Nguyễn Thị Kim Thoa
Người mặc áo dài xin được nói về áo dài
Năm nay tôi đã quá cái tuổi mà các đấng mày râu theo truyền thống Khổng Mạnh tự cho rằng mình đã biết mệnh trời. Ngày xưa người phụ nữ không bao giờ được biết mệnh trời, đơn giản vì phụ nữ dù tuổi tác có cao cũng không thể tri thiên mệnh: “Thập nữ viết vô” mà. Khổng Mạnh đã nói như thế từ mấy ngàn năm rồi còn gì!
Thế, tuy nhiên, bởi vì tôi là phụ nữ, lại là phụ nữ Huế, nên tôi có thể góp vài suy nghĩ về chiếc áo dài của phụ nữ chúng tôi: “Áo dài Việt Nam” – Cái áo một thời góp phần làm nên bản sắc của cố đô, cái áo mà rất nhiều người, nhất là những vị có thẩm quyền về văn hóa mỹ thuật đều thừa nhận là một thành tựu thẩm mỹ không phải là của một địa phương và cũng không phải là sản phẩm của một thời vang bóng. Chiếc áo dài đã đi vào thi ca, văn học, nghệ thuật và lịch sử dân tộc.
Tôi hoàn toàn nhất trí với những ai ca ngợi chiếc áo dài. Đôi khi những lời ca ngợi ấy cánh phụ nữ chúng tôi xem như là được nhắm vào mình và lấy làm hãnh diện. Đã có một thời mà nhiều chị em chúng tôi tự ngắm nhìn mình qua gương mỗi khi mặc áo dài. Ngay cả lúc này đây ở cái tuổi mà nhiều người gọi bằng bà chẳng những ở những nơi giao tiếp mà ngay tại nhà mình bởi các cháu nội, cháu ngoại, tôi lấy làm tiếc là không còn hoàn cảnh, điều kiện may mặc áo dài để tự làm đẹp mình, làm đẹp phố phường. Mỗi năm tôi chỉ được mặc áo dài đôi ba bận, trong các dịp lễ lạc, tết nhất. Và không phải mình tôi mà nhiều phụ nữ Huế khác cũng đã “kính nhi viễn chi” chiếc áo dài đẹp nhất của mình để mặc các y phục khác thích hợp hơn.
Trước khi trả lời câu hỏi này, tôi xin ghi lại những kinh nghiệm áo xống của mình và sau đó xin có ý kiến về chiếc áo dài và việc ăn mặc của những người phụ nữ quanh tôi.
Hồi còn là học sinh tiểu học, tôi đi đến trường trong những chiếc áo đầm màu hoặc áo đầm có họa tiết hoa văn. Thời tiểu học của chúng tôi không có đồng phục. Tùy hoàn cảnh của mỗi gia đình mà cha mẹ cho con ăn mặc đến trường theo điều kiện mình có, miễn là tươm tất, sạch sẽ. Con nhà trung lưu thường mặc áo đầm, con nhà nông thôn thường mặc quần dài đen áo màu đậm (áo may kiểu gài nút giữa, cổ kiền hay cổ cánh sen, tay dài). Với trang phục như vậy chúng tôi chơi đùa, chạy nhảy, nghịch phá thoải mái. Là con gái, chúng tôi cũng leo trèo, chui lỗ chó hàng rào không kém lũ con trai. Hoàn toàn chúng tôi không thấy có sự cách biệt giữa hai lối trang phục.
Khi vào trung học đệ nhất cấp (lớp 6 đến lớp 9 bây giờ) đồng phục của chúng tôi là áo đầm trắng hoặc áo dài trắng tùy sự lựa chọn của gia đình. Phần đông những đứa nhỏ con, chưa nẩy nở đầy đủ cha mẹ thường cho mặc áo đầm trắng, “các chị” lớn hơn một tí, đã có ít nhiều đường cong thì chọn áo dài trắng. Các bộ đồng phục này theo chúng tôi suốt sáu ngày trong tuần.
Lên cấp ba trung học, thời đó là đệ tam, đệ nhị, đệ nhất (bây giờ là lớp mười, mười một và mười hai), chúng tôi bắt buộc đồng phục áo dài trắng. Việc thay đổi trang phục góp phần thay đổi tính cách của tôi. Bạn bè tôi cũng có sự thay đổi tương tự, tuy mỗi đứa có mức độ khác nhau.
Những ngày đầu mặc bộ đồng phục này chúng tôi cảm thấy không thoải mái tí nào. Từng bước đi, dáng đứng chúng tôi phải giữ gìn, thận trọng, dịu dàng, khoan thai, nếu không thì bộ đồng phục sẽ nhàu bẩn khó coi. Vào mùa mưa – mà mưa ở Huế thì thúi đất – áo dài nữ sinh là một khổ nạn đối với chúng tôi. Vì dù có mặc áo mưa đi nữa, dù ống quần đã xăng lên tận gối, vạt áo có nhét vào tận lưng nó vẫn bị ướt sũng.
Mặc áo dài trong mùa mưa xứ Huế còn khốn khó hơn đối với những cô gái con nhà nghèo ở vùng ven. Chỉ được cha mẹ may cho một bộ đồng phục duy nhất, các cô phải tự xoay xở thế nào đó để ngày hôm sau đến trường khỏi bị phạt kỷ luật vì không mặc đồng phục, mặc dù trời cứ mưa gió, đường cứ lầy lội.
Những ngày mùa đông mưa lê thế ấy, mỗi đêm cái bàn ủi than con gà bằng đồng đã giúp chúng tôi ủi khô bộ đồng phục áo dài phin nõn, quần vải xa xị trắng duy nhất để sáng mai đến trường.
Thu Sa, Thu Sương và tôi nhà ở bên kia Đập Đá, những ngày mưa lụt, đập tràn, đi học chúng tôi phải lội nước và khi nước dâng cao phải đi đò. Lội nước lụt hay đi đò với chiếc áo dài quả là một điều bất tiện và khổ ải. Do sáng kiến của Thu Sương, bọn tôi chỉ may hai tấm vải làm hai vạt áo, hai vạt áo này được xếp bỏ vào trong cặp, quần dài vo lên tận gối. Đến trường, tại nhà để xe, chúng tôi lấy hai vạt áo đó ra, dùng kim băng găm vào áo cánh lót. Bên ngoài đã có áo len phủ kín nên trông vẫn giống như hai vạt áo dài. Với cách thức đó chúng tôi luôn có “áo dài” khô ráo khi vào lớp. “Mốt áo dài Thu Sương” theo ba chúng tôi trong những ngày mưa lụt của thời cấp ba trung học Đồng Khánh.
Tuy vậy riết rồi cũng quen. Sự chịu đựng đã trở thành bản chất thứ hai của phụ nữ Huế chúng tôi. Sự lúng túng, khó chịu ban đầu ngày một bớt đi và lần hồi chiếc áo dài đã gắn bó tưởng chừng không bao giờ tách rời cuộc sống thường ngày.
Khi bước chân vào giảng đường đại học, ngoài chiếc áo dài trắng thời trung học, các nữ sinh viên còn có thêm những chiếc áo dài màu, áo dài hoa. Chiếc áo dài trắng đồng phục nhiều năm không có gì thay đổi lắm, nhưng những chiếc áo dài màu thì có nhiều mẫu mã, dài ngắn, rộng hẹp, có cổ không cổ, cổ cao cổ thấp, đường nét biến động không ngừng. Những biến tấu, những đổi thay, những điểm tô chứng tỏ khát vọng làm đẹp của chúng tôi. Nhiều lúc chúng tôi tự hỏi phải chăng chính cơ thể phụ nữ Việt Nam đã làm đẹp chiếc áo dài hay chiếc áo dài đã góp phần tôn tạo nhan sắc cho phụ nữ Việt Nam? Và phải chăng chiếc áo dài chỉ dành riêng cho người phụ nữ Việt Nam chứ không cho phụ nữ của bất cứ dân tộc nào?
Thời học đại học, những suy nghĩ của tôi về y phục đã thay đổi. Tôi vẫn thấy vẫn cảm nhận vẻ đẹp, vẻ gợi cảm và tính chất tân kỳ của chiếc áo dài. Tuy nhiên nếu phụ nữ chúng tôi chỉ mặc những chiếc áo dài đó để đi bất cứ đâu, làm bất cứ việc gì, ở bất cứ điều kiện khí hậu thời tiết nào là một vấn đề cần được xem xét lại. Việc chọn ngành, chọn trường học đã ảnh hưởng đến quyết định thay đổi y phục của chúng tôi. Lúc bây giờ các nữ sinh viên Sư phạm, Văn khoa, Luật khoa vẫn hay đến giảng đường với áo dài bay bướm. Còn sinh viên các trường Y khoa, Khoa học, Bách khoa, Nông lâm thì tùy lúc tùy nơi để thay đổi y phục của mình. Những giờ lý thuyết lên lớp thì có thể mặc áo dài, nhưng những buổi thực tập ở phòng thí nghiêm, bênh viện, cơ xưởng thì phải đành “nhịn” áo dài và bắt đầu mặc quần tây – áo sơ mi hay mặc váy với sơ mi. Việc đổi mới chẳng đặng đừng này ban đầu khá khó chịu, ngỡ ngàng đối với tôi và một số chị em khác. Tuy vậy chúng tôi không thể làm gì hơn bởi vì chúng tôi đã gặp khá nhiều phiền toái, trở ngại, bất tiện khi mặc áo dài vào phòng thí nghiệm, bệnh viện…, và nhất là khi chúng tôi phải chạy tất bật hết nơi này, nơi kia theo yêu cầu giờ giấc, điều kiện kỷ luật học tập và lao động. Dù muốn hay không chúng tôi phải chọn cho mình những loại y phục khác thích hợp hơn. Đối với tôi: sơ mi – quần tây vừa tiện dụng, vừa rẻ tiền lại vừa phải chăng về mặt tâm lý cá nhân, gia đình và xã hội bấy giờ. Nhiều nữ sinh viên khác bạo hơn thì mặc váy và sơ mi. Các tập quán cũ của thành phố nổi tiếng nệ cổ, nề nếp đã bị phá vỡ và lần hồi chúng tôi đi đến nhận thức rằng có hàng trăm loài hoa đua nở vẫn thích hơn chỉ có một loài duy nhất, dù là hoa Hướng Dương trong khu vườn y phục.
Những người phụ nữ tùy theo hoàn cảnh sinh hoạt, học tập, lao động hay vui chơi mà thay đổi y phục cho hợp lý, hợp tình thì vẫn hay hơn, đẹp hơn.
Thế là trong tủ áo quần đã có một hội tụ mà chỉ vài ba năm trước đó thôi chính tôi cũng không thể hình dung được. Bên cạnh những chiếc áo dài lại có thêm nhiều chủng loài y phục khác. Các loại y phục này đã thuyết phục tôi bởi các tính năng ưu việt của chúng.
Thực tế của cuộc sống sinh động và phong phú là người tạo mốt thông minh và biết điều. Sau 1975 chúng tôi tự động giả từ chiếc áo dài hoặc cải tạo nó. Dài biến thành ngắn, lớn thu thành nhỏ, cũ hóa ra mới và đôi khi lụa là của mẹ đổi thành thuốc men, sách vở cho con. Tồn tại là vấn đề mấu chốt của cuộc sống và đôi lúc chúng tôi đã quên đi cái đẹp. Thời gian này, người phụ nữ tham gia vào đời sống xã hội sâu rộng hơn, sau khi rời giảng đường, phòng thí nghiệm, bệnh viện, nhà máy, cơ quan chúng tôi còn phải chợ búa hay lao động chân tay tại một nơi nào đó để tăng thêm thu nhập. Và tất nhiên sơ mi – quần tây tiện dụng hơn áo dài. Hơn nữa, trong bối cảnh mà ở đâu cuộc sống của bà con cũng khó khăn cực nhọc thì sự ăn diện chải chuốt là một hành động lố lăng, thiếu thẩm mỹ không thể chấp nhận được. Trong số bạn bè chị em tôi, không ít người đã tạo cho mình nét duyên dáng, mặn mà, khỏe mạnh khi mặc áo sơ mi kaki.
Trong thập niên 1975 – 1985, câu chuyện thời trang áo xống không còn là vấn đề để bàn cải nữa. Kinh tế thời bao cấp, chúng tôi có cái gì mặc cái đó. Áo dài đã được sửa thành áo cụt hay áo cho trẻ con. Ở thành phố lớn phụ nữ còn mặc quần tây áo sơ mi, nhưng ở các thành phố nhỏ hay ở nông thôn phụ nữ đã đổi sang mặc quần đen áo sơ mi hay áo may cổ kiền hoặc cổ cánh sen, đôi khi là áo bà ba. Thành phố Huế cổ kính vắng bóng chiếc áo dài.
Tôi có hai kỷ niệm khó quên trong thời kỳ này.
Năm 1977, cậu tôi, kiều bào tại Pháp ra đi từ những năm “lính thợ” (lời của cậu). Về thăm quê hương, nơi viếng thăm đầu tiên của cậu là thành phố Huế. Nơi mà: ngày xưa “Học trò trong Quảng ra thi – thấy cô gái Huế chân đi không rời”. Lang thang hai ba ngày trên các nẻo đường cố đô để tìm lại hình ảnh chiếc áo dài tím năm
nào, nhưng chẳng thấy. Về hỏi đứa cháu gái:
– Thưa cậu, trước kia thì có, bây giờ thì không?
– Chắc cậu cũng biết tại sao rồi.
– Cháu còn giữ chiếc áo dài nào không?
– Cháu mặc cho cậu chụp vài tấm ảnh để khi về lại Pháp cậu còn cái để nhớ về Huế.
Thế là tôi mặc chiếc áo dài đẹp nhất còn lại của mình theo cậu trên các con đường chính của Huế để chụp ảnh dưới ánh mắt tò mò, xoi mói, bình phẩm của nhiều người qua đường.
Một kỷ niệm đáng nhớ khác về áo dài: hình như vào năm 1977 hay 1978 gì đó, trong dịp đi ăn cưới họa sĩ Bửu Chỉ, nhà tôi cách nhà họa sĩ Bửu Chỉ chừng 500 mét, tôi thả bộ cùng anh Chu Sơn trên con đường làng cùng chiếc áo dài ưng ý nhất của mình.
Trên đường về, gặp một người đàn ông trung niên tay cầm máy ảnh, gặp chúng tôi anh rất vui mừng và tự giới thiệu: anh là kiều bào tại Canada xa quê từ năm 1963, nay đất nước thống nhất anh về thăm nhà, đi tìm lại bóng dáng chiếc áo dài xưa, nhưng chẳng thấy một hình ảnh nào. Anh ngỏ ý xin chụp một tấm ảnh chiếc áo dài mà tôi đang mặc. Cuộc gặp gỡ xảy ra trước cổng nhà tôi, chúng tôi mời anh vào nhà chơi và chụp ảnh cho tự nhiên. Anh chụp đôi ba tấm rồi ngồi hát nhỏ một mình:
“Một chiều lang thang bên giòng Hương giang tôi gặp một tà áo tím… rồi chợt nghe tin qua lời gió nhắn, người áo tím qua cầu và áo tím phai màu…”
Rất tiếc tôi không còn chiếc áo dài tím nào để thỏa mãn nỗi nhớ của cả hai người. Màu áo tím đã phai rồi…
Vào những năm 1986 khi bắt đầu đổi mới, thấp thoáng đâu đó những chiếc áo dài trở lại trên đường phố Huế và nhất là khi ông giám đốc sở giáo dục Thừa Thiên Huế Lê Phước Thúy ra quy định: cô giáo lên bục giảng phải mặc áo dài, chiếc áo dài lại có cơ hội tung bay trên những nẻo đường cố đô.
Vai trò của y phục không những để che thân, để bảo vệ cơ thể, để tôn tạo vẻ đẹp, để khoe các đường nét, những dáng vẻ duyên dáng, yêu kiều, hấp dẫn của những cơ thể trời cho mà còn để khắc phục, để hạn chế, để che lấp những khiếm khuyết, nhược điểm nơi những cơ thể ít may mắn hơn. Cũng như bản thân các chủ nhân thân thiết của mình, mỗi loại y phục đều có điểm yếu, điểm mạnh khác nhau. Bộ áo dài kỳ diệu của phụ nữ Việt Nam cũng không một là ngoại lệ.
Áo dài Việt Nam chỉ phù hợp với những cơ thể nẩy nở đều đặn, không to mập quá cũng không gầy ốm quá và dáng đi thì nhẹ nhàng, uyền chuyển khoan thai. Áo dài Việt Nam hoàn toàn bất lợi trước những phụ nữ to cao, vai rộng, dáng đi nặng nề, thô cứng cũng như những cơ thể xương xẩu, gầy lép, cử chỉ tất bật vội vàng, dù có cải tân, biến tấu bao nhiêu cũng chỉ giảm đi đôi phần chứ không hoàn toàn thích hợp bằng các trang phục khác.
Với các nữ sinh trước tuổi dậy thì, áo dài hạn chế các hoạt động vui chơi, hồn nhiên. Và cũng thật bất tiện cho các cô học trò khi cần vào phòng vệ sinh, nhất là khi hệ thống vệ sinh công cộng ở các trường trung học hiện nay chưa đáp ứng được cả về chất lượng và số lượng. Không ít các em nữ sinh mắc chứng rối loạn tiểu tiện do sợ phải vào phòng vệ sinh của trường, và có em đã phải chịu nhịn khát không dám uống nước trước khi vào lớp. Theo tôi áo dài tà rộng, dài lượt bượt hiện nay hoàn toàn không thích hợp cho học sinh trung học. Được ngắm nhìn một đàn cò trắng tung bay vào giờ tan trường đẹp thật, lãng mạn thật, nên thơ thật. Những ai đã gắn bó với chiếc áo dài với hai mùa mưa nắng cũng sẽ có cùng một cảm nhận chung là rất bất tiện, mặc dù họ rất hãnh diện và vui sướng khi người khác phái ngắm nhìn đắm đuối…Nên chăng có một kiểu áo dài riêng phù hợp cho lứa tuổi này cả về mẫu mã và chất liệu?
Ở những nơi, những thời điểm có thời tiết khí hậu khắc nghiệt không nên mặc áo dài. Thật là thiếu lịch sự khi có ai đó mặc áo dài mà mồ hôi nhễ nhại dính lưng, dính bụng. Những chiếc áo ngự hàn cũng che lấp hết các tính năng ưu việt của nó.
Trước 1975, báo chí ở Sài Gòn mỗi lần viết về Huế cổ kính, thanh lịch không bao giờ quên những tà áo dài. Thậm chí họ còn ca tụng những phụ nữ ở vùng ven mỗi lần gánh hàng rong vào thành phố bán cũng mặc áo dài, chèo thuyền trên sông cũng mặc áo dài. Tôi hoàn toàn không đồng tình với những lời khen ngợi ấy. Bởi những ngưới đó do điều kiện công việc gánh gồng nặng nhọc họ phải quần xăng áo bo để làm, như thế chiếc áo dài còn gì vẻ đẹp và bản thân người lao động chẳng thấy thoải mái, thiếu vệ sinh, không tạo cho mình một vẽ đẹp và cũng không đóng góp được một hình ảnh dể coi cho phố phường.
Một đôi khi xem lại những tấm hình của các thế hệ phụ nữ mẹ chị trước đây, vào những thập niên 60 với chiếc áo dài bó sát eo, dài lê thê phết gót tôi có cảm nhận rằng: đẹp thì có đẹp, nhưng mặc như thế làm sao thở một hơi dài thoải mái được, chỉ cần thở mạnh một tí cũng đã làm bung cúc áo rồi. Cái đức tính thứ hai chịu khó ấy quả là đáng khâm phục.
Cảm nhận cái đẹp, vận dụng các phương tiện vật chất để làm đẹp trong ăn mặc, trang điểm là những khả năng hoàn toàn có tính tương đối. Cùng một kiểu áo, người này mặc trông bắt mắt ưa nhìn, người kia lại thất bại. Không có một mẫu, một mốt nào dành cho tất cả mọi người, tất cả mọi hoàn cảnh, mọi thời điểm và mọi thay đổi của thời tiết, khí hậu.
Ngày nay chiếc áo dài đã biến tấu, cách điệu với rất nhiều mẫu mã, nhiều chất liệu, người phụ nữ có nhiều cách để chọn cho mình một chiếc áo dài ưa thích. Hằng năm lễ lạc, hội hè không bao giờ vắng bóng các nhà tạo mẫu với những Đêm áo dài, Ngày áo dài. Áo dài với Cố đô. Áo dài với Phố Hội … Những dịp đó giúp cho cánh phụ nữ có nhiều cơ hội lựa chọn cho mình chiếc áo dài thích hợp để tự làm đẹp mình, góp phần làm đẹp phố phường, làm đẹp đất nước non sông.
Bản thân chiếc áo dài cũng rất cần đổi mới. Và đổi mới không dừng lại ở chiếc áo dài. Chảy đi sông ơi.
Vài hình ảnh mặc áo dài của tôi
Áo dài những năm 2000
Có một màu tím Huế
Cũng như áo dài, Huế không độc quyền sở hữu màu tím. Huế cũng không phải là địa phương duy nhất có một trường con gái một thời nổi tiếng với đồng phục màu tím được xây dựng từ năm 1917. Trước trường Đồng Khánh 2 năm, năm 1915, ở Sài Gòn đã có một trường con gái dành cho người Việt (Collège Des Jeunes Filles Indigènes) còn nổi tiếng hơn, nổi tiếng đến độ dân Sài Gòn quên cái tên dài dòng do người Pháp đặt, họ thân thương trìu mến, gọi trường con gái của họ học là trường Nữ Sinh Áo Tím. Màu áo tím tượng trưng cho sự đoan trang, kín đáo, khiêm nhường. Nhận định dân gian Nam Kỳ là như thế.
Một họa sĩ người Huế, Phạm Đăng Trí, phân tích có tính chất học thuật sâu sắc, bóng bẩy, tinh tế hơn: “Đối với màu tím, phụ nữ Huế quan niệm đó là một sắc trang nhã. Trông không buồn mà dường như mỉm cười, không quá nồng nàn như bông lài mà thoang thoảng như hương lan thanh đạm và tế nhị. Vì vậy đàn bà con gái hay mặc màu tím… Và nữ sinh thường chọn màu này làm đồng phục…Tím là sắc lạnh, là sắc thuộc âm, nằm dưới cùng trong quang phổ, phát ra bước sóng ngắn và sức sáng nhẹ nhàng…” (khamphahue.com).
Có lẽ họa sĩ Phạm Đăng Trí đưa những nhận định này khi đã vào tuổi trung niên và đang ở trong thư phòng. Màu tím và áo dài của người phụ nữ cho dù là nữ sinh đối với ông cũng chỉ là đối tượng của trí tuệ, phân tích và trầm tư. Không có những xúc động, xao xuyến của những người thanh niên trai trẻ như nhạc sĩ Hoàng Nguyên: “Một chiều lang thang bên dòng Hương giang tôi gặp một tà áo tím… Màu áo tím sao luyến thương, màu áo tím sao vấn vương…”. Hoàng Nguyên là một nghệ sĩ đấu tranh, ông xao xuyến trước cái đẹp trong những khoảnh khắc mà tâm trí ông nhất thời quên đi những nhiệm vụ mà ông cho là cao đẹp hơn.
Màu tím, đặc biệt là “Màu tím Huế” đối với một thi sĩ chính danh như Nguyễn Bính lại là một thế giới thương đau, cách biệt, chia lìa.
Sau chuyến vào Huế, khi trở lại Hà Nội, Nguyễn Bính cảm thấy đời mình bị bao phủ bởi màu tím. Không gian, thời gian, cảnh vật và cả sự vật đều nhuốm một màu tím: “Tim tím rừng chiều, tim tím núi / Tim tím chiều hôm, tim tím mai…/ Ban chiều tim tím nhớ thương nhau / Đêm tối kìa em tím rất nhiều…”
Chẳng biết Nguyễn Bính đến Huế bao nhiêu lần và ông ở lại Huế bao nhiêu ngày đêm để rồi ông nhập thể vào cái đẹp của “Màu tím Huế” hơn bất cứ ai vỗ ngực thốt lên “Huế của ta, Huế của ta, Huế rất tự hào!”.
Tim tím rừng chiều, tim tím mai là cái đẹp của một khoảnh khắc được chiêm ngắm tại một địa điểm thích hợp nào đó ở phía đông nhìn lên những ngọn núi phía tây thành phố. Cái khoảnh khắc đó là lúc chiều tà hay lúc rạng đông. Những dãy núi xa trong ánh chiều tà phản chiếu qua dòng sông Hương sẽ cho ta “Màu tím Huế” trong thơ Nguyễn Bính.
“Màu tím Huế” là cảm nhận của nhiều người, nhưng kinh nghiệm đau thương qua “màu tím Huế” như Nguyễn Bính chỉ có một.
Có điều, màu tím nói chung trong cảm nhận của nhiều thi sĩ khác cũng gắn liền với đau thương chia lìa. Hữu Loan khóc Người Con gái nhỏ ông yêu qua Màu Tím Hoa Sim: “… Ngày xưa nàng yêu hoa sim tím/ Áo nàng màu tím hoa sim /…Những đồi hoa sim / Những đồi hoa sim dài trong chiều không hết /…Những đồi hoa sim / Tím chiều hoang biền biệt”.
Đoàn Phú Tứ cũng nhìn thời gian bằng một màu tím ngát: “Duyên trăm năm đứt đoạn/ Tình một thuở còn hương/ Hương thời gian thanh thanh /Màu thời gian tím ngát.
Trở lại với hai trường nữ áo tím:
Như nhiều người đã biết: Collège Des Jeunes Filles Indigènes, hay trường Nữ Sinh Áo Tím ở Sài Gòn đến khoảng năm 1945 đổi thành trường Gia Long. Đến năm 1953 trường Gia Long nữ sinh không còn mặc đồng phục tím, mà đổi thành đồng phục trắng.
Học sinh trường Đồng Khánh Huế mặc đồng phục tím từ năm 1917 đến 1954. Từ 1954 đến 1975 học sinh Đồng Khánh mặc đồng phục trắng.
Phải chăng có sự tác động của những bài thơ đau thương của các thi sĩ Nguyễn Bính, Đoàn Phú Tứ và Hữu Loan…?
Hay phải chăng từ một thực tế: Đồng phục do phụ huynh may, vì vậy từ việc chọn vải, chọn màu, nếu là đồng phục tím khó thực hiện hơn: Có nhiều màu tím khác nhau: màu tím Huế, màu tím than, màu tím hoa cà, màu tím hoa sim, màu tim nhạt, màu tím đậm, màu tím ngát…Nhìn một tấm ảnh nữ sinh Đồng Khánh chụp năm 1931, tiếng là đồng phục tím nhưng nhìn vào trông nó lổn nhổn thế nào ấy, đó không phải là đồng phục! Trái lại nếu là đồng phục trắng sẽ dễ có sự đồng nhất hơn cho dù chất liệu vải thế nào. Màu trắng còn biểu hiện sự trong sáng, trẻ trung, tươi vui thích hợp với tuổi học trò.
Mẫu mã các áo dài cũng thay đổi theo thời gian từ tà áo dài phết gót, thắt eo con ong đến tà áo ngắn quá gối một rồi hai tất, eo thả lỏng. Dù dài ngắn, thắt hay thả eo lúc nào nữ sinh đến trường đều phải trong trang phục kín đáo.
Nữ sinh Đồng Khánh Huế 1931 (Ảnh của National Geographic Magazine 1931)
Mùa giãn cách, phòng chống bệnh dịch Cô vít Vũ Hán chưa qua, đảng Cộng sản rầm rộ tổ chức chiến dịch kỷ niệm 130 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tới. Suốt tháng 5 từ đầu đến cuối, mỗi buổi sáng các chương trình truyền hình quốc gia phát đi chân dung và những lời dạy của “thánh nhân anh hùng vĩ đại của dân tộc Việt Nam”.
Quân đội, công an, cán bộ đảng viên, giáo viên, văn nghệ sĩ, thanh thiếu niên, nhi đồng, phụ nữ… Bác không bỏ sót một ai. Bác dạy tình yêu, cách thế hành động để thực hiện tình yêu đối với tổ quốc, với nhân dân, đồng bào, với đảng và chủ nghĩa xã hội. Trong tất cả lời dạy của Người, từ tổng quát đến chi ly cụ thể, thiết thực, mới nghe qua có cảm giác: “không bao giờ lỗi thời.” Nhưng nghe lại, nghĩ kỹ thì ôi thôi. Người chống thói quan liêu kẻ cả xa rời quần chúng. Người chống lãng phí tham ô, nhũng lạm. Người chống chủ nghĩa giáo điều, chủ nghĩa hình thức, chủ nghĩa cá nhân và kiến thức sáo rỗng. Người hô hào cán bộ đảng viên kính yêu tin tưởng quần chúng nhân dân, thực hiện dân chủ và đại đoàn kết. Người đánh giá vai trò tối quan trọng của nhân dân qua hai câu ca dao: “Dễ trăm lần không dân cũng chịu/ Khó vạn lần dân liệu cũng xong”. Người đúc kết đạo đức cán bộ đảng viên bằng mấy tiêu chí: “Cần kiệm, liêm chính, chí công, vô tư”. Trong đời sống, người là tấm gương sáng ngời cho toàn đảng, toàn quân và toàn dân. Ngoại trừ những năm chiến tranh, trong hòa bình và xây dựng đất nước, những lời dạy bức thiết của người lần hồi chỉ còn là khẩu hiệu. Và việc tôn vinh thờ cúng người là người thầy vĩ đại, là anh hùng dân tộc vĩ đại, là danh nhân văn hóa thế giới, là thánh, là phật đều trở thành nhu cầu tuyên truyền bảo vệ đảng, và nhu cầu tôn giáo sơ khai nơi những người bị giam nhốt quá lâu trong thế giới vô thần. Đảng Cộng sản lợi dụng thân danh của Hồ Chí Minh để chống đỡ sự ruỗng mục từ bên trong của một đảng toàn trị. Không ai trong các lãnh tụ đảng tin tưởng và nghiêm túc thực hiện lời dạy của Hồ Chí Minh cả. Từ Trường Chinh, Lê Duẩn… đến Nguyễn Phú Trọng.
Mấy ví dụ điển hình:
– Năm 1953, thời điểm Hồ Chí Minh còn là lãnh tụ có thực quyền, nhưng bí thư thứ nhất Trường Chinh với sự cố vấn của các chuyên gia Trung quốc đã điều hành cuộc Cải cách rộng đất vô cùng gian ác, giết hại và sỉ nhục hàng chục ngàn địa chủ, kể cả với những người có công với cách mạng và đang tham gia kháng chiến, làm tan nát hàng trăm ngàn gia đình, làm đen tối tâm hồn của hàng triệu cán bộ, đảng viên và nông dân, gây đổ vỡ niềm tin cho của hàng chục triệu con người khác.
– Năm 1956, tổng bí thư Trường Chinh và trưởng ban Văn hóa văn nghệ Tố Hữu đã đàn áp nhóm Nhân văn Giai phẩm, bởi nhóm này chống quan liêu, đóng góp ý kiến để sửa sai Cải cách ruộng đất và kêu đòi tự do, dân chủ, nhân quyền.
Theo tôi, Hồ Chí Minh là người chịu trách nhiệm chính trong Cải cách ruộng đất từ chủ trương đến thực hiện, không thể đổ lỗi cho người dưới quyền. Việc đối xử tàn tệ đối với nhóm Nhân văn Giai phẩm, Hồ Chí Minh cũng có dự phần. Đa số những nhà nghiên cứu, giáo sư, văn nhân nghệ sĩ vì cảm phục Hồ Chí Minh mà tham gia kháng chiến. Đến khi họ bị hại, Hồ Chí Minh làm thinh.
– Năm1968, lãnh đạo đảng Lê Duẩn, Lê Đức Thọ,
chỉ huy quân đội Văn Tiến Dũng chủ trương cuộc tấn công tết Mậu Thân, giết hại trên 5000 người Huế không có lý do chính đáng. Tội ác này lớn hơn tội ác Mỹ Lai do quân đội Mỹ thực hiện. Khi tiến hành cuộc tàn sát Tết Mậu Thân ở Huế, các lãnh tụ đảng Cộng sản có nhớ lời dạy của lãnh tụ Hồ Chí Minh không? Hồ Chí Minh có trách nhiệm gì khi đọc thơ chúc Tết (Mậu Thân) qua làn sóng đài phát thanh?
– Năm 1969. Lãnh tụ đảng Lê Duẩn vừa mới đọc điếu văn “Hồ chủ tịch muôn vàn kính yêu” đã ra lệnh ướp xác, xây lăng Hồ Chủ tịch, Lê Duẩn đã làm trái với di chúc mà Hồ Chí Minh đã cẩn trọng viết và sửa chữa trong vòng ba năm trước khi qua đời (1965 – 1968). Di chúc dặn rằng: không làm lễ an táng linh đình tốn kém, xác thân nên đốt, tro cốt chia làm ba phấn để trong ba hộp sành, đem chôn ở ba miền Bắc, Trung, Nam, không làm bia đúc tượng…Trong trường hợp này, với tư cách là người lãnh đạo đảng, ông Lê Duẩn có làm gương “học tập, làm theo lời Bác” không?
– Năm 1975, kết thúc chiến dịch Hồ Chí Minh, Lê Duẩn và các nhà lãnh đạo khác của đảng như Lê Đức Thọ, bắt chính phủ hòa giải hòa hợp Dương Văn Minh và lực lượng thứ ba phải đầu hàng. Lê Duẩn và đảng Cộng sản quên rằng đảng đã cử nhiều điệp viên tiếp cận Dương Văn Minh và lực lượng thứ ba tuyên truyền hứa hẹn đường lối chính sách của đảng về hòa hợp hòa giải dân tộc. Làm như thế Lê Duẩn và đảng Cộng sản có biết chính mình đã phản bội lời dạy của Bác, phản bội nhân dân không?
Sau 1975, để thống nhất đất nước, đảng Cộng sản đã thực hiện sách lược ngăn sông cấm chợ, dùng chính sách quản lý hộ khẩu, quản lý lương thực, quản lý thị trường, cải tạo kinh tế, công hữu hóa ruộng đất và cải tạo nông thôn, cải tạo giáo dục, cải tạo văn hóa văn nghệ (đốt sách, bắt văn nghệ sĩ đi học tập. Nhiều văn nghệ sĩ bị chết trong tù. Đây có phải chôn học trò không?), cải tạo tôn giáo… để khống chế nhân dân miền Nam, triệt tiêu các mầm mống “phản động mới” trong xã hội miền Nam nhằm đưa đất nước tiến nhanh tiến mạnh lên chủ nghĩa xã hội. Làm như thế, ông Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, ông Đổ Mười và đảng Cộng sản đã không nhớ lời căn dặn của chủ tịch Hồ Chí Minh: “Nhân dân không có tự do hạnh phúc thì độc lập chẳng có nghĩa lý gì”.
Từ sau khi ông Nguyễn Văn Linh lên làm tổng bí thư, quân đội và nhân dân không biết ai là bạn ai là thù, “Hoàng Sa, Trường Sa có tàu lạ xuất hiện”. “Tàu lạ đánh chìm tàu cá của ngư dân”. “Tàu lạ xuất hiện trong khu vực lãnh hải Việt Nam”. Thực tế này chứng tỏ lời dạy của bác Hồ về “ta”, “bạn” và “thù” đã lờ mờ trong tâm trí của đảng Cộng sản.
Đất nước chuyển dần đường lối từ Xã hội chủ nghĩa “bao cấp” sang “kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”. Như thế, kinh tế thị trường là sáng tạo kiệt xuất của đảng cộng sản. Đảng Cộng sản không hề biết “phê bình” và “tự phê bình” theo lời dạy của bác Hồ. Nguyễn văn Linh và các đồng nghiệp (tổng bí thư) về sau quên rằng khẩu hiệu phổ biến thời Lê Duẩn “Yêu nước là yêu chủ nghĩa xã hội, không yêu xã hội chủ nghĩa là không yêu nước” đã giết chết hàng chục ngàn người trong các trại cải tạo, đã đẩy mấy triệu người vượt biên, còn lại hàn chục triệu người đói khổ, bất lực xuôi tay cóng chân như những trụ đèn vì không thể vượt biên, bên tai họ thỉnh thoảng chỉ nghe mơ hồ tiếng nói nhỏ nhẹ của những cán bộ đảng viên “thời bao cấp”.
Xã hội chủ nghĩa thời Lê Duẩn là ngăn sông cấm chợ. Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa từ Nguyễn Văn Linh đến Nguyễn Phú Trọng sau này là mở chợ tứ tung. Trường học, bệnh viện thành chợ. Trụ sở đảng, đồn công an, doanh trại quân đội thành chợ. Cơ quan dân vận Mặt trận thành chợ. Quân đội công an hăng hái đi làm kinh tế thị trường, mặc dù không biết kinh tế thị trường là gì.
Lời dạy của Hồ Chí Minh “cần kiệm liêm chính, chí công vô tư” bị thử thách nghiêm trọng.
Chí công vô tư trong nội hàm sở hữu là lời dạy cực đoan, là trái bản chất con người. Con người, ai cũng muốn có một chút gì đó cho riêng mình. Đó là quyền tư hữu. Người cày có ruộng là khát vọng tư hữu. Khát vọng tư hữu nơi người Cộng sản cũng mãnh liệt như bất cứ ai. Sau một thời gian quá dài (cả thời gian vật lí lẫn thời gian tâm lí) bị ức chế bởi điều lệ, kỷ luật đảng, bởi lời dạy “chí công-vô tư” của bác Hồ, đến thời buổi kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là dịp để khát vọng (tư hữu) bung ra. Bất cứ nhu cầu gì bị kìm chế lâu ngày, khi có điều kiện, cơ hội bung ra thì nó bung tận trời cao biển lớn. Vi na lin, Vi na sin… làm thất thoát của nhân dân hàng trăm ngàn tỷ là một ví dụ được “nhóm lợi ích thắng thế” xả xì.
Thời ngăn sông cấm chợ, đảng Cộng sản buông hai tiếng đầy tính chất khinh bỉ để gọi những người kiếm sống ở chợ trời là “con phe, con phẩy”. Nay những “con phe, con phẩy” ấy tham gia kinh tế thị trường trong tư cách khách hàng thì đảng Cộng sản gọi là “thượng đế”. Tuy nhiên, đó chỉ là những thượng đế dỏm, thượng đế bình phong, thượng đế tép riu. Còn thượng đế chính danh, thượng đế thật, thượng đế to, nhất thiết phải đến từ ngoài, đặc biệt, thượng đế đến từ Trung Quốc, quê hương của Lã Bất Vi buôn vua có biệt tài “lại quả.” Khái niệm và ngôn ngữ thời thượng có tính cơ hội này phản ảnh một cách đê tiện tâm hồn của đảng viên Cộng sản và bọn cơ hội.
Khi đảng Cộng sản liên kết cùng bọn cơ hội nội địa và những “khách hàng thượng đế” đầu tư nước ngoài thì nhân dân và đất nước trở thành những món hàng, tất cả đều có thể bán mua. Những người Cộng sản gốc gác ba đời là bần cố nông, kinh qua kháng chiến, kinh qua cách mạng xã hội chủ nghĩa lấy gì để mua? Chỉ có cướp, chia và bán. Cướp và chia trong các cuộc cải tạo ở miền Nam trước đây. Cướp và chia trong các dự án qui hoạch quốc phòng, công trình văn hóa, kinh tế trọng điểm hiện tại. Bán thì bán bất cứ thứ gì. Bán quyền, bán chức, bán công lí, lương tri, bán dự án, bán tài nguyên, môi trường, bán sức lao động của nhân dân, bán lòng công chính dưới chiêu bài “chí công” để âm thầm thực hiện cái ham muốn ẩn ức lâu ngày là “chí tư.” Lời dạy “Chí công vô tư” của Hồ Chí Minh cuối cùng chỉ còn là cái bình phong để các đảng viên Cộng sản từ trung ương xuống địa phương giải tỏa ẩn ức và thực hiện lòng tham vô độ mờ ám riêng tư.
Nhưng kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là cái gì? Thực tế là cán bộ – đảng viên làm ăn tự do bằng tài nguyên quốc gia theo sự chỉ đạo của các nhóm lợi ích cộng thêm bạo lực Cộng sản.
Nhóm lợi ích, khởi đầu hình thành từ thân nhân, vây cánh của các nhân vật quyền lực Trường Chinh, Lê Duẩn, Lê Đức Thọ, Nguyễn Văn Linh, Đỗ Mười, Lê Đức Anh, Trần Đức Lương, Nông Đức Mạnh, Nguyễn Tấn Dũng, Trần Đại Quang, Nguyễn Phú Trọng…, nói chung là những nhân vật quyền lực của chế độ qua các thời kỳ. Thực tế, đây là sự “chia hương hỏa” giữa các “đại gia trưởng” Cộng sản với nhau, là nguồn gốc của tham nhũng, lãng phí, quan liêu cửa quyền. Thực tế này lần hồi dẫn đến tình trạng “bác Hồ” gọi là sự mất đoàn kết trong đảng.
Trong Di chúc, lãnh tụ Hồ Chí Minh căn dặn các “học trò – đồng chí” của mình: “Phải bảo vệ sự đoàn kết trong đảng như bảo vệ con ngươi trong mắt.” Con ngươi, hiểu nôm na là cổng thu nhận ánh sáng nằm giữa mỗi con mắt, qua đó (chủ thể) nhận thấy, nhận biết thế giới bên ngoài. Kinh tế thị trường – định hướng Xã hội chủ nghĩa bắt đầu cũng đồng thời mất thêm sự đoàn kết trong đảng. Nguyễn Tấn Dũng làm thủ tướng, là vua rừng vàng biển bạc, được tổng bí thư và bộ chính trị bổ nhiệm thêm chức trưởng ban chống tham nhũng. Chuyện hài hước đến thế là cùng: Người có khả năng, cơ hội và điều kiện tham nhũng nhất lại được đảng phân công chống tham nhũng. Như thế là tiền thuế của dân phải trả thêm cho Nguyễn Tấn Dũng và ban bệ của ông các khoản phụ cấp chống tham nhũng. Sau 10 năm, Nguyễn Tấn Dũng tuyên bố không có tham nhũng. Như thế là tổng bí thư và bộ chính trị, ít ra, đã lãng phí thêm tiền của nhân dân qua vụ việc này.
Như thế là “con ngươi trong mắt của đảng” có vấn đề, lại là vấn đề trầm trọng. Bác Hồ có sống lại cũng không hình dung hết sự hư đốn của đảng do ông khai sinh, dày công dạy dỗ và rèn luyện lại trầm trọng đến như vậy.
Là “tiến sĩ bảo vệ đảng”, sau cái chết đột ngột không rõ nguyên nhân của Trần Đại Quang, tổng bí thư Nguyễn Phú Trọng kiêm nhiệm thêm chức chủ tịch nước. Nhân vật nhị đầu này chứng tỏ qua lời nói là cháu ngoan của bác Hồ, nhưng qua hành động cụ thể ông lại làm khác đi.
Nhân vật nhị đầu này cùng một lúc làm hai công việc vô cùng hệ trọng là chống tham nhũng và củng cố sự đoàn kết trong đảng.
Nguyễn Phú Trọng cho rằng tham nhũng là quốc nạn. Ông nhất quyết chống tham nhũng đến cùng. Ông hình dung công việc chống tham nhũng là việc đốt lò. Ông sẽ đốt hết những thanh củi mục, để đảng còn lại toàn là gỗ ròng. Ông đã đưa một ủy viên bộ chính trị, mấy ủy viên trung ương đảng và hàng trăm cán bộ đảng viên khác vào tù. Nhị đầu Nguyễn Phú Trọng làm được việc trước đây các đồng nghiệp tiền nhiệm chưa ai làm. Ông đã gây phấn khích và tạo được niềm tin nơi một số người. Ông nói là không có vùng cấm trong công cuộc chống tham nhũng của ông, nghĩa là ông sẽ làm trong sạch, đoàn kết đảng và đưa đất nước thoát khỏi “quốc nạn”. Nhìn những việc ông Nguyễn Phú Trọng làm, nghe những lời ông Nguyễn Phú Trọng nói, bác Hồ nếu sống lại sẽ rất bằng lòng.
Tuy vậy, không ít người tỏ ra nghi ngờ công cuộc “trọng đại” và lời nói có vẻ khoa trương của ông. Người ta đề nghị ông công khai minh bạch tài sản những nhân vật khác quyền cao chức trọng trong đảng. Ông nhanh chóng trả lời: “đây là việc làm tế nhị” không cần thiết phải làm. Nói như thế là mâu thuẫn với lời hứa hẹn “đốt lò không có vùng cấm”. Người ta nhanh chóng nhận ra rằng Nguyễn Phú Trọng rất lúng túng trong cách lập luận của ông. Ông cho rằng nguồn gốc của tham nhũng là do các nhóm lợi ích trong đảng và do tình trạng mất phẩm chất của một số đảng viên. Nghe nhị đầu nói như thế, thiên hạ tiếp tục đưa mấy câu hỏi:
1/ Liệu Nguyễn Phú Trọng có đứng ngoài các nhóm lợi ích, hay cũng chỉ là thủ lĩnh của một nhóm lợi ích nào đó?
2/ Phải chăng tham nhũng là hậu quả của các nhóm
lợi ích, hay phải chăng tham nhũng là hậu quả của cơ chế đảng Cộng sản độc tài toàn trị và tuyệt đối? Phải chăng chế độ dân chủ tam quyền phân lập mới là động lực và cơ chế hợp lí giải quyết căn bản quốc nạn tham nhũng?
Câu hỏi thứ nhất chưa thấy nhị đầu Nguyễn Phú Trọng trả lời. Về câu hỏi tiếp theo, tổng bí thư – chủ tịch nước Nguyễn Phú Trọng và guồng máy tuyên truyền khổng lồ của ông trả lời một cách hung hăng rằng hỏi như thế là phản động, là âm mưu chuyển biến, chuyển hóa hòa bình, lật đổ chế độ. Nguyễn Phú Trọng còn nói thêm rằng những ai đòi tam quyền phân lập là không hiểu biết gì về đảng Cộng sản, là bất hảo.
Để củng cố sự “đoàn kết” trong đảng, Nguyễn Phú Trọng ra lệnh (tôi nói Nguyễn Phú Trọng ra lệnh với những lập luận sau) bộ công an tổ chức cuộc tấn công vào thôn Hoành, xã Đồng Tâm, huyện Mỹ Đức, thành phố Hà Nội đêm 8 rạng ngày 9 -1- 2020. Sự kiện Đồng Tâm gây nên một làn sóng phẫn nộ, căm ghét, khinh bỉ chế độ toàn trị trong giới đấu tranh Dân chủ và Nhân quyền. Quá nhiều bài viết của nhiều tác giả với nội dung súc tích mô tả đầy đủ diễn biến vụ việc, phản biện chính xác những thông tin giả dối bịa đặc một cách ấu trĩ phát ra từ phía bộ công an, tố cáo tội ác dã man của đảng Cộng sản đối với thân nhân, gia đình ông Lê Đình Kình và nhân dân Đồng Tâm. Từ sau ngày 9.1.2020 các cơ quan truyền thông hoạt động trong nước và quốc tế, các trang báo mạng như Tễu Blog, Boxit, Tiếng Dân, Viet-studies, Diễn Đàn Forum, Luật Khoa, BBC, VOA, Diễn Đàn Thế Kỷ… có thể cung cấp cho bạn đọc bất cứ thông tin và ý kiến nào về Đồng Tâm mà bạn muốn.
Trong phạm vi của bài tản mạn nhỏ này tôi chỉ nêu câu hỏi duy nhất là Nguyễn Phú Trọng, nhóm lợi ích và đảng Cộng sản của ông muốn gì qua vụ Đồng Tâm?
Theo tôi vụ Đồng Tâm là cuộc tranh chấp ruộng đất giữa một bên là nhân dân xã Đồng Tâm do lão nông – già làng Lê Đình Kình cầm đầu, một bên là nhóm lợi ích thắng thế trong đảng Cộng sản do Nguyễn Phú Trọng cầm đầu.
Đồng thời, vụ Đồng Tâm còn là cuộc đấu tranh không khoan nhượng của “đảng lý tưởng con cháu bác Hồ” chủ trương người cày có ruộng, đặt quyền lợi và danh dự của tổ quốc lên trên quyền lợi của đảng do đảng viên 58 tuổi đảng Lê Đình Kình đại diện, đương đầu với “đảng lợi ích” do Nguyễn Phú Trọng cai quản, thống trị với chủ trương: bạo lưc toàn trị, lợi ích cuả đảng trên lới ích của tổ quốc, nhân dân.
Cuộc tranh chấp, đấu tranh như vậy là không cân sức xét về tương quan lực lượng. Tuy nhiên, chí sĩ Lê Đình Kình và nhân dân Đồng Tâm không hề run sợ, thề chết, quyết không bỏ cuộc, đầu hàng.
Thái độ đó, quyết tâm đó là thách thức không chịu được đối với Nguyễn Phú Trọng, người nắm trong tay guồng máy bạo lực khổng lồ: quân đội, công an và hàng triệu đảng viên “thà mất nước, mất dân, không thà mất đảng”.
Lê Đình Kình bị phanh thây mổ bụng, chắc chắn là mệnh lệnh từ Nguyễn Phú Trọng, người “Bảo Vệ Đảng” bằng bất cứ phương tiện nào!
Phanh thây mổ bụng Lê Đình Kình còn là lời cảnh báo sắt máu đối với các đảng viên và nhân dân trong cả nước đang “rắp tâm chuyển biến, chuyển hóa” đi về phía Dân chủ, Nhân quyền, đa nguyên đa đảng, tam quyền phân lập.
Vụ Đồng Tâm xẩy ra sáng ngày 9. Sáng ngày 10, qua guồng máy thông tin khổng lồ, Nguyễn Phú Trọng đã tuyên bố truy tặng huân chương chiến công hạng nhất cho ba sĩ quan công an đã “hy sinh” trong “trận” phanh thây mổ bụng đảng viên Lê Đình Kình. Động thái vội vàng và “thiểu năng trí tuệ” này chứng tỏ ông là người ra lệnh và chịu trách nhiệm toàn bộ vụ Đồng Tâm. Chiến công của ba sĩ quan công an cũng là chiến công của ông tổng – chủ. Thiên hạ không hiểu thế nào là chiến công hạng nhất khi ba sĩ quan (một trung tá trung đoàn phó cảnh sát đặc nhiệm, một trung úy, một thiếu úy) võ nghệ cao cường, vũ khí đầy mình hạ sát được một ông già 84 tuổi trước khi “hy sinh”, lại “hy sinh” (bị đốt cháy) cùng lúc trong một hố kĩ thuật miệng chưa quá 1,2 m vuông (sâu 4m, rộng 0m77x1m33)? Lại nữa: Tấn công áo ạt vào Đồng Tâm một trung đoàn (khoảng 3.000 người), khu vực nhà ông Lê Đình Kình là trọng điểm, ít ra được điều động không dưới một đại đội (trên 100 người). Chẳng lẽ những chiến binh còn lại thấy đồng đội gặp nạn mà không cứu, để họ bị đốt cháy thành tro (2 xác thành tro, không còn một đốt xương nào) than? Rõ ràng những người viết và duyệt kịch bản đều thiểu năng trí tuệ.
Tôi chép ra đây 5 điều Bác Hồ dạy để tổng – chủ và “đảng lợi ích” của ông xem thử mình nhớ gì không: 1/ Yêu Tổ quốc, yêu Đồng bào/ Học tập tốt, lao động tốt/ Đoàn kết tốt, kỹ luật tốt/ Giữ gìn vệ sinh thật tốt/ Khiêm tốn, thật thà, dũng cảm.
Rõ ràng tổng – chủ và đảng lợi ích của ông còn độc quyền không nhớ. Trong khi đó tổng – chủ và đảng lợi ích của ông bắt nhân dân phải học hằng ngày suốt hai phần ba thế kỷ bằng các phương tiện truyền thông do chính họ trả tiền. Nhân dân còn phải trả tiền để nuôi sống các ông cũng trong chừng ấy thời gian!
Hồi nhỏ ở miền Nam, nên tôi không phải là cháu ngoan Bác Hồ. Gần quá tuổi trung niên, trong chế độ Cộng sản tôi không là cán bộ đảng viên. Do vậy, khẫu hiệu “Sống, chiến đấu, lao động, học tập theo gương sáng Bác Hồ qua đi trong trí óc tôi như nước chảy lá môn. Đến khi con tôi mang về từ trường học 5 điều Bác Hồ dạy làm tôi quan tâm. Tôi thấy: “5 điều Bác Hồ dạy” một cách mềm mại hơn có hết trong những lời dạy của cha mẹ lúc 4, 5 tuổi, và những bài học Vệ sinh, Đức dục, Tập đọc, Học thuộc lòng, Việt sử, Quốc văn giáo khoa thư với thầy cô thời tiểu học Việt Nam Cộng Hòa.
Tuy nhiên, cha mẹ, thầy cô giáo thời Việt Nam Cộng Hòa dạy chúng tôi một điều không tìm thấy trong 5 điều Bác Hồ dạy. Đó là tình yêu, trách nhiệm đối với gia đình. Thiếu niên nhi đồng mà không dạy tình yêu, trách nhiệm đối với gia đình là một thiếu sót to lớn trong quá trình vun đắp tâm hồn. Thì ra, tâm trí Chủ tịch Hồ Chí Minh vẫn có những khiếm khuyết dị tật. Chẳng hạn lời dạy “chí công vô tư” như tôi đã trình bày ở trên. Theo tôi, công và tư nên được pháp luật hóa một cách hài hòa để xã hội quân bình, không nghiêng lệch về phía cộng sản để rồi dẫn đến quốc nạn tham nhũng do các nhóm lợi ích.
Trong những lời Bác Hồ dạy cũng cần có những vấn đề được thảo luận thêm. Chẳng hạn: “Cán bộ đảng viên phải là tôi tớ của nhân dân”. Khi đưa ra lời dạy này, Hồ Chí Minh chứng tỏ là người hoang tưởng, nếu không nói: nặng nề tính chất mị dân. Theo tôi nhân dân không cần “những tôi tớ” trong các cơ quan công quyền. Nhân dân cần những viên chức có khả năng, thượng tôn hiến pháp và tuân thủ pháp luật. Chính Hồ Chí Minh đã vô tình (hoặc cố ý) tạo ra những “tôi tớ” vừa gian dối, ác độc và thiểu năng trí tuệ bằng những lời dạy như thế.
Nói gì thì nói, tôi vẫn có một ấn tượng rất đẹp về Chủ tịch Hồ Chí Minh. Năm 1986, ra Hà Nội học chuyên khoa I nhi. Tôi không đến thăm Bác ở lăng mà thăm Bác ở nhà sàn. Là bác sĩ tôi đã chứng kiến quá nhiều cái chết. Tôi không muốn bị trở ngại tâm lý khi không cần thiết phải nhìn ngắm một xác chết cho dù là xác được trưng bày trong lồng kính. Tôi thường có mặc cảm thất bại trước bất cứ một sự chết chóc nào.
Khi đến thăm nhà sàn, một hiện vật trưng bày làm tôi xúc động là cái máng đựng xà bông để cạnh chậu rửa. Cái máng là phần còn lại của cái hộp bị mất nửa trên. Trong cái máng có một miếng xà bông đã qua sử dụng để trên những viên sỏi. Vị Chủ tịch nước mà sống giản dị như thế sao? Câu hỏi này luôn là một trăn trở đối với tôi đến tuổi già. Một trăn trở khác của tôi là không thấy một tủ sách trong nhà sàn. Một người viết nhiều như Hồ Chí Minh mà không có một tủ sách trong phòng làm việc là một vấn đề. Phải chăng kiến thức của Hồ chí Minh là kiến thức đọc báo, là kiến thức thực dụng hằng ngày, rất rộng, nhưng không có chiều sâu của tri thức tinh hoa trong những sách kinh điển.
Một việc làm của Hồ Chí Minh thời còn là Nguyễn Ái Quốc khiến tôi tôn trọng là gởi đơn xin đi học trường thuộc địa. Biết mình dốt thì phải học chứ sao. Tiếc là chính quyền Pháp đã bỏ lỡ một cơ hội. Biết đâu sau khi tốt nghiệp ở trường thuộc địa, Nguyễn Ái Quốc không trở thành một học giả như Phạm Quỳnh? Còn hơn thế nữa, biết đâu Nguyễn Ái Quốc sẽ không trở thành một triết gia, để rồi không chọn lựa con đường Độc lập và cách mạng Xã hội chủ nghĩa như ông ta đã chọn và bắt nhân dân phải theo?
Rõ ràng, Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh là người tràn đầy nhiệt huyết, thông minh, tài trí, mưu lược và thủ đoạn chính trị hơn người. Ông là người rất giỏi trên con đường đã sai.