Tác giả: Lê Oa Đằng
Việt dịch: Phạm Văn Song
從地圖開疆到人工造島:百年南海紛爭史
黎蝸藤
CÔNG TY SÁCH NGŨ NAM
ĐÀI BẮC-2017
CHƯƠNG II
MỞ ĐẦU CUỘC TRANH CHẤP HOÀNG SA VÀ TRƯỜNG SA (1909-1936)
II.1. Trung Quốc tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa
Sự kiện đảo Đông Sa (Pratas) đã kích thích mạnh mẽ chính phủ Trung Quốc vốn bắt đầu coi trọng quyền lợi biển, khiến họ quyết tâm khai thác biển Đông. Năm 1909, khi tranh chấp Đông Sa còn đang diễn ra, ngày 26 và 31/3 truyền thông Trung Quốc đưa tin rằng gần đây có một tàu chiến của châu Âu tiến đến đảo Tây Sa (Hoàng Sa).[75] Điều này đã khơi dậy sự cảnh giác của tổng đốc Quảng Đông Trương Nhân Tuấn, ông quyết định tiến hành dò xét và tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo Hoàng Sa: “Nay lại tra thấy có Tây Sa, ở gần cảng Du Lâm thuộc Nhai Châu… đặc phái phó tướng Ngô Kính Vinh đến thám sát”.[76]
Về việc nhóm Ngô Kính Vinh đến thám sát Hoàng Sa, hiện nay không tìm thấy báo cáo gốc, và sử liệu Trung Quốc không nêu rõ ràng. Tuy nhiên, trong ghi chép của Beauvais, Tổng Lãnh sự Pháp tại Quảng Châu, có thể thấy một số tình tiết.[77] Ba người Ngô Kính Vinh, Vương Nhân Đường, Lâm Quốc Tường xuất phát trên chiếc tàu “Khai Biện” (Kaipan) thuê của hải quan, ngày 15/4 trở về Hong Kong, ngày 19 đã giao nộp báo cáo. Họ chỉ ra rằng Hoàng Sa có 15 đảo, 8 ở phía Đông, 7 ở phía Tây. Họ không phát hiện có người nước ngoài trên đảo, nhưng thấy có dấu tích rõ ràng của người nước ngoài để lại. Họ đã gặng hỏi tỉ mỉ ngư dân Trung Quốc sống trong những ngôi nhà nhỏ sơ sài trên đảo, đã xác nhận có 2 người Đức, 1 người Nhật và người làm thuê Malaysia đã từng lên đảo, khoan rất nhiều lỗ trên đảo, dường như để phân tích thổ nhưỡng nhằm khảo sát phốt phát trên đảo có giá trị khai thác hay không.
Dẫn thuật của Trương Nhân Tuấn chỉ ra rằng trong báo cáo có đề cập đến tình hình địa lí cơ bản của Hoàng Sa, đồng thời chủ trương “nếu cứ để bỏ hoang mà không quản lí thì thật là đáng tiếc vì không những đó là bỏ đi địa lợi mà lại còn không coi trọng lãnh thổ và bảo vệ quyền lợi biển”.[78]
Do đó, một mặt Trương Nhân Tuấn thành lập “Trù biện Tây Sa đảo sự vụ xứ” (Phòng xử lí sự việc đảo Hoàng Sa), đưa ra “Đại cương biện pháp thám sát lại đảo Tây Sa”, một mặt chuẩn bị phái ba người là thuỷ sư đề đốc Lí Chuẩn, bổ dụng đạo Quảng Đông Lí Triết Tuấn và phó tướng Ngô Kính Vinh… chỉ huy các tàu “Phục Ba”, “Sâm Hàng”, “Quảng Kim” đến “tuần thị” đảo Tây Sa.[79] Chuyến đi không được thuận buồm xuôi gió, theo báo cáo sau chuyến đi của Trương Nhân Tuấn: “Đầu tháng, phái tàu Phục Ba, Sâm Hàng đến khảo sát các đảo ở Tây Sa ở ngoài cảng Du Lâm. Hai tàu này lâu năm cũ nát, vũ khí hỏng hóc, dễ bị bão đánh chìm, ngoài ra không thể phái tàu nào khác được”.[80] Nhưng cuối cùng chuyến đi vẫn hoàn thành. Căn cứ tấu báo của nhân viên đi cùng, ngày 19/5 ba tàu chiến xuất phát từ Quảng Châu, ngày 21/5 đến Hong Kong, ngày 25 đến Du Lâm, dừng lại ở Du Lâm 10 ngày, rồi ngày 4/6 xuất phát tiến về phía Tây Sa, ngày 5 đến được Tây Sa, lưu lại 3 ngày trên các đảo La Bát, Đại Đăng, Địa Lợi, ngày 8/6 bắt đầu trở về Quảng Châu.[81]
Một tường thuật khác về hành trình của họ do P.A. Lapique, một nhà quan sát thời sự quốc tế ở Hong Kong thời đó, cung cấp, nói rằng do thuỷ quân không hợp với việc đi biển xa (Lapique cho biết Lí Chuẩn là đề đốc của “thuỷ quân đường sông”) và cũng do phải chờ gió thuận, họ đã lưu lại ở cảng Du Lâm thuộc Hải Nam một thời gian rất dài. Do đó, mãi đến ngày 6/6 họ mới đến được Hoàng Sa, rồi vào 4 giờ ngày 7/6 thì từ Hoàng Sa quay trở về, vì vậy thời gian dừng lại ở Hoàng Sa không đến 24 giờ. Tường thuật của Lapique không đúng, có thể do ông đã lẫn lộn lịch cũ và lịch mới.[82]
Trong chuyến đi tới Hoàng Sa, Lí Chuẩn đã thực hiện 3 việc chủ yếu là: thứ nhất, lên đảo khắc đá, đổ bộ lên mỗi đảo họ đều dựng bia đá, dựng cờ hoàng long của Đại Thanh; thứ hai, ghi chép về địa hình và sản vật; thứ ba, đối chiếu danh sách các đảo do phương Tây đưa ra (khi đó có “Tây Sa chí”, bản dịch sách hàng hải của Anh) đặt tên lại cho các đảo, và vẽ bản đồ quần đảo Hoàng Sa.
Có vấn đề sai lệch về thời gian đối với chuyến đi của Lí Chuẩn, một loạt tài liệu chính thức đều chỉ ra rằng năm 1909 (năm Tuyên Thống thứ nhất) ông ta vâng lệnh đi đến Hoàng Sa, nhưng cũng có tường thuật chỉ ra rằng ông ta đến Hoàng Sa vào năm 1907 (năm Quang Tự thứ 33), thậm chí trên đá có khắc chữ “Năm Quang Tự thứ 33 nhà Đại Thanh Thuỷ sư đề đốc Quảng Đông Lí Chuẩn tuần duyệt đến đây”. Khởi nguồn của sai sót này là từ cuốn “Lí Chuẩn tuần hải kí”, do phóng viên của “Tuần báo Quốc văn” viết ra, sau khi phỏng vấn Lí Chuẩn nhân lúc xảy ra sự kiện 9 hòn đảo nhỏ giữa Trung Quốc và Pháp trong những năm 1930. Khi đó Lí Chuẩn tuổi đã cao, qua thời gian nhiều tình tiết bị sai sót, trong đó nhầm lẫn thời gian thành năm 1907 (năm Quang Tự 33).[83] Xét thấy cuốn sách này là tự thuật của chính Lí Chuẩn hơn 20 năm sau vào lúc mà tranh chấp Hoàng Sa bùng phát, nên không thể không xem xét có thể có phần sai sót, nhớ sai hoặc nói quá trong đó. Ví dụ, sách này nói vào mùa xuân năm 1907 Lí Chuẩn đã đến Đông Sa tuần thị, phát hiện người Nhật Bản đã xây dựng văn phòng và đường sắt trên đảo, và đã giao thiệp với họ. Nhưng thật ra cho đến mùa hè năm 1907, Nishizawa mới bắt đầu đưa người đến Đông Sa và bắt đầu công việc xây dựng. Như vậy, vào mùa xuân năm 1907 lấy đâu ra để có đường sắt và văn phòng? Ngoài ra, căn cứ hồ sơ của Đông Sa, năm 1909 mới có việc Trương Nhân Tuấn phái thuyền đến tuần tra khảo sát Đông Sa, như vậy nếu năm 1907 Lí Chuẩn đã tuần tra khảo sát Đông Sa thì Trương Nhân Tuấn cần gì đợi 2 năm mới bắt đầu giao thiệp với người Nhật Bản ?
Ảnh hưởng xấu của tường thuật sai về thời gian tàu đi tuần tra Tây Sa rất sâu đậm, cho đến hiện nay vẫn còn có một số bài viết nói rằng Lí Chuẩn tuần tra biển năm 1907. Công trình học thuật thuộc loại nghiêm túc của Trung Quốc như “Trung Quốc Nam Hải cương vực nghiên cứu” (中國南海疆域研究: Nghiên cứu cương vực Nam Hải của Trung Quốc), mặc dù việc này đã được xác nhận xảy ra vào năm 1909,[84] nhưng sách này vẫn tiếp tục sử dụng những chi tiết sai lầm trong “Lí Chuẩn tuần hải kí”, như nêu rằng khi đó Lí Chuẩn đã khắc các chữ “Năm Quang Tự thứ 33 nhà Đại Thanh Thuỷ sư đề đốc Quảng Đông Lí Chuẩn đến đây tuần duyệt”. Cuốn sách“Nghiên cứu cương vực Nam Hải của Trung Quốc” này còn phạm những sai sót khác về lịch sử Hoàng Sa đầu thế kỉ 20, ví dụ trong phụ lục của sách có một đoạn miêu tả về Hoàng Sa, nêu rằng năm 1902 nhà Thanh phái quan chức đến thị sát Tây Sa và dựng bia kỉ niệm, khắc các chữ “năm 28 Quang Tự nhà Đại Thanh”.[85] Chi tiết này không hề có bất cứ căn cứ nào, người viết cũng tìm không ra bất cứ ghi chép liên quan nào, xem như đó là sử liệu không thật. Tuy nhiên, có sách học thuật vẫn trích dẫn để “chứng minh” chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa.[86] Kiểu sai sót này cũng cần phải được làm sáng tỏ hơn nữa.
Quá trình tuyên bố chủ quyền lần này cũng thể hiện tính chất khác lệ thường. Trước khi tuyên bố chủ quyền, nhân viên được đặc phái thăm dò đường thuỷ trước, điều này cho thấy nhà cầm quyền hoàn toàn không hiểu rõ tình trạng thuỷ văn của khu vực Hoàng Sa. Để tìm chiến hạm có thể đi đến Hoàng Sa được, Tổng đốc Lưỡng Quảng phải mượn chiến thuyền từ tổng đốc Phúc Kiến, Chiết Giang, điều này cho thấy Lưỡng Quảng không có sẵn thuyền có khả năng đi tới Hoàng Sa để tuần tra thường xuyên. Lần tuyên bố chủ quyền này chắc chắn là một tuyên bố thành công, Trung Quốc đã tuyên bố rõ ràng chủ quyền đối với Hoàng Sa. Tuy nhiên, chính sự kiện tuyên bố chủ quyền đặc thù này đã cho thấy rằng sự kiểm soát của Trung Quốc trước đó đối với Hoàng Sa ít ra là rất yếu kém, nếu không muốn nói là không tồn tại, vì nếu không như vậy thì không cần tiến hành bằng phương thức tuyên bố chủ quyền kiểu khác lệ thường này. Trong mấy trăm năm mà Trung Quốc chỉ có hai ba việc cụ thể nhưng đầy nghi vấn có thể có liên quan đến sự “kiểm soát” đối với Tây Sa, điều đó đã cho thấy đầy đủ rằng trước năm 1909 Trung Quốc thiếu sự kiểm soát có tính thực chất ở Hoàng Sa,[87] lần tuyên bố khác lệ thường này càng làm rõ điểm này.
Mặc dù phía Trung Quốc gọi chuyến đi này là “tuần tra”, và sử dụng từ “trọng thân” (重申: lập lại) trong báo cáo một tháng sau khi trở về, nhưng nhận thức của Lí Chuẩn lại là “đất này từ nay sẽ là lãnh thổ của Trung Quốc”.[88] Còn trong cộng đồng quốc tế, nhìn chung đều thừa nhận rộng rãi rằng đây là lần đầu Trung Quốc có ý muốn kiểm soát Hoàng Sa. Sách “Chỉ nam biển Trung Quốc” (China Sea Directory) do Hải quân nước Anh xuất bản năm 1937 viết “Quần đảo Tây Sa… được chính phủ Trung Quốc đưa vào bản đồ vào năm 1909” (They were annexed by the Chinese government in 1909).[89]
Hành động của Trung Quốc ồn ào như vậy, thế giới đều biết, nhưng Pháp cũng như các nước khác không hề đưa ra sự kháng nghị đối với sự kiện này, mặc dù vào năm 1899 họ đã chuẩn bị giành lấy chủ quyền qua việc xây dựng hải đăng ở Hoàng Sa. Sau khi Ngô Kính Vinh khảo sát Hoàng Sa lần đầu tiên, một ngày sau khi Trương Nhân Tuấn tuyên bố muốn đổ bộ lên đảo lần thứ hai (ngày 3/5), Lãnh sự quán Pháp tại Quảng Châu là Beauvais liền gửi thư cho Bộ Ngoại giao Pháp (Minister for Foreign Affairs, Paris),[90] trình bày đầu đuôi sự việc, chỉ ra rằng quần đảo Hoàng Sa nằm gần tuyến đường hàng hải biển Đông và có tầm quan trọng chiến lược; cũng đã phân tích quyền lợi đối với Hoàng Sa của hai bên Trung-Pháp, đồng thời viện dẫn các ví dụ về việc Pháp từng có kế hoạch xây dựng hải đăng ở đây, ngư dân Việt Nam và ngư dân Trung Quốc cùng đánh cá ở đây cùng với việc Trung Quốc từng tuyên bố Hoàng Sa không thuộc Trung Quốc…, và kết luận rằng:
Beauvais đồng ý Pháp có quyền lợi đối với những đảo này không kém hơn Trung Quốc, Pháp cũng rất dễ dàng tìm được luận cứ ủng hộ chủ trương (chủ quyền) của mình. Tuy nhiên, nếu như hành động này không đáng, thì theo cái nhìn của ông, chi bằng Pháp cũng có thể làm ngơ đối với tranh chấp này, bởi vì bất cứ sự can dự nào của Pháp đều có thể sẽ làm dấy lên một làn sóng tình cảm dân tộc mới của Trung Quốc. Điều đó gây tổn hại cho Pháp nhiều hơn so với cái lợi có được từ việc chiếm đóng đảo.[91]
Tình cảm dân tộc ở đây chỉ hai sự kiện xảy ra ở Quảng Đông, đó là vụ án tàu Nhị Thần Hoàn Trung-Nhật năm 1908 và vụ phân chia biên giới Trung-Bồ năm 1909 (xem I.6), khi đó cả hai đều dẫn tới phong trào và dư luận tẩy chay hàng hóa Nhật Bản và chống các cường quốc xâm lược trong dân chúng. Ngoài ra vào năm 1899, nhân trào lưu các cường quốc lập đất tô giới ở Trung Quốc, Pháp đã thuê Quảng Châu Loan (Trấn Giang) 99 năm (cùng thời kì còn có nước Anh thuê Tân Giới và Uy Hải, Đức thuê Thanh Đảo). Nếu như sự kiện Hoàng Sa khiến cho tình cảm dân tộc chủ nghĩa trỗi dậy, chống lại Pháp, đưa đến sự bất ổn trong sự thống trị của nước này ở Quảng Châu Loan, thì lợi bất cập hại. Do đó, trong toàn bộ sự kiện nước Pháp trước sau giữ im lặng.
Thái độ im lặng của Pháp khiến Pháp và Việt Nam bị đặt vào trạng thái bất lợi sau này vì đã “thừa nhận ngầm” trong vấn đề yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa.
Đáng để nhắc đến là Beauvais từng giữ chức nhiều năm ở Hải Khẩu, hiểu biết nhiều về Hải Nam và Hoàng Sa, thư này cũng miêu tả rằng trên quần đảo Hoàng Sa khi đó, ngư dân Trung Quốc và Việt Nam thỉnh thoảng xảy ra xung đột đổ máu khi đánh cá, thừa cơ trộm cắp cá của nhau, và do ngư dân Việt Nam thích đem theo vợ con khi đi xa nên ngư dân Trung Quốc thường “thừa gió bẻ măng”, bắt cóc phụ nữ và trẻ em Việt Nam này rồi bán ở Hải Nam, tại các cảng của Hải Nam thường có thể gặp những phụ nữ và trẻ em bị đem bán này.
II.2. Sự kiện Hà Thụy Niên và Trung Quốc củng cố kiểm soát Hoàng Sa
Sau khi Lí Chuẩn đi tuần Tây Sa, Trương Nhân Tuấn thành lập “Trù biện Tây Sa đảo sự vụ xứ” (Văn phòng xử lí công việc Hoàng Sa), ngoài việc đã đặt tên tiếng Trung cho 15 hòn đảo,[92] văn phòng này còn đề xuất một loạt kế hoạch khai thác Hoàng Sa, bao gồm:
(1) Đề xuất lấy Du Lâm và Tam Á làm căn cứ địa cho việc khai thác Hoàng Sa;
(2) Lập ra kế hoạch khai thác phốt phát;
(3) Lên kế hoạch xây dựng trạm vô tuyến và hải đăng.[93]
Tuy nhiên, chẳng bao lâu Trương Nhân Tuấn bị điều đi nhận chức khác, tổng đốc mới Viên Thụ Huân do tài chính eo hẹp đã bãi bỏ “Văn phòng xử lí công việc Hoàng Sa”[94] vào tháng 10/1909, những kế hoạch này đều không được thực thi. Tiến triển duy nhất là ở trên bản đồ, Hoàng Sa và Đông Sa đã được vẽ vào bản đồ của Trung Quốc và của tỉnh Quảng Đông. Cần chỉ ra là chuyên gia Trung Quốc sau này cho rằng “trọng tâm của việc điều hành Tây Sa chuyển từ Vạn Châu sang Nhai Châu”,[95] đây chẳng qua là để làm tròn trịa giả thuyết “Tây Sa ban đầu thuộc Vạn Châu” (ở Trung Quốc có thuyết cho rằng thời cổ Hoàng Sa thậm chí Trường Sa thuộc sự quản lí của Vạn Châu, thuyết này không đứng vững được).[96] Trên thực tế, không hề có công văn hay bài báo nào khi đó đề cập đến quan hệ giữa Vạn Châu và quần đảo Hoàng Sa.[97]
Năm 1911 Cách mạng Tân Hợi bùng nổ, trong mấy năm sau khi bước vào thời kì Dân quốc chẳng có ai để ý đến đảo Hoàng Sa. Năm 1917, thương nhân Hà Thừa Ân của Công ti Hải Lợi xin chính quyền tỉnh Quảng Đông khai thác phốt phát và hải sản ở Hoàng Sa nhưng bị Ti Tài vụ quản lí về khoáng sản cho rằng phải giải quyết theo quy trình khai thác khoáng sản, Hà Thừa Ân không đồng ý, việc này kết thúc. Một thương nhân khác là Đặng Sĩ Danh vào năm 1919 cũng đề xuất việc khai thác “đảo Linh Châu” (tức đảo Đông, Lincoln Island) cũng bị khước từ. Năm 1921, thương nhân huyện Hương Sơn (Trung Sơn) Hà Thụy Niên, thương nhân Hồng Kông Lương Quốc Chi, thương nhân Quảng Đông Lưu Huệ Nông, thương nhân Quảng Đông Đàm Hồng… nối tiếp nhau đề xuất xin khai thác. Phía sau thương nhân Hồng Kông Lương Quốc Chi là thế lực người Nhật Bản. Sự quan tâm của người Nhật với tài nguyên quần đảo Hoàng Sa bắt đầu vào tháng 2/1917, khi Tiểu Tùng Trọng Lợi (Komatsu Shigetoshi), Trì Điền Kim Tạo (Ikeda Kinzo)… lên quần đảo Hoàng Sa khảo sát và vẽ bản đồ, xác nhận trên các đảo này (đặc biệt là đảo Phú Lâm) có tài nguyên có thể khai thác. Công ti Nhật Bản khác có hứng thú là Công ti thực nghiệp Nam Hưng Nhật Bản, đại diện pháp nhân của nó là Bình Điền Mạt Trị (Sueji Hirata) vào tháng 6 năm này trên đường đến đảo Đông Sa bị dạt đến đảo Hoàng Sa, cũng đã phát hiện ra tài nguyên khoáng sản của quần đảo Hoàng Sa. Năm 1918, ông ta đến Hoàng Sa lần thứ hai, mang về mẫu hóa nghiệm. Tháng 3/1919, ông ta xin chính phủ Nhật Bản được khai thác quần đảo Hoàng Sa, nhưng chính phủ Nhật Bản phát hiện trong “Hải quân thuỷ lộ chí” rằng quần đảo Hoàng Sa thuộc về Trung Quốc. Vì vậy, kế hoạch khai thác đành phải tạm dừng lại.[98] Năm 1920, lại có một công ti Nhật Bản là Tam Tỉnh Vật Nghiệp (Mitsui & Co) cũng muốn khai thác Hoàng Sa, gửi thư cho Tư lệnh hải quân Pháp ở Sài Gòn dò hỏi xem quần đảo Hoàng Sa có phải là lãnh thổ của Pháp không, phía Pháp đã trả lời một cách thận trọng và mơ hồ (xem II.4), Mitsui & Co đành phải tạm thời huỷ bỏ ý định khai thác.[99] Năm 1921, Sueji Hirata chuyển hướng sang Trung Quốc. Giống như đảo Đông Sa (xem I.6), lúc này chính quyền Quảng Đông cấm thương nhân nước ngoài khai thác đảo Hoàng Sa. Hirata được sự ủng hộ của Đằng Điền Vinh Trợ (Fujita Eisuke), lãnh sự Nhật Bản ở Quảng Đông, được ông này giới thiệu, Hirata tìm đến thương nhân Hong Kong Lương Quốc Chi sinh ở Hương Sơn, hi vọng người này đứng ra xin quyền khai thác.
Nhưng kế hoạch của Hirata tiến hành quá muộn, khi Lương Quốc Chi nộp đơn vào tháng 4 thì Bộ Nội chính của chính phủ quân phiệt đã phê chuẩn đơn của thương nhân Hương Sơn Hà Thụy Niên, nhưng chưa công bố. Hà Thụy Niên là thương nhân giàu có chuyên nghề buôn bán giữa Hong Kong và Ma Cao, cũng là bạn cũ của Tôn Trung Sơn, có thể đã nhiều lần trình bày với Tôn Trung Sơn kế hoạch khai thác Hoàng Sa. Như trong đơn có nêu, ông ta được biết người Nhật đã nhiều lần đến thăm dò Hoàng Sa, lo lắng đến chuyện “hải quyền quốc thổ” bị mất nên hi vọng mình có thể tiến hành sự nghiệp khai thác Hoàng Sa để “ngăn chặn sự nhòm ngó của người nước ngoài”. Tôn Trung Sơn ủng hộ kiến giải của ông ta, tháng 3 ông ta nộp đơn và được hội nghị chính vụ thông qua nhanh chóng.
Đáp ứng đơn này, ngày 30/3/1921, chính quyền tỉnh Quảng Đông thuộc chính quyền quân sự Trung Hoa Dân quốc miền Nam chính thức đưa quần đảo Hoàng Sa vào quyền quản lí của Nhai Châu,[100] đây là lần đầu tiên trong lịch sử Trung Quốc đặt quần đảo Hoàng Sa vào một khu vực hành chính. Có chuyên gia Trung Quốc cũng cho rằng đây là việc chuyển quyền quản lí quần đảo Hoàng Sa từ Vạn Châu sang Nhai Châu. Điều này cũng giống với việc làm tròn trịa thuyết “Tây Sa ban đầu thuộc Vạn Châu” chứ không có căn cứ gì. Mặc dù đây là việc này do chính quyền miền Nam của tỉnh Quảng Đông thực hiện nhưng chính quyền Bắc Dương vẫn tiếp tục thừa nhận sự phân định này sau khi giành được Quảng Đông, và chính quyền miền Nam được tái lập năm 1923 cũng tiếp tục thừa nhận sự phân định này.
Do Hà Thụy Niên nộp đơn trước và chính phủ đã phê chuẩn quyền ưu tiên khai thác của ông, nên đơn của Lương Quốc Chi bị từ chối. Nhưng điều này không xua tan nhiệt tình khai thác Hoàng Sa của người Nhật. Hirata lại làm quen với Hà Thụy Niên qua sự giới thiệu của tổng lãnh sự Nhật Bản ở Quảng Châu Fujita Eisuke, thương thảo việc hợp tác khai thác phốt phát ở Tây Sa thông qua cổ phần của Lương Quốc Chi. Hà Thụy Niên có quyền khai thác trong tay nên chiếm thế thượng phong. Cuối cùng, hai bên đã bí mật kí kết “Hợp đồng thành lập công ti thực nghiệp hợp tác quần đảo Tây Sa”: trong vốn cổ phần của “Công ti thực nghiệp vô hạn quần đảo Tây Sa”, Hà Thụy Niên không phải bỏ ra một đồng nào, Lương Quốc Chi đại diện nhóm đầu tư góp vốn 1 triệu cổ phần; phân chia lợi nhuận Hà Thụy Niên được 35%, Lương Quốc Chi được 65%.[101] Nhưng trong bản đăng kí của công ti nộp cho tỉnh Quảng Đông vào tháng 11 lại giấu đi cơ cấu vốn và báo cáo thiếu về số vốn.[102]
Năm 1922, huyện trưởng Nhai Châu Tôn Dục Bân phái chuyên viên Trần Minh Hoa đến Hoàng Sa điều tra, phát hiện người Nhật đang thật sự khai thác phốt phát. Lại có tin đồn Lương Quốc Chi mặc dù ở tại Hong Kong, nhưng thật ra là người Nhật mạo xưng rằng mình là người Trung Quốc quê ở Phúc Kiến, và trong Công ti thực nghiệp vô hạn quần đảo Tây Sa, Hà Thụy Niên chỉ chiếm 3/7, Lương Quốc Chi ngược lại chiếm 4/7, hầu như toàn bộ là người Nhật Bản và Đài Loan thực hiện việc khai thác tài nguyên trên đảo. Vì vậy, ông ta lo ngại rằng công ti của Hà Thụy Niên trên thực tế là do người Nhật Bản mượn danh nghĩa người Trung Quốc để tiến hành khai thác, thực chất là muốn tước đoạt tài nguyên của người Trung Quốc. Thông tin này vừa truyền ra, sự căm giận của quần chúng lại sôi sục, các đoàn thể ở Nhai Châu phản đối tới tấp, yêu cầu huỷ bỏ quyền kinh doanh của “gian thương” Hà Thụy Niên.[103] Hà Thụy Niên thanh minh rằng Lương Quốc Chi thật ra là người Hoa. Chính quyền tỉnh vốn đã điều tra rõ nhưng không cưỡng lại được làn sóng phản đối khi đó, cuối cùng đã huỷ bỏ quyền kinh doanh (huỷ bỏ quyền kinh doanh lần thứ nhất). Hà Thụy Niên không hề tuyệt vọng. Tháng 3/1923 lấy lí do rằng việc sáng lập công thương nghiệp bị vu khống, ông nộp đơn cho tỉnh Quảng Đông yêu cầu giữ lại đề án ban đầu. Sau khi kiểm tra đối chiếu lại, chính quyền tỉnh Quảng Đông đồng ý với kiến giải của Hà Thụy Niên, cấp lại cho ông ta quyền chuyên doanh.[104]
Trước khi bị huỷ bỏ quyền chuyên doanh lần đầu tiên, Hà Thụy Niên cũng có tham gia công việc của doanh nghiệp. Nhưng sau khi được hồi phục quyền kinh doanh, Hà Thụy Niên hầu như dựa toàn bộ vào sự khai thác của người Nhật Bản, bản thân chỉ là pháp nhân trên danh nghĩa, tất cả việc kinh doanh đều giao cho người Nhật Bản nắm giữ, ngồi hưởng lợi nhuận do người Nhật chuyển cho. Người Nhật khai thác trên đảo trước sau khoảng 9 năm, đã xây dựng một bộ thiết bị hoàn chỉnh bao gồm công xưởng, doanh trại, đường ray, bến tàu, hồ chứa nước và thiết bị chưng cất… trên đảo Phú Lâm. Việc khai thác xem ra có hiệu quả.
Tháng 1/1926, Bộ Hải quân chính quyền miền Nam ra lệnh Cục Đo đạc đường biển rằng đảo Đông Sa, đảo Hoàng Sa thuộc khu vực quân sự của Hải quân.[105] Tháng 2, Lí Đức Quang, cư dân Quỳnh Đông, xin phép khai thác hai đảo ở Hoàng Sa, thúc đẩy chính quyền tỉnh kiểm tra một lần nữa tiến độ khai thác của Hà Thụy Niên. Kết quả lại phát hiện trên đảo phần lớn là người Nhật Bản. Vì vậy, chính quyền tỉnh chuẩn bị bãi bỏ quyền kinh doanh của Hà Thụy Niên lần thứ hai, đúng lúc này có thương nhân Phùng Anh Bưu xin phép khai thác phân chim trên đảo. Do đó, khi chuẩn bị huỷ bỏ quyền kinh doanh của Hà Thụy Niên chính quyền tỉnh đồng thời phê chuẩn quyền kinh doanh cho Phùng Anh Bưu. Nhưng lúc này Giáo sư Quảng Tung Linh của Đại học Trung Sơn báo cáo với chính quyền tỉnh rằng Phùng Anh Bưu từng làm việc cho người Nhật, nên tuyệt đối không thể phê chuẩn cho ông ta. Vì thế, quyết định này bị trì hoãn lại. Đến tháng 2/1928, Phùng Anh Bưu lại nộp đơn xin quyền kinh doanh, chính quyền tỉnh Quảng Đông lại thảo luận việc bãi bỏ quyền kinh doanh của Hà Thụy Niên để giao cho Phùng Anh Bưu. Cuối cùng đã quyết định tổ chức đoàn bao gồm Đại học Trung Sơn, Ti Dân chính, Bộ Hải quân… do chuyên viên Hội nghị Chính trị phân hội Quảng Châu Thẩm Bằng Phi dẫn đầu lên đường đến Hoàng Sa khảo sát.
Thật ra, vào năm 1926 khi chính phủ Trung Quốc muốn huỷ bỏ quyền chuyên doanh của Hà Thụy Niên lần thứ hai, Hirata đã muốn rút khỏi việc kinh doanh rồi. Tháng 7, những người Nhật thuộc Công ti thực nghiệp Nam Hưng bắt đầu vội vã rời khỏi đảo Phú Lâm, đến tháng 9 rút hết, đảo Phú Lâm bị bỏ hoang.[106] Lúc này, một người Nhật khác là Tế Đằng Đằng Tứ Lang (Saito Toshiro) đã thay thế vị trí của Hirata, tiếp tục hợp tác với Hà Thụy Niên để khai thác đảo Phú Lâm. Tuy nhiên vào ngày 23/10/1927, một toán quân Trung Quốc khoảng 30 người bất ngờ tấn công người Nhật trên đảo, bắt toàn bộ người Nhật và giam giữ họ trên đảo. Ngày 24/11, Thẩm Khởi Phụng, một người Hồng Kông chỉ huy 25 người đổ bộ lên đảo Phú Lâm, yêu cầu quân đội Trung Quốc và người Nhật Bản đều phải rời khỏi đảo.[107] Về lai lịch của toán quân Trung Quốc này và Thẩm Khởi Phụng, phía Trung Quốc hầu như không có ghi chép gì, vì vậy vẫn còn rất nhiều điểm không thể giải thích được. Sau đó, có thể Thẩm Khởi Phụng đã khai thác Hoàng Sa một thời gian ngắn. Nhưng vào năm 1928 khi đoàn khảo sát Hoàng Sa đến nơi, trên đảo không có một bóng người.
Ngày 22/5, đoàn khảo sát Hoàng Sa xuất phát trên tàu “Hải Thụy”, ngày 28 đến quần đảo Hoàng Sa, ngày 31 quay về rồi viết báo cáo điều tra. Chuyến đi của đoàn điều tra đã khảo sát các hạng mục của các đảo như địa thế địa lí, địa chất, phân chim, khoáng sản, nông sản, thuỷ sản cũng như tính khả thi của việc xây dựng cảng biển… Đoàn khảo sát cũng đã xác nhận thực tế kinh doanh trên đảo đều do người Nhật tiến hành, mặc đù đại bộ phận thiết bị doanh trại đã bị vứt đi nhưng đã tìm thấy một cuốn nhật kí của người Nhật bỏ lại trên đảo, từ đó biết được rất nhiều chi tiết việc khai thác của người Nhật. Chỉ có điều trên các đảo khi đó, ngoài phân chim và vài loại hải sản trên một hai đảo ra, không có giá trị gì cho việc kinh doanh cả. Đại học Trung Sơn đề nghị nhượng lại cho Đại học Trung Sơn phụ trách khai thác nguồn phân chim còn lại…[108]
Cuối cùng, chính quyền tỉnh Quảng Đông quyết định giao nguồn phân chim của quần đảo Hoàng Sa cho Đại học Trung Sơn quản lí, rốt cuộc đã huỷ bỏ quyền kinh doanh của Hà Thụy Niên. Sau khi Đại học Trung Sơn có được quyền quản lí, vì lí do thời cuộc và kinh phí, lần lữa mãi vẫn không đến Hoàng Sa khai thác được. Đến năm 1929, họ đành phải yêu cầu chính phủ phê chuẩn cho thương nhân nhận làm. Sau đó các thương nhân như Tống Tích Quyền, Nghiêm Cảnh Chi và Tô Tử Giang… lần lượt đấu thầu được quyền kinh doanh. Chỉ có điều việc khai thác của các công ti đều chỉ duy trì được khoảng 1 năm thì tuyên bố thất bại.[109] Tình hình cứ duy trì như vậy đến khi tranh chấp Trung – Pháp về Hoàng Sa bùng phát.
Ngoài ra, vào năm 1925 Trung Quốc còn đề nghị xây dựng trạm khí tượng ở Hoàng Sa; năm 1926 Cục trưởng đo đạc đường biển Hứa Kế Tường còn đến đảo Phú Lâm (Vĩnh Hưng) điều tra để xây dựng,[110] nhưng vì vấn đề tài chính mà không thể xây dựng được. Tháng 4/1930, hội nghị khí tượng Viễn Đông được tổ chức ở Hồng Kông với sự tham gia của 4 bên là Trung Quốc, Pháp, Philippines, Hồng Kông, quyết định để chính phủ Trung Quốc xây dựng đài khí tượng ở Hoàng Sa. Tháng 7, chính phủ Quốc Dân ra lệnh quyết định xây dựng ở Hoàng Sa một trạm vô tuyến và một trạm khí tượng, nhưng do khó khăn về tài chính, không có tiền để phân bổ, nghe nói mãi đến năm 1936 mới xây dựng xong,[111] người viết không tìm thấy bằng chứng trong hồ sơ lưu trữ.
Tóm lại, trong thời gian từ năm 1909 đến 1930, các biện pháp chủ yếu của Trung Quốc về thực thi chủ quyền ở Hoàng Sa bao gồm:
(1) Nhập Tây Sa vào Nhai Châu về hành chính;
(2) Cấp quyền chuyên doanh khai thác cho các thương nhân như Hà Thụy Niên…;
(3) Chuyên viên chính phủ dẫn đoàn đổ bộ lên đảo khảo sát. Ngoài ra, còn có các kế hoạch khai thác và kế hoạch xây dựng trạm khí tượng vẫn nằm trên giấy…
Những biện pháp này đã củng cố quyền kiểm soát của Trung Quốc đối với Hoàng Sa.
II.3. Nhật Bản phát triển kinh doanh quần đảo Trường Sa
Nhật Bản gần như có sự quan tâm đối với 2 quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa cùng một lúc, sự quan tâm đối với quần đảo Trường Sa thậm chí còn lớn hơn đối với quần đảo Hoàng Sa. Ngay từ năm 1907, một người Nhật tên Cung Khi (Miyazaki), được sự khuyến khích của chủ trương “Thuỷ sản Nam tiến” đã đi thuyền cá đến hoạt động ở quần đảo Trường Sa. Năm 1917, những người Nhật gồm Shigetoshi Komatsu và Ikeda Kanzo… khi điều tra ở Hoàng Sa cũng tiến hành khảo sát và đo đạc ở Trường Sa, đã phát hiện tài nguyên phốt phát ở Trường Sa, đưa đến cao trào điều tra về Trường Sa. Năm 1918, Sueji Hirata, năm 1919 Keisaburo Hashimoto và Junji Kamiyama, năm 1920 Hidekichi Saito và Sanzo Nozawa… cũng lần lượt đến Trường Sa khảo sát. Trong đó cuộc khảo sát của Hashimoto, để có được tính chính thức còn mời riêng kĩ sư Matsujiro Kamoshita và kĩ thuật viên Lingliang Sakurai của Bộ Nông Thương đi cùng.[112]
Những chuyến khảo sát này đã giúp người Nhật biết rõ về nguồn khoáng sản phong phú của Trường Sa, do đó họ tới tấp xin phép chính phủ Nhật Bản cho khai thác. Vào tháng 3/1912, đồng thời với việc xin phép chính phủ Nhật Bản cho khai thác Hoàng Sa, Sueji Hirata cũng xin phép khai thác Trường Sa. Ngày 13/5/1919, Keisaburo Hashimoto với tư cách là nghị viên Viện Quý tộc đã thỉnh nguyện Ngoại trưởng Nhật Bản Nội Điền Khang Tai (Yasuya Uchida), đưa quần đảo Trường Sa vào bản đồ Nhật Bản và tiến hành khai thác.
Nhưng cuối cùng, quyền khai thác này dành cho công ti phốt phát Chu Thức ở đảo Lassa có quân đội đứng sau. Giám đốc Hằng Đằng Quy Long (Kitaka Hengo) là nhà địa chất nổi tiếng của Nhật Bản, là tiến sĩ nông học đầu tiên của Nhật Bản, cũng là nhà khoa học chủ trì khai thác đảo Daito, có quan hệ mật thiết với hải quân. Thông qua quan hệ với hải quân, ông ta đã mời trung tá hải quân dự bị Unosuke Ogura giúp đỡ tiến hành khảo sát Trường Sa. Dưới sự chủ trì của Ogura, ngày 14/2/1918, một nhóm người bắt đầu thực hiện cuộc điều tra đầu tiên ở Trường Sa, đã đến 5 đảo gồm đảo Song Tử Đông (đảo Bắc Tử), đảo Song Tử Tây (đảo Nam Tử), đảo Loại Ta (đảo Nam Thược), đảo Thị Tứ (đảo Trung Nghiệp) và đảo Ba Bình (đảo Thái Bình), cũng đã dựng cột mốc chiếm hữu trên đảo và phân tích phốt phát ở đó. Từ tháng 11/1920 đến tháng 3/1921, Ogura một lần nữa lại dẫn nhóm đổ bộ lên nhiều đảo như đảo Loại Ta (đảo Nam Thược), đảo An Bang (đảo An Ba), đảo Nam Yết (đảo Hồng Hưu), đảo Trường Sa Lớn (đảo Nam Uy) để tiến hành khảo sát. Qua hai lần khảo sát, về cơ bản tất cả các đảo có thể gọi tên đều đã được khảo sát. Ghi chép khảo sát của ông ta được đưa vào cuốn sách “Đảo bão tố” (Bạo Phong chi đảo).[113] Cuốn sách này lần đầu tiên ghi lại một cách có hệ thống tên bản địa của một số đảo thuộc quần đảo Trường Sa qua phỏng vấn ngư dân Hải Nam đánh cá ở đó, rất có giá trị cho việc nghiên cứu lịch sử hoạt động của ngư dân Trung Quốc ở quần đảo Trường Sa. Việc ghi chép và chỉnh lí tư liệu tương tự của Trung Quốc phải mãi đến sau những năm 1930 mới xuất hiện.
Ngày 10/6/1919, công ti Lassa đã xin Sở tài phán địa phương Tokyo quyền khai thác khoáng sản ở 5 đảo nhỏ nêu trên. Sau khi Bộ Ngoại giao và Bộ Hải quân Nhật Bản tiến hành nghiên cứu sự quy thuộc của quần đảo Trường Sa, xác định các đảo này là đảo không người. Đơn của công ti Lassa được phê chuẩn vào tháng 4/1921, giấy phép khai thác được chính phủ Nhật Bản cấp phát.[114] Nhật Bản chính thức đặt tên cho nó là quần đảo Tân Nam. Tên gọi quần đảo Tân Nam này là cách đặt tên đầu tiên của quần đảo Trường Sa theo ý nghĩa hiện đại. Trong sách cổ, Trung Quốc dùng các tên gọi Trường Sa, Thạch Đường… để chỉ quần đảo Trường Sa nhưng không xác định rõ phạm vi cũng như bao gồm những đảo, đá nào; còn trong bản đồ hàng hải và thư tịch của phương Tây các đảo, đá này có tên gọi riêng nhưng không có tên gọi chung cho toàn bộ giống như quần đảo Paracel (tức quần đảo Hoàng Sa). Quần đảo Tân Nam có phạm vi tương đối cố định. Thời điểm trước và sau khi Thế chiến hai kết thúc, tên gọi này cũng được sử dụng rộng rãi trong các tài liệu lịch sử của phương Tây.
Khi công ti Lassa bắt đầu khai thác khoáng với quy mô lớn trên các đảo ở Trường Sa thì đảo Trường (đảo Ba Bình) đã trở thành đại bản doanh của Trường Sa, trên đảo xây dựng văn phòng, cầu tàu, nhà kho, đường ray và các công trình kiến trúc khác. Dân số trên đảo Ba Bình lúc đông nhất có hơn 100 người. Đây là lần đầu tiên trong lịch sử hoạt động thương nghiệp có tổ chức với quy mô lớn trên các đảo của Trường Sa. Trong mấy năm sau đó, người Nhật đến thăm dò và khai thác tổng cộng 9 đảo nhỏ, chủ yếu là đảo Song Tử Đông, đảo Song Tử Tây, đảo Tây Thanh (đảo Tây Thược / Loại Ta), đảo Tam Giác (đảo Trung Nghiệp / Thị Tứ), đảo Trường (đảo Thái Bình / Ba Bình), đảo Trung Tiểu (đảo Nam Thược), đảo Hoàn (đảo Amboyna / đảo An Bang), đảo Nam Tiểu (đảo Hồng Hưu / Nam Yết) và đảo Tây Điểu (đảo Nam Uy / Trường Sa Lớn). Chín đảo nhỏ này là các đảo chính của quần đảo Tân Nam.
Chính phủ Nhật Bản tích cực nghiên cứu về chủ quyền của Nam Sa. Năm 1927 các quan chức ngoại giao Nhật Bản lấy danh nghĩa tư nhân hỏi dò phía Anh, Pháp, Mĩ (Philippines) xem họ có yêu sách chủ quyền đối với Trường Sa hay không. Pháp và Mĩ đều đưa ra câu trả lời phủ định, trong khi thái độ của Anh thì tương đố mơ hồ.[115] Nhật Bản dò hỏi Philippines là dựa trên nguyên nhân địa lí: họ cho rằng về địa lí có thể thấy Trường Sa là một bộ phận của Philippines về mặt hành chính.[116] Khi xem xét về yêu sách chủ quyền đối với Trường Sa, Nhật Bản không dò hỏi phía Trung Quốc. Nguyên nhân được đề cập trong một bản báo cáo năm 1933, đó là vì trong cuộc tranh chấp về Đông Sa, Trung Quốc đã sử dụng hai cuốn sách (“Quốc triều nhu viễn kí” và “Giang hải hiểm yếu đồ thuyết”) để chứng minh đảo Đông Sa thuộc Trung Quốc, cả hai đều không có nhắc đến Trường Sa. Vì vậy, phía Nhật Bản cho rằng Trung Quốc không có liên hệ gì với Trường Sa.[117]
Được khuyến khích, năm 1929 Hải quân Nhật Bản điều động tàu vận tải Giao Châu (Koshu) đến quần đảo Trường Sa để điều tra. Tháng 3, Tề Đằng Anh Cát (Saito Hideyoshi), Linh Mộc Khuê Nhị (Suzuki Keiji) kiến nghị với Bộ trưởng Ngoại giao và Bộ trưởng Hải quân sáp nhập “quần đảo Tân Nam” vào bản đồ Nhật Bản. Chính phủ Nhật Bản tiến hành nghiên cứu tích cực để chuẩn bị tuyên bố chính thức với các nước chủ quyền đối với Trường Sa.
Tháng 4, Nhật Bản dựng bia đá trên “quần đảo Tân Nam” thay cho bia gỗ dựng năm 1917. Tuy nhiên, chính vào tháng này do ảnh hưởng của suy thoái kinh tế thế giới, công ti Lassa ngừng khai thác khoáng sản, 3 thành viên công ti và 130 thợ mỏ đều rút về Nhật Bản. Yêu sách của Nhật Bản đối với Trường Sa cũng tạm dừng lại. Chính vì điều này mà phía Pháp đi sau về trước, đi đầu trong việc tuyên bố chủ quyền đối với Trường Sa.
Dù bắt đầu từ cuối thời Thanh ngư dân Trung Quốc liên tục hoạt động ở Trường Sa, nhưng những hoạt động đó là rất tản mạn và thuộc về tư nhân, không thể so sánh với việc khai phá của Nhật Bản cả về quy mô, tính tổ chức lẫn thời gian. Việc khai phá của Nhật Bản có dạng nửa công nửa tư, đặc biệt có sự hậu thuẫn của hải quân Nhật Bản, trong đội ngũ thám trắc thời kì đầu là do các sĩ quan hải quân giải ngũ và tại ngũ chỉ huy. Khác biệt rõ nét nhất là việc khai thác của Nhật Bản đã được chính phủ Nhật Bản phê chuẩn quyền kinh doanh. Điều này có nghĩa là loại hình kinh doanh này nhận được sự ủng hộ của nhà nước. So với việc Anh phê chuẩn quyền kinh doanh hai đảo nhưng không có hoạt động khai thác trên thực tế nửa cuối thế kỉ 19, bằng chứng chủ quyền về mặt “quản lí hữu hiệu” của Nhật Bản mạnh hơn; nhưng về mặt ý định chủ quyền thì không đủ, vì phía Anh đã xuất bản công báo còn phía Nhật Bản không có công bố.
So sánh các bằng chứng chủ quyền của Nhật Bản đối với quần đảo Trường Sa và của Trung Quốc với quần đảo Hoàng Sa thời kì này có thể nói là rất giống nhau. Hai bên đều cấp phát quyền kinh doanh, hai bên đều có thực tế khai thác trên đảo (mặc dù khai phá ở Tây Sa chủ yếu là người Nhật Bản), hai bên đều chính thức đổ bộ lên đảo khảo sát. Điều mà Nhật Bản thua kém Trung Quốc là sự kiểm soát của họ với Trường Sa không nhận được sự thừa nhận của quốc tế. Mặc dù việc Nhật Bản dựng cột mốc biên giới trên đảo có thể xem như thể hiện ý định chủ quyền, nhưng khi Nhật Bản chuẩn bị công khai hóa thêm một bước cho thứ chủ quyền này, thì do khủng hoảng kinh tế bất ngờ xảy ra, nên đã chậm chân hơn Pháp.
So với tranh chấp đảo Đông Sa, phản ứng của Trung Quốc khá thú vị. Mặc dù sau này Trung Quốc tuyên bố liên tục có chủ quyền đối với Trường Sa, nhưng vào lúc đó chính phủ Trung Quốc, cả chính phủ Bắc Dương ở Bắc Kinh lẫn chính phủ Quảng Châu ở miền Nam, đều không có phản ứng đối với sự kiện khai phá lâu dài và quy mô lớn của Nhật Bản, cũng không có báo chí đưa tin. Các hồ sơ lưu trữ mà tác giả đọc được cũng không có nội dung về Nam Sa (Trường Sa). Ngược lại, khi xảy ra sự kiện tàu cá Nhật Bản đánh cá ở Đông Sa lần lượt vào năm 1924 và 1930, phía Trung Quốc đã đưa ra kháng nghị ngay lập tức.[118] Trước việc người Nhật khai thác khoáng sản ở Hoàng Sa, tinh thần quần chúng Trung Quốc sục sôi mãnh liệt (xem phần II.2). Vì vậy, việc Trung Quốc không lên tiếng đối với sự khai phá của người Nhật ở Trường Sa chỉ có hai khả năng: thứ nhất, Trung Quốc cho rằng Trường Sa thuộc Trung Quốc nhưng không biết việc người Nhật Bản tiến hành khai phá ở đó; thứ hai, Trung Quốc biết Nhật Bản khai phá ở Trường Sa, nhưng tuyệt nhiên không cho rằng Trường Sa là một bộ phận của lãnh thổ Trung Quốc. Ngay cả tình huống thứ nhất là đúng, trong thời gian 10 năm dài mà không biết người Nhật khai phá ở đó chứng tỏ Trung Quốc tuyệt nhiên không thực sự quan tâm mấy đến Trường Sa. Trên thực tế, trước năm 1933, chính phủ Trung Quốc trước sau không dùng bất cứ hình thức nào để biểu thị Trung Quốc có chủ quyền đối với Trường Sa.
Bắt đầu từ thế kỉ 20 đến trước những năm 1930, thái độ của Nhật Bản đối với các đảo ở biển Đông chủ yếu là tích cực kinh doanh khai phá để thu được lợi ích kinh tế; thứ hai cũng có suy nghĩ phát triển thế lực đến biển Đông để chống lại thế lực của Anh và Pháp ở Đông Nam Á. Nhưng mục đích đầu tiên là quan trọng hơn. Dường như trong tất cả hành động, điều mà Nhật Bản theo đuổi là lợi ích có được trên thực tế hơn là lợi ích về danh nghĩa. Ở Đông Sa, qua giao thiệp với Trung Quốc, Nhật Bản đã thừa nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Đông Sa. Ở Hoàng Sa, Nhật Bản muốn thông qua Pháp và Trung Quốc để giành được quyền khai thác khoáng sản, cuối cùng đã thực hiện khai phá Tây Sa với giấy phép khai thác của Trung Quốc. Ở Trường Sa, trong tình hình không có người phản đối, Nhật Bản khai thác khoáng sản với quy mô lớn trong nhiều năm nhưng không kịp thời tuyên bố chủ quyền đối với quần đảo này.
II.4. Sự thay đổi thái độ của Pháp
Cho đến giữa những năm 1920, Pháp không có sự quan tâm quá lớn đối với Hoàng Sa và Trường Sa. Như Beauvais, tổng lãnh sự Pháp ở Quảng Châu (Trung Quốc), đã chỉ ra trong một bức điện năm 1909, rằng lợi ích của Pháp nằm ở việc duy trì quyền lợi tổng thể của mình ở Trung Quốc, còn Hoàng Sa so với điều này tuyệt nhiên không quan trọng, do đó, thật không đáng để Pháp vì Hoàng Sa mà kích động tinh thần dân tộc của người Trung Quốc (xem II.1.).
Có bằng chứng cho thấy từ năm 1910 đến năm 1925, Pháp có không ít hoạt động ở Hoàng Sa. Ví dụ, Hải quân Pháp từng đến quần đảo Hoàng Sa trong các chuyến đi không định kì để giải cứu “phụ nữ và trẻ em Việt Nam bị ngư dân Trung Quốc bắt cóc” cũng như tiến hành việc truy bắt buôn lậu vũ khí và thuốc phiện ở Hoàng Sa. Tàu tuần tra của Pháp còn bắt một tàu Nhật Bản đang chở phốt phát, thuyền viên Nhật Bản thanh minh rằng họ được phía Pháp phê chuẩn mới hoạt động ở đây.[119] Trong nhật kí của người Nhật mà Thẩm Bằng Phi nhặt được khi khảo sát Hoàng Sa cũng có ghi chép mấy lần tàu tuần tra Pháp hoạt động ở khu vực xung quanh.[120] Nhưng Pháp chỉ hi vọng duy trì hòa bình và an toàn đường thuỷ ở khu vực này, thái độ chủ quyền của họ không khác biệt so với năm 1909.
Ngày 20/9/1920, khi chuẩn bị khai thác Hoàng Sa, công ti Mitsui của Nhật Bản có hỏi dò Rémy, Tư lệnh Hải quân Pháp ở Sài Gòn, về chủ quyền của Hoàng Sa, ông ta trả lời: “Không có văn kiện chính thức nào ở bộ Tư lệnh có thể xác định tình trạng của quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, tôi tin rằng tôi có thể khẳng định chắc chắn chúng không phải lãnh thổ của Pháp, mặc dù điều này hoàn toàn dựa trên trí nhớ của tôi, tôi cũng không có biện pháp cung cấp bất cứ văn kiện nào để chứng minh điểm này”.[121] Dù lời của Tư lệnh Hải quân ở Sài Gòn với ngữ khí dè dặt và xuất phát từ lập trường cá nhân, nhưng điều đó cũng cho thấy sự thiếu quan tâm của nước Pháp đối với chủ quyền của Hoàng Sa lúc đó. Năm 1921, chính quyền quân sự miền Nam Trung Quốc tuyên bố đưa quần đảo Tây Sa (Hoàng Sa) vào quyền quản lí của huyện Nhai Sơn. Hai sự kiện này bắt đầu gợi sự chú ý của Pháp. Bộ Thuộc địa Pháp và chính quyền Đông Dương bắt đầu thảo luận việc chọn thái độ đối với Hoàng Sa. Nhưng cuối cùng phía Pháp thể hiện bằng việc tiếp tục im lặng. Nguyên nhân chủ yếu là chủ quyền của quần đảo Hoàng Sa đối với Pháp là một con bài dùng để mặc cả đổi lấy lợi ích khác. Pháp thậm chí còn thảo luận về việc có nên công khai thừa nhận chủ quyền Hoàng Sa thuộc Trung Quốc để đổi lấy việc Trung Quốc hứa vĩnh viễn không xây dựng căn cứ quân sự ở Hoàng Sa, cũng như không cho nước khác thuê nó để xây dựng căn cứ quân sự.[122]
Ngoài ra, nếu như Pháp đưa ra phản đối với chính phủ miền Nam, cũng có thể gặp phải vấn đề pháp lí, vì chính phủ miền Nam không phải chính phủ hợp pháp của Trung Quốc mà phía Pháp thừa nhận còn chính phủ Bắc Dương lại không kiểm soát Hoàng Sa trên thực tế.[123]
Tóm lại, trong những năm 1920 Pháp không tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa nhưng cũng không chính thức công nhận chủ quyền của Trung Quốc đối với Hoàng Sa. Trong nội bộ, họ cho rằng lợi ích chủ quyền Hoàng Sa không phải không thể không đánh đổi được, và thật ra họ còn nghĩ tới chuyện dùng nó trong đàm phán với Trung Quốc. Đối với Trường Sa, Pháp về cơ bản không cho rằng nó là lãnh thổ của Pháp mà xem chúng là đất vô chủ (terra nullius). Nhưng kiểu thái độ này bắt đầu thay đổi vào giữa những năm 1920. Kiểu chuyển biến này có mấy nguyên nhân sau đây.
Thứ nhất là do Việt Nam yêu cầu. Ngày 3/3/1925, Thân Trọng Huề, thượng thư Bộ binh triều Nguyễn gửi cho quan bảo hộ Pháp một thư chính thức, yêu cầu Pháp thay mặt Việt Nam đòi chủ quyền quần đảo Hoàng Sa từ tay Trung Quốc.[124] Ông nêu: “Quần đảo Hoàng Sa xưa nay luôn luôn thuộc chủ quyền của nước An Nam, việc này không có gì để bàn cãi cả. Trước khi Trung Quốc đoạt lấy quần đảo Hoàng Sa vào năm 1909, dựa theo điều ước bảo hộ, về mặt đối ngoại, nước Pháp đáng lí phải thay An Nam thi hành quyền bảo vệ quần đảo Hoàng Sa. Tuy nhiên, do trước đây vùng đất này hoàn toàn bị bỏ lơ, không được để ý đến, mới dẫn tới việc phía Trung Quốc có ý đồ chính thức chiếm lấy.”[125]
Không rõ lí do vì sao Thân Trọng Huề khi đó lại đột nhiên đưa ra yêu cầu này. Nhưng điều nêu trong thư rằng Việt Nam là thuộc địa, không có quyền tự chủ ngoại giao, chỉ có thể giao thiệp thông qua nước Pháp lại đúng theo thực tế. Xem lại thư của Pháp năm 1909, trong đó có nêu rằng “đối với những đảo này Pháp có quyền lợi giống như Trung Quốc”, nhưng quyền lợi miêu tả trong thư chỉ dựa trên hiện trạng ngư dân Việt Nam cũng đánh cá ở Hoàng Sa…. Có lí do tin rằng chính quyền thuộc địa Pháp khi đó biết rất ít về quan hệ lịch sử giữa Việt Nam và Hoàng Sa (xem I.2). Nhưng sau khi Thân Trọng Huề đưa ra quan điểm Hoàng Sa xưa nay thuộc An Nam, phía Pháp đã càng tìm thấy bằng chứng lớn hơn để đòi chủ quyền đối với Hoàng Sa, tức chủ quyền dựa trên lịch sử. Nếu đã có các lí do dựa hiện trạng như Trung Quốc thì khi cộng thêm với những lí do dựa trên lịch sử chẳng lẽ chủ quyền Hoàng Sa không nghiêng về phía Pháp sao?
Thứ hai, Pháp cảm thấy lo ngại trước sự bành trướng thế lực của Nhật Bản ở biển Đông. Từ trước tới nay, trong con mắt của Anh, Pháp… Hoàng Sa và Trường Sa đều là những khu vực nguy hiểm cho hàng hải, và trở ngại cho vận chuyển ở biển Đông. Anh và Pháp đã khảo sát Hoàng Sa và Trường Sa nhiều lần trong thế kỉ 19, nhưng mục đích của họ là chuẩn bị dữ liệu cho các tuyến hàng hải để tàu có thể tránh những khu vực nguy hiểm này khi đi biển. Mặc dù có tiềm lực khai thác phốt phát trên một số đảo, nhưng Anh, Pháp nhận thấy những tiềm lực này có hạn. Vì lẽ đó Hoàng Sa và Trường Sa đều không phải là lợi ích cốt lõi của Anh, Pháp.
Nhưng sau những năm 1920, Nhật Bản ra sức bành trướng xuống biển Đông. Họ duy trì việc khai thác phốt phát, dù không rõ lợi nhuận thế nào nhưng hành động của “thương nhân” Nhật Bản thật ra được một bộ phận quân đội, đặc biệt là hải quân, hậu thuẫn. Vì vậy, Anh, Pháp nghi ngờ mục đích thật sự của việc này là nhằm xâm nhập biển Đông. Dù Nhật Bản chưa hề tuyên bố chủ quyền, cũng không đưa quân lên đảo nhưng hai nước Anh, Pháp đều cảm thấy lợi ích chính của mình bị uy hiếp, và cho rằng Nhật Bản đang che đậy các mục đích chính trị của họ. Do đó, từ giữa những năm 1920 trở đi, vì những lí do chiến lược, thái độ của Pháp cũng trải qua một sự thay đổi mạnh mẽ.
Từ giữa đến cuối những năm 1920, Pháp đã tăng cường nghiên cứu về hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa. Năm 1925, Pháp cử chiến hạm de Lanessan, do tiến sĩ Krempf, Giám đốc Nha hải dương học Đông Dương (Oceanographic Service of Indochina) chỉ huy tiến hành khảo sát và đo đạc Hoàng Sa.[126] Nhưng điều này chưa đủ để lập luận rằng hành động này là hành động tuyên bố chủ quyền của Pháp đối với Hoàng Sa. Kể từ thế kỉ 19, Anh, Mĩ, Đức, Nhật Bản đều đã từng đến quần đảo Hoàng Sa để tiến hành đo đạc, cộng đồng quốc tế không coi những hành động này là hành động tuyên bố chủ quyền đối với Hoàng Sa. Hành động của Pháp ngoài đo đạc ra còn có khảo sát, khảo sát có thể xem là một bộ phận của thực thi chủ quyền, nhưng chỉ khảo sát thôi thì không thể giải thích phần lớn vấn đề.
Qua điều tra, toàn quyền Đông Dương thấy cần phải nghiên cứu sâu về tình trạng pháp lí của Hoàng Sa và Trường Sa, đặc biệt là vào năm 1928, sau khi công ti Tân Lân Bắc Kì (The New Phosphates Company of Tonkin) xin chính quyền Đông Dương quyền khai phốt phát ở Hoàng Sa và Trường Sa.[127] Vì vậy, ông viết thư hỏi ý kiến Khâm sứ Trung Kì Aristide Eugène Le Fol. Qua điều tra kĩ càng, đặc biệt là sau khi đã tham khảo hồ sơ lịch sử của Việt Nam, vào ngày 22/1/1929 Aristide Eugène Le Fol viết cho Toàn quyền một bức thư quan trọng, trình bày tỉ mỉ quan hệ giữa Việt Nam với Hoàng Sa cũng như thái độ nước Pháp nên thể hiện.[128] Trong thư chủ yếu đã đề cập mấy điểm dưới đây:
Thứ nhất, Hoàng Sa trong lịch sử thuộc lãnh thổ Việt Nam, bắt đầu từ đầu thế kỉ 19 đã liên tục được vua Việt Nam quản lí (đây cũng là lần đầu phía nhà nước Việt Nam/Pháp chính thức xác nhận Tây Sa tức Hoàng Sa).
Thứ hai, mặc dù hiện nay không có ngư dân Việt Nam hoạt động ở đó, nhưng vua Việt Nam và một số nhân vật chính trị của Pháp đều coi chúng là lãnh thổ của Việt Nam.
Thứ ba, Pháp với tư cách là nước bảo hộ của Việt Nam, lẽ ra đảm nhận trách nhiệm bảo vệ lãnh thổ Việt Nam, nhưng trước đây (hơn 40 năm) nước Pháp đã không làm như vậy, đặc biệt là đối với hành động tuyên bố chủ quyền của Trung Quốc năm 1909, nước Pháp không có trách nhiệm cần phải có.
Thứ tư, về mặt địa lí, Hoàng Sa là phần mở rộng tự nhiên của lãnh thổ đất liền Việt Nam.
Thứ năm, Hoàng Sa có vị trí chiến lược quan trọng, trong tác chiến có thể bị các nước khác dùng làm căn cứ tiến hành tấn công Đông Dương; Hoàng Sa còn ở trên tuyến đường giao thông trọng yếu trong vận tải đường biển giữa Đông Dương, Bắc Kì (chỉ miền Bắc Việt Nam), Viễn Đông và Thái Bình Dương, quân địch chiếm đóng Hoàng Sa rất dễ cắt đứt giao thông giữa các khu vực kể trên, gây nguy hiểm cho an ninh Đông Dương.
Trong phần cuối thư, Aristide Eugène Le Fol yêu cầu toàn quyền Đông Dương giải quyết vấn đề Hoàng Sa càng sớm càng tốt.
Đối với việc này, phía Paris vẫn còn do dự không quyết, còn toàn quyền Pháp ở Đông Dương Pierre Marie Antoine Pasquier cũng có khuynh hướng chờ đợi. Nhưng với sự công khai bức thư, trong vòng mấy tháng dư luận về vấn đề Hoàng Sa không những sôi sục ở Sài Gòn mà thậm chí còn lan truyền đến Paris. Quốc hội Pháp gửi thư đến Bộ Thuộc địa yêu cầu có hành động ở Hoàng Sa. Do đó Bộ Thuộc địa lại lần nữa ra lệnh cho Pasquier giải thích lập trường. Cuối cùng vào tháng 3/1930, Pasquier tin rằng nước Pháp có bằng chứng để đòi chủ quyền Hoàng Sa nhưng ông vẫn lo lắng về phản ứng của Trung Quốc. Tháng 6, Bộ Ngoại giao Pháp gây thêm áp lực với Pasquier. Cuối cùng cho đến tháng 10, Pasquier mới quyết tâm đối đầu với Trung Quốc về vấn đề Hoàng Sa. Điều này phản ánh trong bức điện của ông gửi cho Paris ngày 18/10/1930. Năm 1931, “Báo Dư luận” ở Sài Gòn đăng bài viết yêu cầu Pháp “thu hồi” quần đảo Hoàng Sa. Nhưng mãi đến cuối năm 1932 Bộ Ngoại giao Pháp cuối cùng mới có quyết định.
Đáng chú ý là mặc dù nguyên nhân dẫn đến một loạt thư từ qua lại trong hơn hai năm này phần lớn là những trọng tâm thảo luận của phía Pháp về vụ Hoàng Sa, còn Trường Sa được đề cập đến không nhiều, hơn nữa đặt ở vị trí rất không quan trọng. Pháp có lẽ cho rằng lúc đó chỉ có Hoàng Sa là nằm dưới sự quản lí của Trung Quốc, vì vậy tranh chấp Hoàng Sa mới cần phải lo lắng đến phản ứng của Trung Quốc.
Năm 1932, Trung Quốc lại cấp giấy phép khai thác Hoàng Sa. Nhân cơ hội này, ngày 4/12, Pháp chính thức gửi công hàm cho đại sứ quán Trung Quốc tại Pháp, khẳng định rõ Pháp có chủ quyền đối với Hoàng Sa, và nói thêm rằng nếu Trung Quốc có ý kiến phản đối về vấn đề này thì có thể đưa ra tòa trọng tài. Có 3 lí do chính: Việt Nam thời Gia Long, Minh Mạng đã xác lập sự quản lí đối với Hoàng Sa; năm 1898 quan chức Trung Quốc từng tuyên bố với phía Anh rằng quần đảo Hoàng Sa không thuộc Trung Quốc; năm 1899, chính quyền Đông Dương thuộc Pháp chuẩn bị xây dựng hải đăng ở Hoàng Sa.[129]
Sự việc năm 1898 được nói đến ở đây[130] là chỉ vụ một tàu chở đồng của Đức (Bellona) và một tàu chở đồng của Nhật Bản (Imegi Maru) lần lượt bị mắc cạn năm 1895 và 1896 tại đá Bắc (North Reef) và nhóm đảo An Vĩnh (Amphitrite Group), ngư dân Trung Quốc cướp sạch hàng hóa trên tàu và mang về Hải Khẩu bán. Do hai tàu này đều do công ti của Anh bảo hiểm, Công sứ Anh Henry Bax-Ironside và lãnh sự Anh ở Hải Khẩu O’Brien Butler đưa ra kháng nghị với phía Trung Quốc đồng thời thay mặt công ti Anh đòi chính phủ Trung Quốc bồi thường. Trong công hàm Tổng lí nha môn gửi Công sứ Anh vào ngày 8/8/1899 có dẫn lại phản bác của tổng đốc Lưỡng Quảng về việc này: “Quần đảo Tây Sa là các đảo bỏ hoang, tức không thuộc Trung Quốc, cũng không thuộc An Nam, nó không thuộc bất cứ khu vực hành chính nào của Hải Nam, không ai phải chịu trách nhiệm về an ninh của nó” (Paracels were abandoned islands which belonged no more to China than to Annam. They are not administratively attached to any district of Hainan and no special authority is responsible for policing them). Cuối cùng, công ti của Anh không nhận được tiền bồi thường. Việc này được đại sứ quán Anh ở Bắc Kinh và lãnh sứ quán Anh ở Hải Khẩu ghi lại.[131]
Đây là lần đầu tiên trong lịch sử Pháp chính thức đưa ra yêu sách chủ quyền đối với Hoàng Sa. Cũng là sự khởi đầu của tranh chấp chủ quyền Hoàng Sa. Tháng 4/1932, Pháp lại gửi công hàm cho Bộ Ngoại giao Trung Quốc, đồng thời bày tỏ sự phản đối với việc tỉnh Quảng Đông chuẩn bị tiến hành bỏ phiếu về quyền khai thác phân chim ở Hoàng Sa.[132] Năm 1932, Pháp phái binh lính đến tuyên bố chủ quyền ở đảo Phú Lâm (đảo Vĩnh Hưng). Ngày 15/6, Pháp thông qua pháp lệnh số 156 tuyên bố đặt quần đảo Hoàng Sa dưới sự quản lí của tỉnh Thừa Thiên thuộc Trung Kì, và gọi nó là Đặc khu Paracels (Delegation of the Paracels).[133] Năm 1934, Pháp xây chùa Hoàng Sa trên đảo Phú Lâm (đảo Vĩnh Hưng).
[75] Annex 15, SOPSI, p.200.
[76] “Tuyển tập tư liệu đảo Tây Sa”, tr. 22.
[77] Annex 15, SOPSI, p.200.
[78] “Tuyển tập tư liệu đảo Tây Sa”, tr. 22.
[79] “Tuyển tập sử liệu”, tr. 76.
[80] “Sử liệu ngoại giao triều Tuyên Thống thời Thanh”, quyển 4, tr.11, “Sử liệu ngoại giao thời Thanh”, Nxb Văn Hải, quyển 7, 1963.
[81] Như trên, tr.18-20. Ngày tháng đã được đổi thành Dương lịch.
[82] SOPSI, tr. 100-101
[83] “Lí Chuẩn tuần hải kí”, Tuyển tập tài liệu các quần đảo ở Nam Hải của Trung Quốc, Đài Loan học sinh thư cục, năm 1975, tr.1.
[84] “Nghiên cứu cương vực”, tr.36.
[85] “Nghiên cứu cương vực”, tr. 185. Đoạn “sử liệu” này không được viết vào trong phần chính của sách, đại khái tác giả cũng cảm thấy không ổn.
[86] “Nam Hải cuối thời Thanh”, tr. 240.
[87] “Lịch sử bị bóp méo của biển Đông”, tr. 240.
[88] “Lí Chuẩn tuần hải kí”, Tuyển tập tài liệu các quần đảo ở Nam Hải của Trung Quốc 8, Đài Loan học sinh thư cục, năm 1975, tr.2.
[89] China Sea Pilot, Hydrographic Department, Admiralty, Vol.I, 1937 version, p.107.
[90] Annex 15, SOPSI, pp.200-203.
[91] Annex 13, Note dated 4 May 1909 from Mr. Beauvais, Consulate of France in Canton.SOPSI, tr. 197-198. Đoạn phiên dịch này là dịch từ ghi chép tóm tắt của bức thư gốc cùng ngày (note).
[92] “Tuyển tập tư liệu đảo Tây Sa”, tr. 20-21.
[93] “Nam Hải cuối thời Thanh”, tr. 247-251.
[94] “Tuyển tập tư liệu đảo Tây Sa”, tr. 3-24.
[95] “Nam Hải cuối thời Thanh”, tr. 249. Lã Nhất Nhiên, “Lịch sử biên giới Trung Quốc Cận đại”, quyển hạ, tr. 1074.
[96] “Lịch sử bị bóp méo của biển Đông”, tr.203-213.
[97] Trong toàn bộ sách “Tuyển tập tư liệu đảo Tây Sa” không hề xuất hiện Vạn Châu.
[98] “Lịch sử tranh chấp quốc tế”, tr.160-161.
[99] “Lịch sử tranh chấp quốc tế”, tr.161-165.
[100] “Lịch sử tranh chấp quốc tế”, tr.165.
[101] “Lịch sử tranh chấp quốc tế”, tr.166-169.
[102] Văn kiện đăng kí giao nộp xem “Tuyển tập tư liệu đảo Tây Sa”, tr.38-43
[103] “Tuyển tập tư liệu đảo Tây Sa”, tr.48-53
[104] “Tuyển tập tư liệu đảo Tây Sa”, tr.53-63.
[105] “Tuyển tập sử liệu”, tr.78
[106] “Báo cáo thư điều tra quần đảo Tây Sa”, Tuyển tập tài liệu các quần đảo ở Nam Hải của Trung Quốc 8, Đài Loan học sinh thư cục, năm 1975.
[107] “Lịch sử tranh chấp quốc tế”, tr.176-177.
[108] “Báo cáo thư điều tra quần đảo Tây Sa”, Tuyển tập tài liệu các quần đảo ở Nam Hải của Trung Quốc 8, Đài Loan học sinh thư cục, năm 1975.
[109] “Lịch sử biên giới Trung Quốc Cận đại”, quyển hạ, tr.1083.
[110] “Tuyển tập sử liệu”, tr.211.
[111] “Lịch sử biên giới Trung Quốc Cận đại”, quyển hạ, tr.1081-1082.
[112] “Lịch sử biên giới Trung Quốc Cận đại”, quyển hạ, tr.1081-1082.
[113] “Lịch sử tranh chấp quốc tế”, tr.197-224.
[114] “Lịch sử tranh chấp quốc tế”, tr.211.
[115] Annex 17, SOPSI, p.205.
[116] Annex 17, SOPSI, p.205.
[117] “Lịch sử tranh chấp quốc tế”, tr. 230.
[118] Lã Nhất Nhiên, “Khái luận về việc chính phủ và nhân dân Trung Quốc bảo vệ chủ quyền các đảo Nam Hải thời Cận đại”, Nghiên cứu Lịch sử Cận đại, số 3 năm 1997, tr. 3-41.
[119] P.A. Lapique, À propos des îles Paracels, Saigon, Les Édition d’Extrême-Asie, 1929, p.9-10. Also cited from SOPSI, p.104.
[120] Tuyển tập tài liệu các quần đảo ở Nam Hải của Trung Quốc 8, Đài Loan học sinh thư cục, năm 1975.
[121] Annex 12, SOPSI, p.194.
[122] Annex 16, SOPSI, p.204.
[123] SOPSI, p.101.
[124] Vietnam Courier, The Hoang Sa and Truong Sa Archipelagoes (Paracels and Spratly), Hanoi, 1981, tr.16
[125] Oliver A.Saix, “Tạp chí địa lí nước Pháp” (La Geographe), tháng 11 năm 1933 và tháng 12 năm 1933. Hồ Hoán Dung dịch, đổi tưa là “Người Pháp mưu đoạt quần đảo Tây Sa”, Tuyển tập tài liệu các quần đảo ở Nam Hải của Trung Quốc 8, Đài Loan học sinh thư cục, năm 1975.
[126] SOPSI, p.104.
[127] Annex 20, SOPSI, p.210.
[128] Annex 8, SOPSI, pp.180-182.
[129] “Chuyển trình bức điện của Bộ Ngoại giao Pháp về đảo Thất Châu đồng thời xin ý kiến của nước ta” (ngày 7/1/1932) “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr. 145.
[130] “Lịch sử bị bóp méo của biển Đông”, tr. 470-471.
[131] P.A. Lapique, A Propos des Iles Paracels, 605-616 (1929); SOPSI, pp.36-37.
[132] “Về sự kiện vấn đề đảo Thất Châu”, ngày 24/4 năm Dân quốc 21 (1932), “Tuyển tập hồ sơ Bộ Ngoại giao”, tr. 163-165, nguyên bản tiếng Pháp xem trang 203-207.
[133] Annex 28, SOPSI, p.222.