Thơ Georg Trakl


Phạm Kỳ Đăng
dịch từ nguyên tác tiếng Đức

Ở miền Đông

Cơn thịnh nộ tăm tối của nhân dân
Tựa những cây đàn organ hoang dã của cơn bão mùa đông,
Con sóng tím hồng của trận đánh
Như chòm sao bứng ngọn.

Với cặp mày vụn vỡ, những cánh tay bằng bạc
Đêm tối vẫy những người lính chết.
Trong bóng cây tần bì mùa thu
Hồn ma người bị đập chết thở dài.

Đất hoang tủa gai bao lấy thành phố.
Vầng trăng đuổi những người đàn bà kinh sợ
khỏi những bậc thang ứa máu.
Những con sói hoang băng qua cánh cổng.

Nguyên tác tiếng Đức:

Im Osten

Georg Trakl (1887 – 1914)

Den wilden Orgeln des Wintersturms
Gleicht des Volkes finstrer Zorn,
Die purpurne Woge der Schlacht,
Entlaubter Sterne.

Mit zerbrochnen Brauen, silbernen Armen
Winkt sterbenden Soldaten die Nacht.
Im Schatten der herbstlichen Esche
Seufzen die Geister der Erschlagenen.

Dornige Wildnis umgürtet die Stadt.
Von blutenden Stufen jagt der Mond
Die erschrockenen Frauen.
Wilde Wölfe brachen durchs Tor.

Một bản tiếng Anh:

On the Eastern Front

The winter storm’s mad organ playing
is like the Volk’s dark fury,
the black-red tidal wave of onslaught,
defoliated stars.

Her features smashed, her arms silver,
night calls to the dying men,
beneath shadows of November’s ash,
ghost casualties heave.

A spiky no-man’s-land encloses the town.
The moon hunts petrified women
from their blood-spattered doorsteps.
Grey wolves have forced the gates.

Dạ Tình Ca

Dưới vòm trời sao, kẻ cô độc
Bước chân đi qua giữa đêm khuya.
Lòng rối bời cậu bé tỉnh mơ,
Mặt cậu xám trong trăng tàn tạ.

Cô gái điên buông làn tóc xõa
Khóc bên ô cửa, kín chấn song.
Hồ nước, qua chuyến đi êm ả
Rất tuyệt vời lả lướt tình nhân.

Trong rượu vang, sát nhân cười bệch,
Kẻ ốm kinh sợ nỗi tử thần.
Bà xơ nguyện mình truồng, thương tích
Trước ê chề thập tự nước Hồng Ân.

Người mẹ khẽ hát trong giấc ngủ.
Rất hiền hòa nhìn đêm đến bé con,
Với đôi mắt hoàn toàn chân thực.
Nhà chứa vang tràng tiếng cười giòn.

Dưới lỗ hầm, bên ánh dầu mỡ,
Người chết đưa tay trắng vẽ chi
Lên vách một sự nín câm bỉ báng
Người ngủ đang còn nói thầm thì.

Nguyên tác tiếng Đức

Romanze zur Nacht

Einsamer unterm Stenenzelt
Geht durch die Mitternacht.
Der Knab aus Träumen wirr erwacht,
Sein Antlitz grau im Mond verfällt.

Die Närrin weint mit offnem Haar
Am Fenster, das vergittert starrt.
Im Teich vorbei auf süßer Fahrt
Ziehn Liebende sehr wunderbar.

Der Mörder lächelt bleich im Wein,
Die Kranken Todesgrausen packt.
Die Nonne betet wund und nackt
Vor des Heilands Kreuzespein.

Die Mutter leis’ im Schlafe singt.
Sehr friedlich schaut zur Nacht das Kind
Mit Augen, die ganz wahrhaft sind.
Im Hurenhaus Gelächter klingt.

Beim Talglicht drunt’ im Kellerloch
Der Tote malt mit weißer Hand
Ein grinsend Schweigen an die Wand.
Der Schläfer flüstert immer noch.

Một bản tiếng Anh:

Romance in the Night

The lonely one under the tent of stars
Goes through the still midnight.
The boy woozily awakes out of dreams,
His countenance decays grey in moon.

The foolish woman with unbound hair weeps
By the window’s gazing trellis.
On the pond passing by in sweet journey
Lovers drift most wonderfully.

The murderer smiles palely in wine,
Death’s horror grips the sick.
Excoriated and naked, the nun prays
Before the Savior’s agony on the cross.

The mother sings quietly in sleep.
Peacefully the child looks into the night
With eyes that are completely truthful.
In the whorehouse laughter rings.

By candlelight down in the cellar hole
The dead one paints with white hand
A grinning silence on the wall.
The sleeper whispers still.

U buồn

Nỗi bất hạnh thế giới trôi dật dờ qua chiều tối.
Những nhà ván bay qua vườn nâu, hoang tàn
Những chùm sáng lượn múa quanh phân cháy thành than,
Hai kẻ ngủ loạng choạng về nhà, xám màu nhòa nhạt.

Một đứa bé chạy trên đồng khô nứt nẻ
Và chơi đùa, với mắt nhìn ánh đen láy và phẳng phiu.
Vàng rỏ từ những lùm cây ảm đạm và hắt hiu
Một ông già buồn bã xoay mình trong gió.

Trên đầu tôi vào ban chiều trở lại
Sao Thổ im lìm lái đi số phận khổ đau.
Một cái cây, một con chó lùi lại đằng sau
Bầu trời của Chúa ngả nghiêng trơ cành, đen đúa.

Một con cá nhỏ trượt nhanh xuống suối;
Và bàn tay của người bạn đã chết động đậy lẹ làng
Và thân thương vuốt phẳng vầng trán và áo choàng.
Trong các phòng, một ánh sáng gọi bóng đen thức giấc.

Nguyên tác tiếng Đức:

Trübsinn

Weltunglück geistert durch den Nachmittag.
Baraken fliehn durch Gärtchen braun und wüst.
Lichtschnuppen gaukeln um verbrannten Mist,
Zwei Schläfer schwanken heimwärts, grau und vag.

Auf der verdorrten Wiese läuft ein Kind
Und spielt mit seinen Augen schwarz und glatt.
Das Gold tropft von den Büschen trüb und matt
Ein alter Mann dreht traurig sich im Wind.

Am Abend wieder über meinem Haupt
Saturn lenkt stumm ein elendes Geschick.
Ein Baum, ein Hund tritt hinter sich zurück
Und schwarz schwankt Gottes Himmel und entlaubt.

Ein Fischlein gleitet schnell hinab den Bach;
Und leise rührt des toten Freundes Hand
Und glättet liebend Stirne und Gewand.
Ein Licht ruft Schatten in den Zimmern wach.

Một bản tiếng Anh:

Doldrums

World misfortune wanders ghostly through the afternoon.
Shanties flee through small gardens brown and deserted.
Sparks totter around burnt muck.
Two sleepers stagger homeward gray and vague.

On the withered meadow a child runs
And plays with his eyes black and smooth.
The gold drips from the bushes turbid and weary.
An old man turns sadly in the wind.

In the evening over my head
Saturn again mutely guides a wretched fate.
A tree, a dog scratches behind itself
And God’s sky staggers black and defoliated.

A small fish glides fast down the brook;
And quietly the dead friend’s hand stirs
And lovingly smoothes forehead and robe.
A light rouses shadows in the rooms.

Jim Doss và Werner Schmitt dịch.

Cô hầu trẻ

(Tặng Ludwig von Ficker)

1

Thường bên giếng khi trời sẩm tối
Họ thấy cô như phép lạ đứng bên
Múc gầu nước, khi trời sẩm tối
Kín đầy bình và bước xuống triền.

Trong bụi gai quạ khoang táo tác
Và nàng như một cái bóng vờn,
Làn tóc nàng vàng rỡ chập chờn
Và trên sân những con chuột chí chóe.

Và vuốt ve bởi sự tàn úa
Nàng hạ xuống hàng mi bắt lửa.
Cỏ cháy khô nghiêng trong suy tàn
Lả gục xuống đôi bàn chân nàng.

2

Nàng tạo ra yên lặng trong phòng
Và cái sân trải từ lâu hoang vắng
Ở trước phòng trong bụi cây cơm cháy
Một con sáo đen huýt gió não nùng.

Cái hình nàng trong gương bằng bạc
Xa lạ nhìn nàng trong ánh chiếu lờ mờ,
Và nhợt nhạt trong gương thẫn thờ
Nàng hoảng sợ vẻ tinh khiết của nó.

Một gã đầy tớ hát như mơ trong tối
Nàng đờ người, lay giật bởi đớn đau
Sắc đỏ rỏ qua màn đêm tối
Gió nam bên cánh cổng giật mau.

3

Kế đó trên triền cỏ trụi trơ
Nàng lâng lâng trong cơn sốt mộng mơ.
Cơn gió rầu rĩ trên triền cỏ
Từ những lùm cây, trăng lắng nghe.

Chẳng mấy chốc chung quanh sao nhợt nhạt
Và mỏi mòn bởi sự phàn nàn,
Và như sáp, nhợt bệch đôi má nàng
Từ mặt đất thoảng bay mùi thối rữa.

Cây sậy xạc xào trong ao buồn bã
Và nàng co ro lạnh cóng trong mình,
Xa một con gà trống gáy. Bình minh
Rùng mình trên mặt ao cứng và xám.

4

Trong lò rèn ầm vang tiếng búa
Nàng băng qua cánh cổng sang kia.
Gã đầy tớ vung búa lên rực đỏ
Như đã chết rồi nàng ngó sang kia.

Như trong mơ nàng trúng phải tiếng cười
Và nàng loạng choạng bước vào lò bễ
Co mình sợ sệt vì tiếng gã cười
Như tiếng búa đanh và ngạo nghễ.

Trong gian phòng tia lửa bắn tứ tung
Và với những động tác ngượng ngùng,
Tay bắt theo những tia lửa hoang dã
Nàng đổ vật xuống đất ngất đi.

5

Nằm trải thân yếu đuối trên giường
Nàng tỉnh dậy đầy ngọt ngào e sợ
Và nàng nhìn cái giường bẩn của mình
Được bọc toàn ánh kim vàng rỡ.

Ở đó cỏ mộc tê bên cửa sổ
Và bầu trời sáng sủa phớt xanh.
Thư thoảng gió mang vào khung cửa
Cho chuông rung những tiếng lanh canh.

Những bóng đổ trượt dài trên gối
Giờ ban trưa chậm rãi điểm hồi
Và nàng khó nhọc thở trên gối
Miệng tựa như một vết thương rồi.

6

Đêm đến phất phơ vải lanh nhuốm máu
Mây lướt trên những cánh rừng câm
Phủ trong những tấm vải lanh thâm
Trên cánh đồng bày chim sẻ huyên náo.

Trong đêm tối nàng nằm trắng toát
Gió u u thoảng dưới mái che
Như xác thú trong bụi cây và đêm tối
Quanh miệng nàng ruồi quấn vo ve.

Như trong mộng ở xóm màu nâu đất
Vọng âm thanh ca vũ, sáo đàn
Qua xóm lửng lơ gương mặt của nàng
Tóc nàng phất phơ trong những cành trơ trụi.

Nguyên tác tiếng Đức:

Die junge Magd

(Ludwig von Ficker zugeeignet)

1

Oft am Brunnen, wenn es dämmert,
Sieht man sie verzaubert stehen
Wasser schöpfen, wenn es dämmert.
Eimer auf und nieder gehen.

In den Buchen Dohlen flattern
Und sie gleichet einem Schatten.
Ihre gelben Haare flattern
Und im Hofe schrein die Ratten.

Und umschmeichelt von Verfalle
Senkt sie die entzundenen Lider.
Dürres Gras neigt im Verfalle
Sich zu ihren Füßen nieder.

2

Stille schafft sie in der Kammer
Und der Hof liegt längst verödet.
Im Hollunder vor der Kammer
Kläglich eine Amsel flötet.

Silbern schaut ihr Bild im Spiegel
Fremd sie an im Zwielichtscheine
Und verdämmert fahl im Spiegel
Und ihr graut vor seiner Reine.

Traumhaft singt ein Knecht im Dunkel
Und sie starrt von Schmerz geschüttelt.
Röte träufelt durch das Dunkel.
Jäh am Tor der Südwind rüttelt.

3

Nächtens übern kahlen Anger
Gaukelt sie in Fieberträumen.
Mürrisch greint der Wind im Anger
Und der Mond lauscht aus den Bäumen.

Balde rings die Sterne bleichen
Und ermattet von Beschwerde
Wächsern ihre Wangen bleichen.
Fäulnis wittert aus der Erde.

Traurig rauscht das Rohr im Tümpel
Und sie friert in sich gekauert.
Fern ein Hahn kräht. Übern Tümpel
Hart und grau der Morgen schauert.

4

In der Schmiede dröhnt der Hammer
Und sie huscht am Tor vorüber.
Glührot schwingt der Knecht den Hammer
Und sie schaut wie tot hinüber.

Wie im Traum trifft sie ein Lachen;
Und sie taumelt in die Schmiede,
Scheu geduckt vor seinem Lachen,
Wie der Hammer hart und rüde.

Hell versprühn im Raum die Funken
Und mit hilfloser Geberde
Hascht sie nach den wilden Funken
Und sie stürzt betäubt zur Erde.

5

Schmächtig hingestreckt im Bette
Wacht sie auf voll süßem Bangen
Und sie sieht ihr schmutzig Bette
Ganz von goldnem Licht verhangen,

Die Reseden dort am Fenster
Und den bläulich hellen Himmel.
Manchmal trägt der Wind ans Fenster
Einer Glocke zag Gebimmel.

Schatten gleiten übers Kissen,
Langsam schlagt die Mittagsstunde
Und sie atmet schwer im Kissen
Und ihr Mund gleicht einer Wunde.

6

Abends schweben blutige Linnen,
Wolken über stummen Wäldern,
Die gehüllt in schwarze Linnen.
Spatzen lärmen auf den Feldern.

Und sie liegt ganz weiß im Dunkel.
Unterm Dach verhaucht ein Girren.
Wie ein Aas in Busch und Dunkel
Fliegen ihren Mund umschwirren.

Traumhaft klingt im braunen Weiler
Nach ein Klang von Tanz und Geigen,
Schwebt ihr Antlitz durch den Weiler,
Weht ihr Haar in kahlen Zweigen.

Một bản tiếng Anh:

The Young Maid

(Dedicated to Ludwig von Ficker)

1

Often at the well when it dawns
One sees her standing spellbound
Scooping water when it dawns.
Buckets go up and down.

In the beeches jackdaws flutter
And she resembles a shadow.
Her yellow hair flutters
And rats scream in the yard.

And enticed by decay
She lowers her inflamed eyelids.
Parched grass in decay
Bends down to her feet.

2

Silently she works in the chamber
And the yard lies long desolate.
In the elder trees by the chamber
A blackbird flutes pitifully.

Silverly her image in the mirror
Looks at her strangely in the twilight-glow
And dusks sickly in the mirror
And she shudders before its purity.

Dreamlike a farm boy sings in the dark
And she stares shaken with pain.
Redness trickles through the dark.
Suddenly at the gate the south wind shakes.

3

Nightly over the bare meadow
She totters in feverish dreams.
A morose wind whines in the meadow
And the moon listens from the trees.

Soon all around the stars pale
And exhausted from complaints
Her waxen cheeks pale.
Putrefaction is scented from the earth.

Sadly the reeds rustle by the pond
And cowering she freezes.
Far away a cock crows. Above the pond
Morning shivers hard and grey.

4

In the smithy clangs the hammer
And she scurries past the gate.
In red glow the farm boy swings the hammer
And deathlike she looks over there.

As in dream she’s struck by his laughter;
And she tumbles into the smithy,
Shyly cringing before his laughter,
Like the hammer hard and coarse.

Brightly in the room sparks
Spray and with helpless gestures
She snatches after the wild sparks
And falls dazed to the earth.

5

Lankily sprawled out on the bed
She wakes filled with sweet tremblings
And she sees her soiled bed
Hidden by a golden light,

Mignonettes there at the window
And the bluish brightness of sky.
Sometimes the wind carries to the window
A bell’s hesitant tinkling.

Shadows glide over the pillow,
Noon strikes slowly
And she breathes heavily on the pillow
And her mouth is like a wound.

6

In the evening bloody linens float,
Clouds over silent forests,
That are wrapped in black linens.
Sparrows fuss in the fields.

And she lies completely white in darkness.
Under the roof a cooing wafts away.
Like a carrion in bush and darkness
Flies swirl around her mouth.

Dreamlike in the brown hamlet
A sound of dance and fiddles echoes,
Floats her countenance through the hamlet,
Blows her hair in bare branches.

Jim Doss và Werner Schmitt dịch.

Những con chuột

Trên sân dọi vầng trăng thu trắng.
Gờ mái nhà hắt ma mị bóng đen.
Một sự lặng câm ngụ trong ô cửa vắng,
Trên đó lẹ làng bầy chuột cống trồi lên

Lao thoăn thoắt chúng rít lên đây đó
Và một làn hơi xám thoảng qua
Hơi hám chúng từ nơi nhà tiểu,
Rung ánh trăng lay lắt như ma

Và chí chóe như điên vì thèm khát
Chúng tụ đầy nhà và kho chứa rạ rơm
Đầy lúa mạch và những trái quả.
Làn gió băng thút thít trong đêm.

Die Ratten

In Hof scheint weiß der herbstliche Mond.
Vom Dachrand fallen phantastische Schatten.
Ein Schweigen in leeren Fenstern wohnt;
Da tauchen leise herauf die Ratten

Und huschen pfeifend hier und dort
Und ein gräulicher Dunsthauch wittert
Ihnen nach aus dem Abort,
Den geisterhaft der Mondschein durchzittert

Und sie keifen vor Gier wie toll
Und erfüllen Haus und Scheunen,
Die von Korn und Früchten voll.
Eisige Winde im Dunkel greinen.

Một bản tiếng Anh:

The Rats

In the courtyard the autumn moon shines white.
From the roof edge phantom-like shadows fall.
A silence dwells in empty windows;
There the rats plunge quietly up

And shoo whistling here and there
And a grayish whiff of vapor smells
After them from the toilet,
Through which the moonlight trembles ghostly

And they nag as if mad from greed
And crowd house and barns,
Filled with corn and fruits.
Icy winds whine in the darkness.

Jim Doss và Werner Schmitt dịch.

Gửi những người câm tiếng

Ôi cơn điên của thành phố lớn, bởi đêm tối
Những cây quặt què sững lại bức tường đen,
Ác thần ngó nhìn từ chiếc mặt nạ bạc
Với ngọn roi nam châm ánh sáng xô lấn đêm hóa đá.
Ôi, âm vang chìm đắm của những quả chuông chiều.

Cô gái điếm trong những cơn rùng mình giá buốt sinh hạ một đứa trẻ đã chết.
Cơn thịnh nộ của Thượng đế tới tấp quất lên trán những người nhập đồng,
Bệnh dịch đỏ tía, đói khát, đập vỡ vụn những con mắt xanh lục.
Ôi, tiếng cười ghê rợn của vàng kim.

Nhưng lặng lẽ trong một hang tối rỏ máu một nhân loại câm nín hơn,
Từ những kim khí cứng quần tụ thành cái đầu giải thoát.

Nguyên tác tiếng Đức

An die Verstummten

O, der Wahnsinn der großen Stadt, da am Abend
An schwarzer Mauer verkrüppelte Bäume starren,
Aus silberner Maske der Geist des Bösen schaut;
Licht mit magnetischer Geißel die steinerne Nacht verdrängt.
O, das versunkene Läuten der Abendglocken.

Hure, die in eisigen Schauern ein totes Kindlein gebärt.
Rasend peitscht Gottes Zorn die Stirne des Besessenen,
Purpurne Seuche, Hunger, der grüne Augen zerbricht.
O, das gräßliche Lachen des Golds.

Aber stille blutet in dunkler Höhle stummere Menschheit,
Fügt aus harten Metallen das erlösende Haupt.

Dọc theo

Lúa mạch và đồng nho đã gặt
Xóm nhỏ trong yên tĩnh, thu không.
Búa và đe vang lên hối hả
Tiếng cười vang dưới tán tím hồng.

Hãy mang tới bé em đồ trắng
Cúc cánh mối từ hàng dậu đen.
Hãy nói, từ bao lâu ta chết
Mặt trời cam đen tối hiện lên.

Trong ao, con cá nhỏ màu đỏ
Dô trán lo sợ lắng nghe xem.
Gió đêm lặng rì rào cửa sổ
Đàn organ rền rĩ màu lam.

Sao trời và lửa tia lẩn quất
Lại một lần trông thấy trên cao.
Mẹ hiện trong u ám, đớn đau;
Cỏ mộc tê đen trong tăm tối.

Nguyên tác tiếng Đức:

Entlang

Geschnitten sind Korn und Traube,
Der Weiler in Herbst und Ruh.
Hammer und Amboß klingt immerzu,
Lachen in purpurner Laube.

Astern von dunklen Zäunen
Bring dem weißen Kind.
Sag wie lang wir gestorben sind;
Sonne will schwarz erscheinen.

Rotes Fischlein im Weiher;
Stirn, die sich fürchtig belauscht;
Abendwind leise ans Fenster rauscht,
Blaues Orgelgeleier.

Stern und heimlich Gefunkel
Läßt noch einmal aufschaun.
Erscheinung der Mutter in Schmerz und Graun;
Schwarze Reseden im Dunkel.

Trên quê hương

Hương cỏ mộc tê lạc qua cửa sổ người ốm
Một chốn cũ. Những cây dẻ thơm đen đúa và rối bù.
Qua mái nhà một tia ánh vàng soi, và chảy
Vào em gái bối rối và mộng mơ.

Tàn rữa dập dờn trong ánh sáng tẩy rửa; gió núi
Êm nhẹ lạc trong vườn nâu; và hướng dương
Rất lặng lẽ nhấm nháp vàng kim
Và tan chảy. Tiếng gọi gác lanh lảnh vọng qua không khí biếc.

Hương mộc tê. Tường thành nhập nhoạng vẻ trơ trụi
Giấc ngủ em gái nặng nề. Làn gió đêm
Xoáy bù tóc em, được ánh sáng trăng vờn xối.

Từ mái nhà mục nát bóng con mèo trượt vội
Rỏ vệt mảnh màu xanh lam, và nỗi bất an gần đó bao quanh,
Ngọn lửa nến, oằn lên màu đỏ tím.

Nguyên tác tiếng Đức:

In der Heimat

Resedenduft durchs kranke Fenster irrt;
Ein alter Platz, Kastanien schwarz und wüst.
Das Dach durchbricht ein goldener Strahl und fließt
Auf die Geschwister traumhaft und verwirrt.

Im Spülicht treibt Verfallnes, leise girrt
Der Föhn im braunen Gärtchen; sehr still genießt
Ihr Gold die Sonnenblume und zerfließt.
Durch blaue Luft der Ruf der Wache klirrt.

Resedenduft. Die Mauern dämmern kahl.
Der Schwester Schlaf ist schwer. Der Nachtwind wühlt
In ihrem Haar, das mondner Glanz umspült.

Der Katze Schatten gleitet blau und schmal
Vom morschen Dach, das nahes Unheil säumt,
Die Kerzenflamme, die sich purpurn bäumt.

Một bản tiếng Anh:

In the Homeland

Mignonette-scent strays through the sick window;
An old plaza, chestnuts black and wasted.
A golden ray breaks through the roof and flows
Over the siblings dreamlike and confused.

In the dishwater decay drifts, the foehn
Quietly coos through the small brown garden; very still
The sunflower savors its gold and flows away.
Through blue air the call of the guard rattles.

Mignonette-scent. The walls dusk bleakly.
The sister’s sleep is heavy. The night wind rummages
Her hair, that is washed around by moony brilliance.

The cat’s shadow glides blue and narrow
From the rotten roof that borders near mischief,
The candle flame, which rears up purple.

Những người Di gan

Niềm khao khát cháy trong ánh mắt đêm của họ
Hướng quê hương xưa, chẳng tìm thấy bao giờ.
Thôi thúc họ một số mệnh bất hạnh,
Chỉ u trầm mới tường tận nguyên do.

Đường họ đi, phía trước mây vần vũ,
Một đàn chim di thích hộ tống, đôi khi,
Tới ban chiều, dấu vết chúng biến đi
Và đôi khi gió mang chuông cầu phước.

Vào nỗi cô đơn sao trời nơi lán trại,
Khúc hát họ dồn nỗi nhớ nhung thêm
Và nức nở bởi truyền kiếp đau thương và rủa nguyền,
Những ngôi sao vô vọng êm đềm chiếu sáng.

Nguyên tác tiếng Đức:

Zigeuner

Die Sehnsucht glüht in ihrem nächtigen Blick
Nach jener Heimat, die sie niemals finden.
So treibt sie ein unseliges Geschick,
Das nur Melancholie mag ganz ergründen.

Die Wolken wandeln ihren Wegen vor,
Ein Vogelzug mag manchmal sie geleiten,
Bis er am Abend ihre Spur verlor,
Und manchmal trägt der Wind ein Aveläuten

In ihres Lagers Sterneneinsamkeit,
Daß sehnsuchtsvoller ihre Lieder schwellen
Und schluchzen von ererbtem Fluch und Leid,
Das keiner Hoffnung Sterne sanft erhellen.

Một bản tiếng Anh:

Gipsy

The longing flames in their nightly glance
Toward that homeland they never find.
So they drift in an unfortunate fate,
That only melancholy may fathom completely.

The clouds lead their ways,
A migration of birds may sometimes escort them,
Until it loses their track in the evening,
And the wind sometimes carries an Ave of bells

In their camp’s star-loneliness,
So that their songs swell more longing
And sob from inherited curse and suffering,
That no stars of hope softly illuminate.

Than van

Giấc ngủ và cái chết, những con ó ảm đạm
Suốt đêm dài vù vù bay quanh cỗ sọ này:
Hình ảnh vàng kim của con người
Nuốt đi con sóng giá băng
Của vĩnh cửu. Đập vào những tảng đá ngầm rùng rợn
Xác thân đỏ tía vỡ tan
Và giọng nói tăm tối than van
Trên biển cả.
Người em gái của đau buồn bão tố
Hãy trông một con thuyền cô đơn chìm xuống
Dưới các vì sao,
Khuôn mặt câm nín của đêm.

Nguyên tác tiếng Đức:

Klage

Schlaf und Tod, die düstern Adler
Umrauschen nachtlang dieses Haupt:
Des Menschen goldnes Bildnis
Verschlänge die eisige Woge
Der Ewigkeit. An schaurigen Riffen
Zerschellt der purpurne Leib
Und es klagt die dunkle Stimme
Über dem Meer.
Schwester stürmischer Schwermut
Sieh ein einsamer Kahn versinkt
Unter Sternen,
Dem schweigenden Antlitz der Nacht.

Một bản tiếng Anh:

Lament

Sleep and death, the dusky eagles
Around this head swoop all night long;
Eternity’s icy wave
Would swallow the golden image
Of man; against horrible reefs
His purple body is shattered.
And the dark voice laments
Over the sea.
Sister of stormy sadness,
Look a timid dinghy goes down
Under stars,
The silent face of the night.
Chú thích của người dịch:

Image result for georg trakl
 
Georg Trakl (1887-1914): Người Áo, nhà thơ nổi tiếng của Chủ nghĩa Biểu hiện Đức, chịu ảnh hưởng của chủ nghĩa Tượng trưng, cùng với Rainer Maria Rilke được coi là nhà thơ viết bằng tiếng Đức xuất sắc nhất đầu thế kỷ 20.
Toàn bộ thi phẩm của ông mang dấu ấn của hoài cảm, u sầu và hướng tìm Thiên Chúa. Có thể kể Cái chết, Suy đồi và sự Suy tàn của Tây Phương như những hàm ý chính ở thơ trữ tình sâu xa của Georg Trakl đầy những biểu tượng và ẩn dụ.
“Hồ như không thể định vị tác phẩm thơ của ông một cách rõ rệt theo lịch sử văn học nội trong văn chương của thế kỷ 20“ (Wikipedia)
Đôi nét tiểu sử: Georg Trakl, con thứ năm trong gia đình tư sản khá giả có bảy con. Cha có cửa hàng khóa, mẹ khó tính với các con, nghiện ma túy. Georg Trakl trải qua thời niên thiếu tại Salzburg* 1897–1905. Học xong trung học, được coi là học trò kém (ở các môn tiếng Latinh, Hy Lạp và Toán), không đỗ tú tài * 1908 Qua kỳ Thực tập, để nghiên cứu 4 học kỳ ngành dược* 1910 Học xong bằng y sĩ * Khi thế chiến I bùng nổ, ông tham gia mặt trận với chức vụ y sĩ quân đội. * Ngày thêm trầm cảm, trải qua trận đánh vùng Grodek ông bị suy sụp thần kinh. *1914 Chết (tự sát) trong một nhà thương quân đội ở Krakow sau khi dùng cocaine quá liều.

Comments are closed.