ra, gặp ai Phan cũng hỏi nhưng không một ai biết gì về Sa sau khi họ rời Công trường 115 Sơn La vào Quảng Bình. Đó là những câu hỏi cứ luẩn quẩn trong đầu Phan ngay cả trong giấc ngủ. Anh thương Sa vô cùng, và, nếu chẳng may cô không còn nữa thì những năm tháng còn lại của đời anh sẽ hoàn toàn vô nghĩa.

Tháng tám năm 1976, Phan tốt nghiệp Đại học Giao thông. Anh được phân công về làm việc ở một đơn vị Cầu ở vùng Tây Nguyên. Lăn lộn với nắng gió cao nguyên người Phan gầy rạc và đen cháy. Suốt chừng ấy năm, từ khi ra Bắc, anh không một lần về nhà, và chính anh cũng không hề biết, từ lâu mình đã thành liệt sỹ. Đầu năm 1980, Phan được cử đi Liên Xô làm nghiên cứu sinh. Khi cán bộ của Vụ Tổ chức về địa phương xác minh lý lịch, chị Thấm mới biết em mình còn sống. Ngay tối hôm ấy, chị đến báo tin vui cho gia đình nhưng ông Phó Đát làm chị cụt hứng bằng câu nói hằn học:

– Mười mấy năm nay biệt tăm, tôi xem như không có nó nữa. Gia đình này vẫn còn ba thằng con trai, sau này tôi chết, chúng nó đủ sức mang ra đồng.

Sau hai năm du học, Phan bảo vệ thành công luận án phó tiến sĩ bộ môn cầu bê tông dự ứng lực. Anh về nước còn mang theo ít hàng do tranh thủ ngày nghỉ đi làm thuê kiếm được. Cũng như khi mới ở chiến trường ra, lần này, việc đầu tiên của Phan là về làng Hạ. Nhưng càng đi càng thất vọng. Vẫn không có một tin tức gì sáng sủa về Sa.

Ngày tháng qua đi, và tuổi trẻ của Phan cứ để lại phía sau trên mỗi chặng hành trình. Năm 1986, anh được bổ nhiệm làm phó giám đốc kiêm Tổng Công trình sư Tổng công ty Cầu 124. Lúc ấy Phan đã xấp xỉ bốn mươi, cái tuổi ngấp nghé bước sang bên kia dốc cuộc đời. Cuộc hành trình tìm về quá khứ hầu như vô vọng. Đã đến lúc không thể sống mãi với những kỷ niệm nặng nề, dù sao thì cũng phải tìm một chỗ dựa tinh thần để neo lại cánh chim giang hồ trước khi quá muộn, Phan quyết định cưới vợ. Vợ anh chính là cô y tá đồng hương đã kịp thời tiếp máu cứu sống anh trong lúc mổ vết thương ở ngực tại trạm phẫu chiến trường Quảng Trị. Huệ lúc ấy đã ba mươi mốt, là bác sĩ phẫu thuật của Quân y viện.

                                                   *

Năm 1992, sau tết Nguyên Đán, Công ty Cầu 12 thuộc Tổng Công ty 124 được điều về thi công đường 23. Con đường này trước vốn là tỉnh lộ giờ được nâng cấp thành quốc lộ rộng 12 mét. Do yêu cầu kĩ thuật nên người ta xác định điểm vượt sông mới, bỏ cây cầu thép cũ. Cầu mới dịch về phía thượng lưu, cách cầu cũ hơn ba cây số, sát ngay bến đò Vạn Giã. Vì kết cấu địa chất đáy sông phức tạp, Tổng Công ty cử một đoàn cán bộ kỹ thuật do Tổng công trình sư Trần Phan dẫn đầu về nghiên cứu thực địa để giải quyết những khó khăn phát sinh trong quá trình thi công. Anh vừa xuống xe đã đề nghị giám đốc và trưởng phòng kỹ thuật cùng đi một vòng quanh khu vực cầu. Sau khi xem xét địa hình hữu ngạn sông Rào, Phan đề nghị mọi người qua sông sang tìm hiểu vị trí mố cầu bên tả ngạn.

Con đò gỗ từ ngoài sông lách vào bến giữa đám thuyền nan chở cát đỗ la liệt chờ người xúc chuyển lên bờ. Người chở đò là một phụ nữ đã đứng tuổi. Chị chống sào đẩy cho mũi thuyền nhích đến sát bờ cát rồi bảo khách:

– Các bác xuống thuyền đi.

Nghe giọng nói, Phan đã hơi ngờ ngợ. Anh quay lại nhìn người phụ nữ. Dưới tấm khăn màu hoàng yến trùm đầu và chiếc nón lá sắp tuột vành là một đôi mắt bồ câu mệt mỏi không thể lẫn được giữa trăm ngàn người khác. Anh vội kêu lên:

– Sa! Có phải Sa không?

Nghe tiếng gọi thảng thốt của Phan, người lái đò sững lại, buông rơi cây sào, rồi như người bị cảm đột ngột, chị ngã xuống sạp thuyền. Phan đứng gần đấy nên nhanh tay đỡ được. Anh bảo giám đốc Công ty 12:

– Các cậu giúp mình một tay đưa chị ấy về nhà.

– Nhưng nhà chị ta ở đâu? Hay là đưa tạm về Công ty…

– Cái cậu này! Lên kia hỏi bà con là biết.

– Mà thế là thế nào? – Giám đốc công ty tò mò hỏi. – Các vị quen nhau à?

– Chuyện ấy để nói sau. Cậu Khánh, buộc chắc con đò lại rồi lên đây.

Hôm ấy Phan ở lại xóm Trại. Anh chăm chú nghe Sa kể lại toàn bộ những gì xảy ra với cô từ khi anh rời Công trường Cầu đường Cao Bằng vào Quảng Bình. Phan cũng nói về cuộc hành trình gian khổ có lúc suýt mất mạng của mình cho Sa nghe. Hai người đau đáu nhìn nhau, lòng tê tái. Trời đêm đã lạnh nhưng hoàn cảnh của họ còn lạnh hơn nhiều.

Phan hỏi:

– Sa chở đò ngang ở bến Vạn từ bao giờ?

– Sau khi anh Thảo hy sinh, hợp tác xã thấy ba mẹ con khó khăn quá nên họ sắp xếp công việc cho Sa.

Phan thoáng nghĩ đến con đò khẽ gật đầu bảo cô:

– Chỉ tầm này hai năm nữa là cây cầu làm xong, lúc ấy con đò của Sa…

Sa lại cười nhưng nụ cười đã bớt phần chua chát:

– Các anh trong xã vận động Sa nghỉ từ lâu rồi nhưng ngặt nỗi bọn trẻ xóm này chẳng đứa nào chịu chở đò ngang. Bây giờ Phan về làm cầu tức là sắp giải thoát cho Sa khỏi mái chèo…

Phan lại vụng về cầm tay Sa. Vẫn bàn tay búp măng xinh đẹp nhưng không còn mềm mại như xưa. Lòng bàn tay giờ đã phủ dày chai bởi bao năm cầm chèo. Sa để yên bàn tay trong tay Phan, mắt nhìn xa xăm:

– Chuyện đã qua thì cho qua, Phan đừng làm gì rối tung lên nữa. Cho đến giờ Sa vẫn không ân hận vì đã có một quãng đời tuy ngắn ngủi nhưng đẹp nhất được sống hạnh phúc với người mình yêu.

Nghe Sa nói, Phan chợt thấy cay cay nơi sống mũi. Anh khẽ bảo:

– Tôi thật có lỗi với Sa.

Sa lắc đầu:

– Giữa chúng ta, không ai có lỗi cả. Có chăng là ở chỗ chúng mình yêu nhau quá nên đã phải lặn lội tìm nhau đến nửa cuộc đời… Mà thôi, nói chuyện cũ làm gì, bây giờ Sa có việc phải nhờ anh đây.

– Có việc gì Sa cứ nói.

– Con Hoà An được nhà nước cho du học hai năm làm luận án tiến sĩ ở Pháp. Nó vừa điện về hôm kia là thứ năm tuần tới sẽ về nước. Anh có xe cho em đi cùng lên sân bay Nội Bài đón con về.

– Thế còn thằng May?

– Nó đang học Đại học Giao thông năm cuối, chắc chị nó đã báo tin, ta nên qua trường đón luôn thể.

Ngoài trời, đang tiết xuân, mưa phùn lất phất. Ở góc vườn, gần mương nước có một cây cao, tán sum xuê choán cả một khoảng đất rộng. Hoa nở trắng xoá. Cánh hoa bay lả tả, chập chờn như vờn như múa trong gió lạnh. Phan chợt ngửi thấy mùi hăng hắc. Thôi đúng rồi. Hoa mận dại…

 

Bến đò Vạn Giã, Giáp Tuất, tháng mạnh đông

 Đ. V. S

This entry was posted in Văn and tagged . Bookmark the permalink.