Hội họa Lê Công Thành

Đỗ Đức

(Kính tặng hương linh nhà điêu khắc, họa gia Lê Công Thành)

 

Lê Công Thành quá nổi về điêu khắc, nhưng không ngờ hội họa của ông cũng lại tuyệt chiêu đến thế. Sinh thời người ta chỉ biết đến điêu khắc, và tôi cũng chỉ biết điêu khắc của ông, mà không hề biết đến phần hội họa. Cũng bởi không thấy ông nói gì về mảng này. Hội họa của ông âm thầm như trầm tích sâu trong lòng đất. Mãi khi ông mất, bà Kim Thái vợ ông mới đem ra giới thiệu…

Đối tượng hội họa của ông chủ yếu vẫn là đàn bà. Những tranh ông vẽ vẫn là tình yêu đàn bà đến khát khao cháy bỏng.

Đây những đôi tình nhân quấn quýt, những tiếp xúc, ăn nằm, làm tình… đầy dục tính. Những nhân vật nữ ông vẽ phốp pháp đầy đặn và giàu có khí lực, đến thừa sung mãn. Sự tràn trề dục tính ấy trên những mảng màu ngọt như kem, phì nhiêu hết tầm, khiến người xem muốn lăn xả vào mà ngốn ngấu, mê đi và chết thèm trong không gian phiêu bồng ngọt thơm vô biên đó. Hội họa của ông khiến người ta muốn đắm chìm, muốn được nhận chìm trong đó với cái chết tự nguyện. Xem tranh tôi thấy chính ông cũng phát điên trong thế giới ông tạo ra. Ông say đắm, mê cuồng và ông hòa lẫn trong không gian ấy như có lần ông đã nói với tôi điều đó.

Thời ông sống là thời chiến tranh. Mở đầu có ba sáng tác tượng tròn khá xuất sắc: anh Trỗi, Vân dại, Thánh Gióng, ông làm sau những năm đầu vào nghề, hiện đang được lưu giữ trong Bảo tàng Mĩ thuật, là những sáng tác dính líu đến thời cuộc. Anh Trỗi là đương đại, Vân dại là trong dòng chảy văn hóa, Thánh Gióng là tâm linh tinh thần dân tộc. Những tác phẩm đó khái quát giá trị xã hội giàu tính triết học. Sau đó tôi không thấy ông có thêm sáng tác gì nữa về chiến tranh. Sau đó, ông đi con đường của ông, suy tư của ông, ông về với tình yêu, với những gì mê mẩn trong ông để sáng tác. Ông đã mải miết với những giá trị chỉ mình ông thấy và ghì giữ bằng được. Tôi có một liên hệ nhớ đến nhà thơ Lò Ngân Sủn. Giống hệt Lê Công Thành, Sủn cũng mê mệt với đàn bà, với lều nương, với người đẹp nóng hổi và quay lộn trong cơn xoáy sâu như vực thẳm để khai thác vẻ đẹp từ đấy. Thơ Sủn không tiếng súng ùng oàng, không máu chảy đầu rơi, không minh họa cuộc sống. Sủn và Lê Công Thành không quen nhau. Hai người, hai con đường nghệ thuật, nhưng giống nhau đến kì lạ về cảm nhận cuộc sống. Hai tài năng song hành và đều cập bến với tình yêu đàn bà đến mê đắm.

Trong chiến tranh biên giới Sủn có “Chiều biên giới em ơi, có cây nào xanh hơn, như rừng cây cỏ biếc, như màu xanh của lá, như tình yêu bao la…”. Thứ tình yêu ngằn ngặt màu xanh lá. Còn Lê Công Thành thì đắm chìm với dòng sông đàn bà, với giấc mơ hoa kéo từ tranh này đến tranh khác đầy ứ dục tính mà vẫn thanh khiết khiến người ta phải dừng, phải xem đi xem lại, phải ngẫm nghĩ và lại xem, xem nữa. Cuốn hút của hội họa Lê Công Thành là thế. Nó như lá bùa dẫn người ta vào chốn đào nguyên, nơi chỉ có hương của hoa, mùi thơm tỏa ra từ da thịt người đẹp, vừa trần tục, vừa thanh cao và rốt cuộc là người xem cũng hòa lẫn cùng ông cảm thức trong những tác phẩm. Nó khiến ta như tỉnh thức, như mơ. Phải tự hỏi đời là đây hay đời là bức tranh kia. Là gì vậy! Ta yêu cuộc sống này vì hương sắc hay dục tính hay là gì. Đâu có dễ nhận ra… Tất cả hòa vào nhau mà người ta khó có thể giải nghĩa bằng ngôn ngữ, chỉ hiểu bằng cảm nhận!

Câu chuyện trên là bề nổi của cảm xúc trên tranh ông truyền thấm vào người xem. Nhưng cái bí mật nào dẫn người ta vào mê lộ ấy?

Tính đồ họa trong tranh hội họa của Lê Công Thành rất siêu việt. Nó đi suốt từ tranh này sang tranh khác thành một vệt dài, trong đó hội họa chỉ là tay vịn cho bút pháp đồ họa tung tẩy.

Nếu là đồ họa chỉ đơn tuyến bình đồ thôi thì tranh sẽ dễ đi vào nhàm chán làm nản lòng người xem. Nên bên cạnh những mảng miếng và những đường cong ngọt ngào, có chỗ ông vờn một chút ven xám nhẹ, gợi một chút bằng những nét xước vô tình, hoặc có những mảng màu xốp như những nhát bút đói màu, thế là không gian lung linh hổn hển hơi thở…

Nhưng rồi những mảng đồ họa khoáng đạt bất ngờ dựng thành, bề thế và khẳng định làm cho bến bờ thành lũy trở nên đầy đặn và bộc lộ được hết vẻ đẹp ông cần diễn tả. Đó là thứ cảm nhận trời cho mà người làm nghề khổ luyện cũng khó thành. Trong những tranh ông vẽ, ông rất lưu ý đến đường chạy của những mảng màu. Đó là phần chủ đạo, là gân cốt của bức tranh. Nó tạo nên nhịp như khúc thức của âm nhạc, chỗ tưng bừng gợi sóng, những nốt lặng bất ngờ, sóng nhạc trong tranh ông uyển chuyển tao nhã và huyền diệu lôi người ta lao theo sông mê của những màu bổ túc, tạo nên âm sắc ngọt ngào. Nó làm cho tranh ông vững như tượng đồng. Hầu như tất cả tranh ông là giao thoa giữa điêu khắc, đồ họa và hội họa một cách kì tài. Với ông, ngôn ngữ ba chuyên ngành đó kết cấu chặt chẽ đến mức không thể có cái nào thiếu thừa mà tranh đứng được. Thế chân kiềng trong cảm thức của ba ngôn ngữ kết hợp càng bộc lộ tài năng siêu việt thể hiện trong tranh ông. Các bạn hãy dừng lại trên từng bức tranh, những vệt màu vu vơ, những chấm màu tưởng như vô tình, những mảng màu tưởng như chệch khỏi đồ hình… Tất cả là những vô lý trong cái hợp lý hòa lẫn làm một, tạo nên sự dẫn dắt vô hình, làm cho người xem phải sửng sốt với nó. Vì đấy mà thành duyên. Bạn thấy không, trên gương mặt một người con gái, đâu đó có nốt ruồi nhỏ, một vết sẹo mờ, một lúm đồng tiền nó đã làm duyên cho bao vẻ đẹp. Nếu vắng nó thì gương mặt kia sẽ trở nên nhạt nhòa. Trong câu chuyện Trung Hoa, người ta nói ngọc quý còn có vết. Vết đó đâu phải khuyết tật, mà nó chính là điểm nhấn, là sự khác biệt tạo nên giá trị hấp dẫn. Đó là tiếng nói của con tạo mà không phải dễ nhận ra.

Trên đời này, có nhiều vẻ đẹp hình thành do những vết đó. Mất nó thì khuyết đi một cái duyên tình cờ. Tranh của Lê Công Thành vẻ đẹp đầy lên ở những nhát bút khẳng định, những gạt màu vu vơ, chỗ tưởng như đang đói màu hoặc tác giả bỏ lửng… Cứ như là vết… Nhưng, không phải! Tất cả những cái đó kết hợp tạo nên duyên. Tất cả là sự thống nhất giữa hai mặt đối lập được kết hợp một cách nhuần nhuyễn kì tài mới cho được kết quả ấy.

Ngoài những tranh vẽ đàn bà ra, ông còn một số tranh sinh hoạt, tranh nhân vật và trừu tượng. Ông nói với vợ là chị Kim Thái rằng mình vẽ tranh là để “giải lao”. Đâu phải thế. Nhìn hàng trăm tranh ông vẽ khoáng đạt tươi sáng mạch lạc làm gì thấy chất “giải lao”! Hầu như những tranh đó ông làm để tìm bố cục là chính. Bố cục hình – màu – nét và khối. Những mảng màu vô lý, những nhát bút cực đoan, những vệt màu ngu ngơ, những chấm rớt như ngẫu nhiên kéo lại sự cân đối, chia lại sự kết nối… Tất cả như ngu ngơ nhưng đều là ông đang tìm gì đấy. Ông đang đãi cát tìm vàng. Ông tìm nhịp điệu, ông tạo giai điệu, ông đang muốn lục lọi cho chỉnh thể những tranh những tượng tương lai. Tôi ngờ rằng nhiều bức vẽ đàn bà của ông đã được chuyển sang tượng với sự cắt gọt tỉa vừa đủ để hợp với thể loại. Ở tượng với không gian ba chiều thì sự mở không gian ấy khiến tính khái quát cao thì mới tìm được khối diện mạch lạc. Sự liên kết ba thể loại để rồi lọc ra hướng phù hợp với từng thể loại thì chỉ những bàn tay và những cái đầu trác tuyệt mới có thể làm được. Đó là Lê Công Thành.

Tôi viết bài này gửi đến hương linh ông ở thế giới bên kia, xin ông nhận từ tôi một tấm lòng đồng nghiệp và một lời thán phục. Nhắn ông có người tri kỉ vẫn mãi nhớ dù ông đã đi xa về cõi khác.

25/1/22024.

 

Triển lãm điêu khắc – hội họa của Lê Công Thành và Mai San khai mạc ngày 21/1 đóng cửa 30/1/2024 tại 16 Ngô Quyền, Hà Nội. Triển làm bày 15 tranh của nữ họa sĩ Mai Sơn và 37 tác phẩm điêu khắc, hội họa của nhà điêu khắc Lê Công Thành (1932 – 2019).

Bài đã đăng trên Tiền Phong với nhan đề Hội họa Lê Công Thành – như một thứ trầm tích (https://thethaovanhoa.vn/hoi-hoa-le-cong-thanh-nhu-mot-thu-tram-tich-20240129070332864.htm).

clip_image002

clip_image004

clip_image006

clip_image008

clip_image010

clip_image012

clip_image014

clip_image016

clip_image018

clip_image020

clip_image022

clip_image024

clip_image026

clip_image028

clip_image030

clip_image032

clip_image034
clip_image036

clip_image038

clip_image040

Comments are closed.