Bảo Tích
D. GIÁO SƯ NGUYỄN HỮU LIÊM VIẾT VỀ KANT
Nhân dịp kỉ niệm 300 năm ngày sinh của Kant, ông NHL cũng hạ bút viết một tiểu luận về triết gia này. Bài viết của ông NHL mang tựa đề ‘Đọc và phản biện Kant: Sao sáng trên trời và quy luật đạo đức bên trong ta’ có thể được đọc trên trang của Tạp chí Triết. Đây là một cơ hội tốt để xem ông NHL đọc hiểu và phê bình những triết gia kinh điển như thế nào. Như độc giả sẽ được chứng kiến trong phần này, ông NHL hầu như không có kiến thức cơ bản gì về Kant, ông không dịch được những trích dẫn của Kant, không biết các thuật ngữ mà Kant sử dụng hay không hiểu những khái niệm trung tâm trong học thuyết của Kant như ‘kategorischer Imperativ’ (‘định ngôn lệnh thức’, ‘lệnh thức tuyệt đối’), v.v. Tuy không biết gì về nhân vật mà mình đang nói đến, ông NHL lại phê bình rất tự tin triết gia này bằng những lập luận không hề có tính khoa học và những luận điểm không liên quan đến chủ đề. Tất nhiên, không thể thiếu được trong những bài viết của ông NHL là sự kết hợp tuỳ tiện các khái niệm triết học Đông-Tây và những mâu thuẫn trong những câu văn mà chính ông viết. Bây giờ, chúng ta sẽ xem xét kĩ hơn.
I. KHẢ NĂNG ĐỌC KANT BẰNG NGOẠI NGỮ CỦA GS NHL
Ông NHL mở đầu bài viết của mình bằng một trong những trích dẫn nổi tiếng nhất của Kant:
“Có hai điều luôn chất đầy mới lạ và ngưỡng mộ trong tâm trí tôi: bầu trời đầy sao phía trên và quy luật đạo đức bên trong” (Kant: Phê phán Lý tính Thực hành).
Ông NHL ghi nguồn gốc của trích dẫn này là cuốn Phê phán Lý tính Thực hành. Nhưng tác phẩm của Kant hoàn toàn không có câu nào như vậy, vì đây là một trích dẫn đã bị ông NHL cắt xén khi dịch. Câu văn nguyên gốc là:
“Zwei Dinge erfüllen das Gemüt mit immer neuer und zunehmender Bewunderung und Ehrfurcht, je öfter und anhaltender sich das Nachdenken damit beschäftigt: der bestirnte Himmel über mir und das moralische Gesetz in mir.”
“Hai điều làm tràn đầy tâm tư với một sự thán phục và kính uý càng lúc càng mới và lớn hơn khi càng suy ngẫm thường xuyên và dài lâu về chúng: bầu trời đầy sao trên đầu tôi và quy luật đạo đức trong tôi.”
Bản dịch tiếng Anh của Beck dịch câu này là:
“Two things fill the mind with ever new and increasing admiration and awe, the oftener and more steadily we reflect on them: the starry heavens above me and the moral law within me.”
Điều đáng ngạc nhiên là ông NHL dịch ‘admiration and awe’ thành ‘mới lạ và ngưỡng mộ’, ông cắt bỏ toàn bộ đoạn ‘with ever new and increasing’ và ‘the oftener and more steadily we reflect on them’ không dịch (!). Ông NHL thấy trích dẫn của Kant quá dài và phức tạp nên ông phải cắt bớt đi để cho trích dẫn này ‘hay’ và ‘dễ hiểu’ hơn chăng?
Sau đó ông NHL có trích dẫn một câu nữa từ trong một tác phẩm của Kant:
“Ta không thể thông hiểu bản sắc thực tế thiết yếu vô điều kiện của mệnh lệnh đạo đức; nhưng ta vẫn có thể suy thức cái không thể nhận thức được – vì đây là một triết học về lý tính với những giới hạn của nó.”
Rất may là lần này ông NHL trích dẫn gần đúng quy cách để người đọc có thể tìm ra được vị trí trích dẫn gốc của ông. Nguồn gốc cho trích dẫn của ông NHL là ‘Phê phán Lý tính Thực hành’ Anh ngữ bởi L.W. Beck (Chicago, 1949), p. 117’. Nhưng đây là một lỗi cực kì cẩu thả và cho thấy là ông đã không hề đọc tài liệu tham khảo mà ông đang trích ở đây. Tên đầy đủ của tài liệu tham khảo mà ông NHL trích là Critique of Practical Reason And Other Writings in Moral Philosophy, trích dẫn mà ông NHL trích nằm trong quyển Foundations of the Metaphysics of Morals (‘Những cơ sở cho siêu hình học về đạo đức’) không phải nằm trong quyển Phê phán Lí tính Thực hành (Critique of Practical Reason) như ông lầm tưởng. Chắc ông NHL nhìn qua tiêu đề của tài liệu tham khảo trên Internet Archive (xem tại đây) là ‘Critique of Practical Reason’ rồi tưởng là đây chỉ là cuốn Phê phán thứ hai của Kant, sau đó ghi luôn trích dẫn này vào. Chẳng lẽ một ‘giáo sư triết học’ có thể cẩu thả đến mức khi trích dẫn tài liệu thì không nhìn xem tên tài liệu là gì, trích dẫn nằm trong văn cảnh nào?
Đó vẫn chưa phải là điều tệ nhất ở trích dẫn này, câu văn trong bản dịch tiếng Anh là:
“And so we do not indeed comprehend the practical unconditional necessity of the moral imperative; yet we do comprehend its incomprehensibility, which is all that can be fairly demanded of a philosophy which in its principles strives to reach the limit of human reason.”
Tạm dịch là:
“Và như vậy thì quả thực chúng ta không hiểu được tính tất yếu vô điều kiện có tính thực hành của những lệnh thức đạo đức; song chúng ta hiểu được tính không thể hiểu được của chúng, đó là tất cả những gì có thể được đòi hỏi một cách hợp lí ở một triết học mà những nguyên tắc nó nỗ lực đi đến giới hạn lí tính con người.”
Ta có thể so sánh câu này với câu văn ông NHL dịch:
“Ta không thể thông hiểu bản sắc thực tế thiết yếu vô điều kiện của mệnh lệnh đạo đức; nhưng ta vẫn có thể suy thức cái không thể nhận thức được – vì đây là một triết học về lý tính với những giới hạn của nó.”
Ông dịch ‘practical unconditional necessity’ là ‘bản sắc thực tế thiết yếu’ (?), chữ ‘comprehend’ (và từ phái sinh từ đó là ‘incomprehensibility’) có thể được dịch nhất quán là ‘hiểu’, ‘nắm bắt’ thì ông NHL dịch ở câu trước là ‘thông hiểu’, câu sau là ‘suy thức’, sau đó thì thành ‘nhận thức’. Như đã nói bên trên, nằm bên dưới những bài viết triết học của ông NHL là một sự hỗn loạn thuật ngữ. (xem phần B.I) Đoạn ‘which is all that can be fairly demanded of a philosophy’ bị ông NHL cắt bỏ hoàn toàn không dịch. Nhưng chúng tôi thắc mắc, chẳng nhẽ ông NHL coi thường độc giả đến độ nghĩ rằng sẽ không ai kiểm tra lại ông để ông dịch ra những câu cẩu thả như trên?
Một khái niệm quan trọng khác trong triết học Kant là ‘định ngôn lệnh thức’ hay ‘lệnh thức tuyệt đối’ (kategorischer Imperativ, categorical imperative). Ông NHL đã hiểu lệnh thức nổi tiếng của Kant như thế nào?
Ông viết:
““Hãy luôn hành động trên nguyên tắc rằng ta muốn nó có thể trở nên là quy luật hoàn vũ.” Kant gọi nguyên lý đạo đức nầy là Mệnh lệnh Tuyệt đối – Categorical Imperative.”
Dạng phổ biến nhất của định ngôn lệnh thức của Kant là:
“Act only according to that maxim whereby you can at the same time will that it should become a universal law.” (Immanuel Kant, Groundwork of the Metaphysics of Morals)
“Handle nur nach derjenigen Maxime, durch die du zugleich wollen kannst, dass sie ein allgemeines Gesetz werde”. (Immanuel Kant: AA IV, 421)
Tức:
“Hãy hành động theo phương châm mà thông qua nó bạn đồng thời có thể muốn rằng phương châm này trở thành một quy luật phổ quát.”
Ông NHL bỏ qua đoạn ‘mà thông qua nó’ hay ‘whereby’ trong tiếng Anh không dịch, trong khi đây là một chi tiết rất quan trọng (xem phần ‘Luân lý học của Kant’ bên dưới). Điều này đã cho thấy là ông NHL không hề thực sự hiểu định ngôn lệnh thức của Kant. Nhưng đó cũng không phải vấn đề duy nhất. ‘Maxime’ trong tiếng Đức hay ‘maxim’ trong tiếng Anh nên/phải được dịch là ‘phương châm’, vì sao vậy? Bởi ‘phương châm’ (Maxime) được Kant so sánh với ‘nguyên tắc của ý muốn’ (Prinzip des Wollens, principle of volition), ‘nguyên tắc của ý chí’ (Prinzip des Willens, principle of the will, GMS, 18)[77]. Nếu dịch ‘maxim’ là ‘nguyên tắc’ thì ‘principle’ bây giờ sẽ được dịch là gì cho phù hợp với cách hiểu của Kant? Chẳng lẽ ông NHL không biết đến những điều này khi diễn giải lệnh thức tuyệt đối của Kant?
Sau đó, ông NHL trình bày một cách diễn đạt định ngôn lệnh thức khác của Kant:
“Hãy xét lại công thức đạo đức cơ bản của Kant: Hãy hành động trên nguyên tắc như thể rằng nó phải là đạo lý hoàn vũ.”
Cách diễn đạt định ngôn lệnh thức có thể sử dụng cụm từ ‘như thể’ (als ob, as if) của Kant mà ông NHL có thể muốn nhắc đến ở đây là:
“Handle so, als ob die Maxime deiner Handlung durch deinen Willen zum allgemeinen Naturgesetze werden sollte.” (AA IV, 421)
“Act as if the maxims of your action were to become through your will a universal law of nature.”
Câu này có nghĩa là:
“Hãy hành động như thể phương châm cho hành động của bạn thông qua ý chí của bạn [được giả định] nên trở thành một định luật tự nhiên phổ quát.”
Nếu như ông NHL nói: ‘Hãy hành động trên nguyên tắc như thể rằng nó phải là đạo lý hoàn vũ’ thì đây liệu có còn là định ngôn lệnh thức của Kant? Mặt khác thì cũng không rõ ‘đạo lý hoàn vũ’ mà ông NHL sử dụng ở đây có nghĩa là gì, nhất là trong hệ thống triết học của ông NHL thì từ ‘đạo lý’ có thể đồng nghĩa với ‘Geist’, tức, vẫn theo ông NHL, là ‘Trí năng’, ‘Chân tâm’, ‘Pháp tính’, ‘Thượng Đế’, v.v. (xem mục B.I).
Qua cách đọc hiểu và dịch các trích dẫn của Kant của ông NHL thì một người có kiến thức triết học đã có thể đánh giá ngay được trình độ kiến thức về Kant của ông. Đó là chưa kể đến lỗi ông NHL trích một câu trong cuốn Đặt cơ sở cho siêu hình học của đạo đức mà tưởng mình đang trích dẫn từ cuốn Phê phán lí tính thực hành. Nhưng buồn cười là, dù không đọc và dịch được Kant, ông phê bình bản dịch của dịch giả Bùi Văn Nam Sơn là ‘ngôn ngữ thuần chuyên triết, nặng Hán ngữ, chua theo tiếng Đức’. Dịch giả Bùi Văn Nam Sơn là người thạo chữ Hán, ông sử dụng các thuật ngữ Hán-Việt một cách nhất quán xuyên suốt các dịch phẩm của mình và có giải thích rõ ràng cho cách dùng từ của mình. Nhưng về mặt ‘nặng Hán ngữ’ và ‘chua theo tiếng Đức’ thì các tác phẩm của NHL cũng đâu kém cạnh gì, chỉ có điều là ông hoàn toàn không có kiến thức gì về hai ngôn ngữ này cả.
Trong bảy mục phê phán Kant của ông NHL thì gần như không có mục nào có lí, bên cạnh đó thì nội dung các mục này cũng tự mâu thuẫn với nhau. Để tránh dài dòng không cần thiết, sau đây chỉ xin phân tích một điểm lớn nhất mà ông NHL đã phê phán Kant.
II. GS NHL PHÊ PHÁN LUÂN LÍ HỌC CỦA KANT
Không mấy bất ngờ khi ông NHL diễn giải luân lí học của Kant sai rất nhiều khi ông NHL dịch sai định ngôn lệnh thức, một trong những khái niệm nổi tiếng nhất trong triết học Kant. Ông NHL viết trong mục 5:
“Kant nhầm lẫn giữa con người toàn hảo về bình diện lý thuyết, vốn là một Noumenon, một nhân thể tự-chính-nó mà ta không thể thông hiểu, trái nghịch với con người hiện thân mà ta kinh nghiệm ở đời thường. Vậy thì mệnh lệnh đạo lý làm người sẽ áp dụng cho ai đây?”
Mệnh lệnh thức (Imperativ) trong triết học Kant đã được ghi rõ là áp dụng đối với những sinh vật có lí tính (Vernunftwesen), bởi vì đối với một chủ thể toàn hảo (ví dụ như của Thượng đế) thì chủ thể này luôn luôn hành động đạo đức và do vậy lệnh thức không có ý nghĩa đối với những chủ thể này nữa. Trong Đặt cơ sở (GMS AA, 414–15), Kant viết:
“Daher gelten für den göttlichen und überhaupt für einen heiligen Willen keine Imperativen; das Sollen ist hier am unrechten Orte, weil das Wollen schon von selbst mit dem Gesetz notwendig einstimmig ist. Daher sind Imperativen nur Formeln, das Verhältnis objektiver Gesetze des Wollens überhaupt zu der subjektiven Unvollkommenheit des Willens dieses oder jenes vernünftigen Wesens, z.B. des menschlichen Willens, auszudrücken.”
“Do vậy mà không mệnh lệnh thức nào có giá trị đối với ý chí thần linh, hay nói chung là đối với một ý chí linh thiêng; ‘sự nên là’ (das Sollen) đang đứng nhầm chỗ ở đây, vì ‘sự muốn’ (das Wollen) tự chính nó đã trùng hợp một cách tất yếu với quy luật. Do vậy mà các mệnh lệnh thức chỉ là những công thức biểu thị mối quan hệ giữa những quy luật khách quan của sự muốn (das Wollen) nói chung đến sự bất hoàn hảo chủ quan của ý chí của một sinh vật có lí tính này kia, ví dụ như ý chí con người.”
Như vậy là Kant đã viết các lệnh thức chỉ áp dụng cho các sinh vật có lí tính hữu hạn, ví dụ như con người. Định ngôn lệnh thức không là gì khác ngoài khái niệm của đức hạnh (Sittlichkeit) trong điều kiện của những sinh vật hữu tận, có lí tính.[78] Kant phân biệt rõ ràng giữa ‘ý chí thiện hảo hoàn hảo’, ‘ý chí thần linh’ với ‘ý chí con người’, vì sao mà ông NHL có thể viết: ‘Kant nhầm lẫn giữa con người toàn hảo về bình diện lý thuyết (…) trái nghịch với con người hiện thân mà ta kinh nghiệm ở đời thường’ rồi đặt câu hỏi: ‘Vậy thì mệnh lệnh đạo lý làm người sẽ áp dụng cho ai đây?’
Sau đó, ông NHL viết tiếp:
“Thử hỏi, một kẻ vô minh, đầy tham lam, vô đạo đức – vốn là đa số nhân loại – muốn áp dụng nguyên tắc hành động của mình cho thế gian thì hệ quả sẽ ra sao?”
Nhưng đây đâu phải là nội dung định ngôn lệnh thức của Kant? Định ngôn lệnh thức của Kant đâu phải chỉ đơn giản là đặt ra một ‘nguyên tắc’ (đúng ra phải là ‘phương châm’) hành động cho mình rồi áp dụng đối với thế gian. Chúng ta sẽ xem lại định ngôn lệnh thức của Kant:
“Hãy hành động theo phương châm mà thông qua nó bạn đồng thời có thể muốn rằng phương châm này trở thành một quy luật phổ quát.”
Nếu như ‘một kẻ vô minh, đầy tham lam, vô đạo đức’ đưa ra phương châm là ‘vay được tiền rồi thì không cần trả lại’, người đó, nếu có lí tính, sẽ không thể muốn phương châm này trở thành quy luật phổ quát vì khi đó, thông qua chính phương châm này, sự tin tưởng cần thiết cho việc vay nợ sẽ không tồn tại nữa, dẫn đến mâu thuẫn là việc vay tiền khi đó sẽ không thể thực hiện được. Mặt khác, ngay cả kẻ ‘vô minh, đầy tham lam, vô đạo đức’ cũng không muốn ‘bị quỵt tiền’, tức bị người khác vay tiền rồi không trả. Do vậy, phương châm nói trên này không thể phù hợp với định ngôn lệnh thức.
Định ngôn lệnh thức của Kant là một khái niệm không dễ diễn giải. Kant trong cuốn Đặt cơ sở có đưa ra một số ví dụ, không phải là không gây tranh cãi, về các phương châm không thể trở thành quy luật phổ quát. Chúng tôi sẽ nói thêm về một trong số những ví dụ này. Kant trình bày một ví dụ về một người hoàn toàn dửng dưng trước hoạn nạn của một người khác dù anh ta có thể giúp người này, lí do là bởi anh ta không có hứng can thiệp vào hạnh phúc (Wohlbefinden) của người khác. (GMS 423). Một xã hội mà phương châm này trở nên phổ quát là có thể nghĩ ra được, Kant viết một cách châm biếm:
“Bây giờ, nếu một phương cách tư duy như vậy có thể trở thành một quy luật tự nhiên phổ quát, thì loài người vẫn có thể tồn tại, và không nghi ngờ gì còn tốt hơn so với khi mỗi người tán dóc về sự cảm thông và sự thân thiện, thỉnh thoảng có hứng thú thực hiện điều này, nhưng mặt khác, người ta lừa gạt, bán đi pháp luật của con người hoặc gây tổn hại cho pháp luật khi có thể.”[79]
Tuy vậy, một người có lí trí không thể muốn rằng cách hành xử này sẽ trở thành quy luật phổ quát, vì thường xuất hiện những trường hợp mà người đó cần đến sự quan tâm và cảm thông từ những người khác. Khi đó, nếu theo phương châm này thì không ai cần phải giúp người kia vì tất cả mọi người đều dửng dưng trước hoạn nạn của nhau. Một phương châm như vậy, theo Kant, là tự mâu thuẫn với chính nó.[80] Một người ích kỉ sẽ muốn một cuộc sống vô lo, vô nghĩ, nhưng chính người này sẽ không thể có cuộc sống vô lo kia nếu như tất cả mọi người đều hành xử theo đúng cái phương châm được đặt ra (người đó sẽ hết ‘vô lo, vô nghĩ’ nếu chính mình gặp hoạn nạn).
Ông NHL viết trong mục 5.:
“Có phải con người có thể có năng lực Tự do Ý chí, dù chỉ là lý thuyết? Kant trả lời theo thể xác định. Vì thế, Kant bỏ qua yếu tố nhân quả trong hành vi để đòi hỏi cá nhân tuân theo mệnh lệnh vô điều kiện.”
Nhưng luân lí học của Kant không phải là ‘tuân theo mệnh lệnh vô điều kiện’. Người ta có thể liên tưởng ngay đến những lời mà Hannah Arendt đã nói khi đề cập đến Otto Adolf Eichmann, một trong số những nhân vật chủ chốt của Holocaust, người cho rằng những điều mình làm chỉ là phục tùng mệnh lệnh, thực hiện nghĩa vụ giống như Kant đã giảng dạy. Hannah Arendt nói:
“Toàn bộ đạo đức của Kant đi đến điểm này, đó là mỗi người ở mỗi hành động đều phải suy ngẫm xem liệu phương châm hành động của mình có thể trở thành một quy luật phổ quát được không. […] Có thể nói đây chính là cái đối lập nhất với sự phục tùng (Gehorsam)! Mỗi người là một người đưa ra luật lệ (Gesetzgeber). Theo Kant, không ai có quyền để phục tùng.”[81]
Một người có thể đồng tình hoặc không đồng tình với cách lập luận của Kant, có thể thấy những ví dụ Kant đưa ra là thuyết phục hay không thuyết phục; bởi vậy nên mới có những cuộc tranh luận triết học. Và triết học luân lí của Kant không phải là một nơi ít có những cuộc tranh luận. Nhưng nếu muốn phê phán luân lí học của Kant thì người ta cần phải trình bày học thuyết của ông một cách chính xác, khoa học, khách quan như có thể rồi mới lập luận phê bình, phản biện. Không ai lại đi bóp méo một lí thuyết (chẳng hạn như qua việc dịch sai khái niệm hoặc hiểu sai vấn đề) rồi lại đi phê phán cái lí thuyết đã bị bóp méo cả. Đáng tiếc, trong bài phản biện Kant, những phê bình của ông NHL dành cho luân lí học của Kant đều xuất phát từ một cách hiểu sai lệch luân lí học của triết gia này.
III. KANT VÀ VAI TRÒ CỦA NGÔN NGỮ TRONG TƯ DUY
Trong mục 3, ông NHL viết:
“Thiếu vắng một triết luận về vai trò ngôn ngữ. (…) Trong lý thuyết về sự kiến lập của tri kiến và kinh nghiệm, nhà Phật đã có thêm “pháp” (tư duy) tiếp theo sắc, thanh, hương, vị, xúc nhằm hoàn tất khả thể thực nghiệm. Cấu trúc tư duy tiên nghiệm và tiên thiên của Kant cũng chính là “pháp.””
Chúng ta sẽ dừng lại ở đây một chút. Đọc qua đoạn văn này thì người ta có thể đánh giá ngay được trình độ triết học Phật giáo của ông NHL. ‘Sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp’ là ‘sáu trần’ hay ‘sáu ngoại xứ’, còn ‘sáu căn’ hay ‘sáu nội xứ’ tương ứng là ‘nhãn, nhĩ, tỉ, thiệt, thân, ý’. ‘Pháp’ ở đây là cái đã được nghĩ, là các đối tượng của tư duy. Khái niệm ‘Pháp’ ở đây liên quan gì đến các cấu trúc tư duy tiên nghiệm của Kant? Mặt khác, cấu trúc tư duy tiên nghiệm của Kant thuộc về chủ thể (tạm gọi là ‘nội xứ’, nếu áp dụng cách so sánh của ông NHL), trong khi sáu trần mà ông NHL kể ra là các ‘ngoại xứ’, đâu thể so sánh được với nhau?
Bên cạnh đó, cụm từ ‘tiên nghiệm và tiên thiên’ tương đối khó hiểu vì hai từ này hoàn toàn đồng nghĩa trong triết học Kant, tức ‘a priori’.
Ông NHL viết tiếp:
“Nhưng Kant bỏ quên rằng khái niệm vốn khai mở cho trực giác cần phải dựa trên ngôn từ. Công thức của Kant phải được cộng thêm, “Ngôn từ không khái niệm là vô nghĩa; Khái niệm thiếu ngôn từ là u tối.” Từ Hy Lạp, Ấn độ, từ Phật Thích Ca, Thế Thân (Vasubandu[sic.]) đến Plato đều có bàn đến vai trò ngôn ngữ trong kinh nghiệm và tri thức. Kant hoàn toàn bỏ qua. Đây là lỗ hổng lớn kéo dài theo sau Kant cho đến gần đây thì phong trào triết học ngôn ngữ ở Anh Mỹ mới điền vào khỏang trống đó.”
Vẫn là phong cách văn tổng hợp pha trộn của ông NHL, liệt kê những gì hoàn toàn không liên quan đến nhau vào trong một câu. Nói vui một chút, nếu như ông NHL bổ sung thêm Công Tôn Long hay Huệ Thi thuộc phái Danh gia của Trung Quốc vào đây thì đoạn văn này của ông sẽ đủ ‘cả Tây lẫn Tàu’, mang tầm cỡ triết học toàn thế giới.
Nhưng phát biểu đáng nói nhất ở đây là câu ‘Kant hoàn toàn bỏ qua [vai trò của ngôn ngữ]’ (in đậm của người viết). Vấn đề là Kant có bàn về ngôn ngữ và vai trò của nó đối với việc tạo ra các khái niệm. Kant có thể không có một triết học ngôn ngữ được triển khai một cách chi tiết, công phu, nhưng điều đó không có nghĩa là ông không nói gì về ngôn ngữ. Kant viết trong tác phẩm Anthropologie in pragmatischer Hinsicht (‘Nhân loại học trong khía cạnh thực dụng’)[82]
“Hình dạng của đối tượng không được đưa ra bởi việc nghe, và những âm được phát ra không trực tiếp dẫn đến ý tưởng về đối tượng, nhưng chính vì vậy, và vì những âm được phát ra tự chúng không chỉ ra thứ gì cả – ít nhất là không phải các đối tượng, cùng lắm chỉ là những cảm xúc nội tại –, chúng là những phương tiện phù hợp nhất cho việc miêu tả những khái niệm; và những người điếc bẩm sinh, những người mà chính vì vậy cũng sẽ mãi bị câm (không có ngôn ngữ), sẽ không bao giờ có thể đạt được thứ gì hơn là một vật tương tự (Analogon) của lí tính.”
Như vậy là Kant cũng đã để ý đến vai trò của từ ngữ trong việc diễn tả khái niệm và có đưa ra nhận xét, dù văn phong có phần hơi hạ miệt (cũng như Hegel, Kant là đứa con của thời đại của mình), rằng những người không được tiếp xúc với âm thanh của ngôn ngữ (ngôn từ) thì sẽ không thể đạt được lí tính thực sự (cùng lắm thì chỉ có thể đạt được một cái gần giống lí tính).
Hoặc một ví dụ khác trong số nhiều ví dụ mà Kant nói về vai trò của ngôn ngữ, ông lập luận trong một tác phẩm thời kì tiền Phê phán là Untersuchung über die Deutlichkeit der Grundsätze der natürlichen Theologie und der Moral (‘Nghiên cứu về tính rõ ràng của các định lí cơ sở của thần học tự nhiên và đạo đức’). Kant viết khi so sánh phương pháp của hình học và triết học:[83]
“Nếu như người ta so sánh phương pháp của triết học (Weltweisheit) với [phương pháp của hình học] thì nó hoàn toàn khác biệt. Các kí hiệu của sự khảo lự/trầm tư triết học không bao giờ có thể là gì khác ngoài từ ngữ, thứ trong tổ hợp (Zusammensetzung) của chúng không thể cho thấy những khái niệm thành phần (Teilbegriff) mà từ đó toàn bộ ý niệm, thứ mà từ ngữ gợi ra, được cấu thành; từ ngữ trong sự liên kết của chúng cũng không có khả năng vạch ra mối quan hệ của những tư tưởng triết học. Bởi vậy, người ta trong khi suy tư thuộc chủng loại tri thức này phải có đối tượng ở ngay trước mắt và bị cưỡng bách phải hình dung cái phổ biến (das Allgemeine) một cách trừu tượng (in abstracto) mà không thể sử dụng sự làm giảm gánh nặng (Erleichterung) quan trọng sau, đó là xử lí các kí hiệu riêng biệt thay vì những khái niệm tổng quát của những vấn đề.”
Hoặc tại một vài đoạn văn sau đó:
“Trong triết học nói chung và trong siêu hình học nói riêng thì những từ ngữ có được ý nghĩa (Bedeutung) của nó thông qua ngữ dụng (Redegebrauch), trừ khi ý nghĩa đã được xác định chính xác hơn thông qua giới hạn logic. Tuy nhiên, khá thường xảy ra là chỉ một từ được sử dụng cho những khái niệm rất giống nhau nhưng mặc dù vậy vẫn chứa đựng một sự khác biệt đáng kể; do đó mà người ta, mỗi khi áp dụng một khái niệm mà ngay cả khi sự gọi tên (Benennung) nó [khái niệm] theo ngữ dụng trông có vẻ hoàn toàn phù hợp, phải chú ý với sự cẩn trọng lớn, rằng liệu đó có phải là cùng một khái niệm đang được kết nối với chính cùng một kí hiệu ở đây hay không.”[84]
Như vậy là Kant có chú ý đến vấn đề ngôn ngữ chứ không ‘hoàn toàn bỏ qua’ như ông NHL đã viết, dù đúng là Kant đã không bàn luận nhiều về chủ đề này. Một cách nổi tiếng, Kant cũng đã tranh luận với Herder về vai trò của ngôn ngữ trong tư duy. Sau này Kant cũng quay trở lại chủ đề ngôn ngữ trong một số tác phẩm sau này của mình, chẳng hạn như trong Phê phán lí tính thuần tuý. Cuốn Klassiker der Sprachphilosophie: Von Platon bis Noam Chomsky (‘Những tác gia kinh điển của triết học ngôn ngữ: Từ Platon đến Noam Chomsky’) viết, dù Kant không có ‘triết học ngôn ngữ được triển khai chi tiết và liên quán, không có một triết gia thời hiện đại nào đã có ảnh hưởng lớn hơn ông đến triết học ngôn ngữ’ (tr. 233) và bước ngoặt ngôn ngữ (linguistic turn) trong triết học của thế kỉ vừa qua là một sự khuếch trương bước ngoặt Copernicus của Kant (tr. 255).
Nếu như ông NHL không biết về chủ đề mình đang viết hoặc không chắc chắn lắm về kiến thức của mình thì ông NHL luôn có thể tra cứu tài liệu, chẳng hạn như tra cứu Google với các từ khoá ‘Kant’, ‘problem of language’, ‘philosophy of language’, v.v. Điều khó hiểu nhất vẫn là không biết tại sao ông NHL có thể viết một cách rất tự tin về những gì mà mình hoàn toàn không biết hoặc không hiểu, như trong trường hợp này là Kant và khái niệm ‘Pháp’ trong ‘lục trần’ của triết học Phật giáo.
IV. SỬ TÍNH TRONG TRIẾT HỌC KANT
Ông NHL mở đầu mục 4 của mình với những câu sau đây:
“Đâu là sử tính trong triết học Kant? Ở đó, hoàn toàn không có sự hiện diện của thời tính, của nhịp điệu biến cố trong thời thế, của những con người lịch sử, và cả những điều thông hiểu về những ngu dốt sai lầm của nhân loại. Không như Hegel đã muốn kiến tạo một thiên bi sử cho giòng ý thức nhân loại qua văn minh và thời đại để biện minh cho một tinh thần thế giới qua thời gian; thì trái lại, Kant đứng yên một nơi, nhìn xem và đánh giá thế gian như là quang cảnh đơn sơ của khu phố nhỏ của mình.”
Ông NHL đang bàn về triết học thì bỗng nhiên lôi những chi tiết mang tính tiểu sử vào, mặt khác thì ông NHL miêu tả Kant như thể triết gia này là người hàng xóm của ông, người mà ông trực tiếp quen biết: ‘Kant đứng yên một nơi, nhìn xem và đánh giá thế gian như là quang cảnh đơn sơ của khu phố nhỏ của mình’. Sao ông NHL biết Kant ở ‘một khu phố nhỏ’, rằng đó là một nơi ‘có quang cảnh đơn sơ’? Ông từng đến thăm nhà và gặp Kant rồi chăng?
Kant sinh ra và sống ở Königsberg, nơi ông miêu tả là ‘một thành phố lớn, trung tâm của một vương quốc’, nơi có hoạt động giao thương, giao lưu văn hoá thuận lợi nhờ các con sông và vị trí đắc địa, ‘một thành phố như thế này, như Königsberg bên sông Pregel, có thể được lấy làm một chỗ thích hợp để mở mang kiến thức con người cũng như kiến thức thế gian’.[85] Nhà của Kant nằm gần lâu đài Phổ-lỗ-sĩ, trung tâm của thành phố, dù không rõ là ‘quang cảnh’ nơi đây có ‘đơn sơ’ hay không, nhưng chắc chắn là nơi Kant ở không phải là một ‘khu phố nhỏ’.
Từ trái sang phải: Tranh vẽ ngôi nhà hai tầng của Kant (vẽ năm 1842), phần nhà một tầng bên trái toà nhà là giảng đường tại gia của Kant, có thể nhìn thấy đằng sau, phần giữa bên trái bức hình, là lâu đài Königsberg. Hình bên cạnh là không ảnh chụp khu phố cổ của Königsberg năm 1925, với trung tâm là lâu đài Königsberg, có thể nhận ra phần lâu đài được minh hoạ trong tranh vẽ nhà Kant. Tất cả các công trình này đều đã bị phá huỷ.[86]
Nếu bỏ qua vấn đề trên, thì toàn bộ đoạn văn viết về Kant trên của ông NHL cũng không có một chi tiết nào đúng. Kant biết rõ về tình hình lịch sử thế giới vào thời của ông, nhất là Cách mạng Pháp. Chứng kiến cuộc cách mạng đang dần dần trở nên đẫm máu và kinh hoàng hơn bao giờ hết này, Kant hẳn đã quá đỗi quen thuộc về ‘những ngu dốt sai lầm của nhân loại’. Kant viết như sau về lịch sử, trong cuốn Idee zu einer allgemeinen Geschichte in weltbürgerlicher Absicht (‘Ý niệm hướng đến một lịch sử tổng quát trong ý đồ công dân thế giới’):
“Người ta không thể kháng cự lại một sự bất mãn nhất định khi nhìn thấy những gì con người làm được dựng lên trong sân khấu thế giới rộng lớn và [tuy đôi lúc thấy họ] bên cái có vẻ như là trí tuệ trong [trường hợp] đơn lẻ, nhưng cuối cùng, nhìn một cách tổng quát, người ta phát hiện ra rằng tất cả đều được đan dệt từ sự ngu dốt, sự hư vinh ấu trĩ, thường cũng cả sự xấu xa và sự nghiện tàn phá ấu trĩ.”[87]
Kant không những biết về những khuyết điểm của con người (ngu dốt, hư vinh, xấu xa, nghiện tàn phá) mà còn nhấn mạnh rằng đây là thứ chiếm ưu thế rõ ràng trong lịch sử loài người, trong khi ‘trí tuệ’ thì chỉ xuất hiện đây đó nơi những cá nhân đơn lẻ. Tại điểm này, người ta được phép nghi ngờ rằng ông NHL phản biện Kant mà không đọc bất cứ thứ gì mà triết gia này đã viết. Giống như với trường hợp của Hegel, ông chỉ ‘đọc’ một ít nguyên tác, ‘đọc’ một ít tài liệu thứ yếu rồi sau đó bắt đầu tưởng tượng với đủ thứ thiên kiến của mình.
Chúng ta sẽ phân tích tiếp nửa sau của đoạn trích:
“Không như Hegel đã muốn kiến tạo một thiên bi sử cho giòng ý thức nhân loại qua văn minh và thời đại để biện minh cho một tinh thần thế giới qua thời gian; thì trái lại, Kant đứng yên một nơi, nhìn xem và đánh giá thế gian như là quang cảnh đơn sơ của khu phố nhỏ của mình.”
Không phải đến Hegel, Kant đã là người quan niệm lịch sử của nhân loại là sự tiến bộ hướng đến tự do. Như có thể tóm tắt từ những câu đầu bài luận Idee, lịch sử là sự ‘tự thuật’ (Erzählung) những ‘hiện tượng’ (Erscheinung) của ‘sự tự do của ý chí’ (Freiheit des Willens), là ‘sự phát triển chậm rãi những khuynh hướng nguyên hữu [của con người]’ (‘langsame Entwicklung der ursprünglichen Anlagen’). Lịch sử nên tiến bộ tới một trạng thái mà con người có thể chung sống trong tự do ngoại tại, để cho con người có thể phát triển toàn bộ sức lực và khuynh hướng của mình. Sự chung sống này hiện thực hoá chính mình trong nhà nước pháp quyền (nhà nước công chính, gerechter Staat), thứ sẽ chấm dứt bạo quyền và sự man rợ nơi con người. Mục đích của lịch sử nằm ở chỗ thiết lập những nhà nước pháp quyền và một sự chung sống hợp pháp, công chính giữa những nhà nước với nhau.[88]
Ngày nay, người ta nhớ đến Hegel với câu nói: ‘Lịch sử thế giới là sự tiến bộ trong ý thức về tự do – một sự tiến bộ mà chúng ta phải nhận ra trong tính tất yếu của nó’.[89] Nhưng không phải chờ tới Hegel, quan điểm triết học coi lịch sử như một quá trình đi tới tự do đã được bàn đến bởi Kant rồi, dù tất nhiên là ông không triển khai nó thành một hệ thống đồ sộ như Hegel. Thậm chí, một người sẽ không thể hiểu được trọn vẹn Hegel nếu như trước đó không biết đến Kant và những vấn đề mà triết học của ông đặt ra. Loại bỏ hoàn toàn ‘triết học lịch sử’ của Kant rồi sau đó hỏi ‘Đâu là sử tính trong triết học Kant?’ là một điều hết sức nực cười. Những điều mà ông NHL tưởng là Kant không biết thì thực ra là Kant đã nói về chúng, chỉ là ông NHL đã không tìm hiểu trước khi phản biện một cách cẩu thả mà thôi.
Đang nói về sử tính, bỗng nhiên ông NHL nhảy sang lĩnh vực luân lí rồi hỏi một câu không liên quan là ‘Có phải đạo đức luận của Kant muốn tách rời thực tại thế gian ra khỏi biên độ lý thuyết vì ông ta biết rằng nó không thể áp dụng được?’, sau khi đã trích lại một câu mà ông NHL tưởng là trong cuốn Phê phán lí tính thực hành nhưng thực ra không phải. Song do phần này được xây dựng trên một hiểu biết sai lầm của ông NHL về triết học lịch sử và luân lí học của Kant nên không cần phải phân tích thêm ở đây nữa. Chúng tôi thậm chí còn không chắc nửa sau của phần 4 này thực sự có liên quan gì đến triết học của Kant hay không.
V. HỌC THUYẾT CHÍNH TRỊ CỦA KANT
Ông NHL viết trong mục 6:
“Kant đề ra những công thức mệnh lệnh cho cá nhân, nhưng không bàn gì đến một lý tưởng cho nhân loại. Triết học lịch sử và chính trị của Kant là tập hợp những công thức gần như toán học cho những ý niệm về hòa bình, về xã hội dân sự – nhưng không phác họa một chân lý tối hậu cho sử tính. (…) Tuy nhiên, cho những triết nhân thao thức đi tìm con lộ giải thoát cho nhân loại thì Kant chỉ là một tiếng kèn tỉnh thức để soi chiếu chính tự thân chứ không trả lời những vấn nạn khúc mắc thế gian.”
Như đã nhắc đến trong mục trước, Kant có phác thảo triết học lịch sử chứ không phải không ‘phác họa một chân lý tối hậu cho sử tính’. Bên cạnh đó, đoạn văn này tự nó đã chứa đựng mâu thuẫn, ông NHL viết, Kant ‘không trả lời những vấn nạn khúc mắc thế gian’, chỉ có thể giúp ích cho ‘soi chiếu chính tự thân’, nhưng ngay trước đó thì ông phê bình ‘triết học lịch sử và chính trị của Kant’. Vậy là Kant thực sự có viết về chính trị, xã hội, chứ đâu phải không ‘trả lời những vấn nạn khúc mắc thế gian’, chỉ bàn về vai trò của mỗi cá nhân?
Ngoài ra, phê bình ‘triết học lịch sử và chính trị của Kant là tập hợp những công thức gần như toán học cho những ý niệm về hòa bình, về xã hội dân sự’ là một phê bình rất khó hiểu và chủ quan. Thế nào là những ‘công thức gần như toán học’? Văn bản liên quan đến chính trị nổi tiếng nhất của Kant có lẽ là Zum ewigen Frieden. Ein philosophischer Entwurf (‘Hướng tới nền hoà bình vĩnh cửu. Một phác thảo triết học’), trong đó Kant nêu ra một số điều mục tiên quyết để một nền hoà bình trường tồn giữa các quốc gia có thể trở thành hiện thực, một số điều mục ở đây là:
1. Không có hiệp ước hoà bình nào có giá trị khi mà hiệp ước đó được thực hiện với một sự dự trữ bí mật nguyên vật liệu cho một cuộc chiến trong tương lai.
2. Không có một quốc gia độc lập nào, bất cứ lớn hay nhỏ, có thể bị thu đắc bởi một quốc gia khác thông qua thừa kế, trao đổi, buôn bán hoặc trao tặng.
Và có lẽ nổi tiếng nhất là điều mục thứ 5:
5. Không một quốc gia nào được phép can thiệp bằng vũ lực vào hiến pháp và chính quyền của một quốc gia khác.
Những điều mục này ‘toán học’ ở chỗ nào?
Mặt khác, không ai có thể phủ định rằng văn bản như Zum ewigen Frieden đã gây một ảnh hưởng lớn đến chính trị thế giới. Nổi bật nhất, những ý tưởng của Kant đóng vai trò quan trọng và có tính nền tảng trong sự thành lập của Hội Quốc Liên (League of Nations) và sau đó là Liên Hiệp Quốc (United Nations). Ví dụ, phản ánh rõ ràng những tư tưởng của Kant, điều 2. của chương I Hiến chương Liên Hợp Quốc có viết:[90]
“Tất cả các quốc gia thành viên Liên Hợp Quốc từ bỏ đe dọa bằng vũ lực hoặc sử dụng vũ lực trong quan hệ quốc tế nhằm chống lại sự bất khả xâm phạm về lãnh thổ hay nền độc lập chính trị của bất kỳ quốc gia nào cũng như bằng cách khác trái với những mục đích của Liên Hợp Quốc.”
Ngay cả các văn bản triết học không liên quan trực tiếp đến chính trị của Kant cũng có những tư tưởng ảnh hưởng trực tiếp đến những vấn đề chính trị, xã hội. Ví dụ, Kant viết trong cuốn Đặt cơ sở:[91]
“Trong vương quốc của mục đích (Reich der Zwecke), mọi thứ có giá trị (Preis) hoặc tôn nghiêm (Würde). Đối với thứ gì có giá trị, người ta có thể đặt vào vị trí của nó một cái gì đó khác làm cái tương đương (Äquivalent); trái lại, thứ gì cao hơn tất cả giá trị, do vậy không cho phép cái tương đương gì cả, thứ đó có tôn nghiêm.”
Tư tưởng này của Kant được vọng lại một cách rõ rệt trong điều đầu tiên của Cơ bản pháp Cộng hoà liên bang Đức quốc (Grundgesetz für die Bundesrepublik Deutschland):
“Die Menschenwürde ist unantastbar.”
Tôn nghiêm của con người là bất khả xâm phạm.
Như vậy, triết học của Kant rõ ràng đã và vẫn đang có một ảnh hưởng rõ ràng đến các vấn đề cơ bản của con người, chính trị và xã hội, đâu phải là dửng dưng trước ‘những vấn nạn khúc mắc thế gian’ như ông NHL viết?
Nhưng vẫn là lối viết văn rất tự tin về những gì mình không hề biết, ông NHL viết trong mục 7:
“Đọc Kant, ta không có một hứng khởi cảm xúc về thế gian, về lịch sử, về con người, về cuộc sống gian khổ – dù may ra ta chỉ tìm được niềm hoan lạc tri thức thuần lý. Cầm sách Kant trên tay ta chỉ muốn hiểu hết, đọc đến trang cuối cho xong. Chỉ có những giáo sư chuyên ngành về Kant mới cần đến chúng cho nhu cầu giáo khoa. Sách của Kant, như là các bản Việt ngữ của BVNS, dù là những công trình dịch thuật tuyệt hảo, vẫn còn là một công án cho ý chí học hỏi, điều mà giới trẻ trí thức thời nay ít ai kham nỗi.”
Có buồn cười lắm không khi ông NHL, chưa từng thực sự hiểu những gì Kant viết, nếu thực sự ông có đọc triết gia này, lại đi phê bình ‘đọc Kant, ta không có một hứng khởi cảm xúc về thế gian, về lịch sử, về con người, về cuộc sống gian khổ – dù may ra ta chỉ tìm được niềm hoan lạc tri thức thuần lý’. Đây là triết học Kant qua cái nhìn méo mó của một người chưa từng đọc hiểu triết gia này như ông NHL, chứ đâu phải là triết học Kant được đánh giá khách quan và khoa học. Chỉ nêu một ví dụ đối lập để xoá bỏ những cliché mà ông NHL viết về Kant. Giáo sư Kurt Huber, thành viên của nhóm chống Quốc Xã có tên Hoa hồng trắng (Weiße Rose), đã nhắc đến định ngôn lệnh thức của Kant trong những lời cuối cùng tại phiên toà xét xử mình:
“Là một công dân Đức, một giáo sư Đức và một con người chính trị, tôi nhìn nhận việc tham gia vào định hình lịch sử nước Đức, phát hiện và đấu tranh chống lại những tổn hại rõ ràng không chỉ là một quyền, mà còn là một nghĩa vụ đạo đức. (…) Tôi đã tự hỏi mình theo ý nghĩa của định ngôn lệnh thức của Kant, điều gì đã có thể xảy ra nếu như phương châm hành động chủ quan của tôi trở thành một quy luật phổ quát. Chỉ có một câu trả lời cho việc này: Khi đó thì trật tự, sự an toàn, sự tin cậy sẽ quay lại nhà nước của chúng ta.”[92]
Ba tháng sau, tháng 7 năm 1943, giáo sư Huber bị xử tử bằng máy chém. Hai tháng trước khi phiên toà xét xử Huber diễn ra, một số thành viên khác của nhóm Hoa hồng trắng là Christoph Probst và hai anh em Scholl cũng đã bị xử chém vì tội phản quốc. Probst khi đó 23 tuổi, Hans Scholl 24 tuổi, còn Sophie Scholl mới 21 tuổi. Nếu thứ duy nhất mà một người thu được khi đọc Kant chỉ là một ‘niềm hoan lạc tri thức thuần lý’, ‘không có một hứng khởi cảm xúc về thế gian, về lịch sử, về con người’, điều gì ở Kant đã khiến Kurt Huber đứng lên chống lại sự cai trị của đảng Quốc Xã Đức?
VI. KẾT LUẬN CHO BÀI PHẢN BIỆN KANT CỦA GS NHL
Nhìn một cách tổng quát, có thể nói bài phản biện triết học Kant của ông NHL không gì hơn là một trò cười cho những người thực sự có kiến thức về triết gia này. Bên cạnh những đoạn ông NHL suy đoán vô căn cứ, chẳng hạn như ‘quang cảnh đơn sơ của khu phố nhỏ’, thì là những đoạn văn sai hoàn toàn về kiến thức triết học. Điều này cũng không ngạc nhiên vì như chúng tôi đã chỉ ra trong các phần trước và càng được làm rõ ở phần này, ông NHL không có khả năng đọc hiểu đúng tài liệu triết học bằng tiếng Anh, thể hiện rõ nhất là qua cách ông dịch những gì mà ông đã đọc. Thêm vào đó là một tính cẩu thả không thể chấp nhận đối với một ‘giáo sư triết học’, ông trích một câu trong tác phẩm Đặt cơ sở nhưng lại tưởng mình đang trích tác phẩm Phê phán lí tính thực hành vì không đọc lại tiêu đề tài liệu tham khảo mà mình đang dùng. (!) Ông NHL cũng không có một kiến thức gì về những tác phẩm triết học không phải bộ ba ‘Phê phán’ của Kant. Tuy không đọc gì về Kant, ông NHL không hiểu sao lại phê bình Kant hết đỗi tự tin bằng những từ ngữ như, ‘Kant hoàn toàn bỏ qua [vai trò của ngôn ngữ]’, ‘Đâu là sử tính trong triết học Kant?’, ‘Vậy thì mệnh lệnh đạo lý làm người sẽ áp dụng cho ai đây?’, hay đọc Kant chỉ cho ta một ‘niềm hoan lạc tri thức thuần lý’.
Lưu ý, chúng tôi không nói triết học của Kant là một triết học hoàn hảo, không thể phản biện. Đã có rất nhiều triết gia phản biện, thảo luận về những chủ đề lớn trong triết học Kant và những cuộc tranh luận vẫn đang tiếp tục diễn ra cho đến ngày hôm nay. Nhưng một người tối thiểu cũng phải đọc hiểu được những gì Kant viết trước khi phản biện ông. Bài phản biện của ông NHL không phải là phản biện triết học Kant, mà là phản biện cái phiên bản triết học Kant đã bị cắt xén, xuyên tạc, làm biến dạng qua cách ‘đọc hiểu’ của ông NHL. Người ta sẽ phải tự hỏi, chẳng lẽ kiến thức của một ‘giáo sư triết học’ có thể tệ đến vậy. Một câu trả lời khẳng định cho câu hỏi trên bây giờ cũng không có gì bất ngờ nữa, nếu như độc giả đã đọc hết toàn bộ các phần đi trước.
Bài viết ‘Thông tin Triết học’ trên Tạp chí Triết số 13 có trích dẫn một câu trong bài viết của TS Dương Ngọc Dũng (DND) về GS Liêm vào năm 2020 như sau:
“Có thể nói mà không sợ mang tiếng quá phóng đại rằng Nguyễn Hữu Liêm đang là Hegel của Việt Nam. Ông đã thổi một luồng sinh khí mới vào một lãnh vực xưa nay vốn vẫn chỉ dành riêng cho một thiểu số đặc biệt. Ông đi thẳng vào những vấn đề triết học mà ông quan tâm nhất: Hegel, Fukuyama, Wilber, và truyền thống huyền học (esoteric tradition) Tây Phương.”
Điều thú vị là cách đó gần 30 năm, ông DND đã viết như sau về ông NHL trong cuốn ‘Nhận định về các trí thức phật giáo trong nhóm Giao Điểm Hoa Kỳ’:[93]
“Tôi muốn tìm hiểu và lật mặt nạ các động cơ tâm lý khiến những kẻ dốt nát, bất tài lại thích đề cập đến những vấn đề tư tưởng, triết học đao to búa lớn. Không hiểu tại sao văn hóa Việt Nam lại có thể dung chứa một đại bộ phận bất hảo, học vấn lai căng chẳng ra gì lại thích viết báo, viết sách nói về những điều mình chưa hề được học hỏi bao giờ, chẳng hạn Nguyễn Hữu Liêm, một người tự cho mình là triết gia, lập thuyết triết học trong khi hoàn toàn dốt nát về triết học Tây Phương (…)” (Chương 8, phần a)
hoặc:
“Mục tiêu của chương này là phê bình bài viết “Phê Bình Những Phê Bình về Các Tôn Giáo Dân Tộc” của Lý Khôi Việt (Lê Hiếu Liêm) đăng trong Tạp chí Triết số 2 tháng 6 năm 96 do Nguyễn Hữu Liêm làm chủ nhiệm. Đây là một điều kỳ lạ vì Lý Khôi Việt thuộc nhóm Giao Điểm, nhưng khi chúng ta đi vào các bài viết của bản thân Nguyễn Hữu Liêm là người điều hành trực tiếp Tạp chí Triết, chúng ta sẽ không còn ngạc nhiên nữa: bản thân Nguyễn Hữu Liêm cũng như Lý Khôi Việt hay Trần Chung Ngọc cùng chia sẻ những hằn học, đố kỵ nói chung với những trí thức được đào tạo chuyên môn trong lãnh vực của họ và cũng có thái độ sùng bái sự thông kim bác cổ, không hề đi học, nhưng thích lập thuyết dạy dỗ cho toàn thể nhân loại.” (Chương 9)
Việc tại sao những quan điểm của ông DND có vẻ mâu thuẫn với nhau nằm ngoài phạm vi bài viết này. Nhưng cũng cần phải được nhắc đến ở đây là ông DND sau này lại không khẳng định lại danh hiệu ‘Hegel của Việt Nam’ của ông NHL, như ông viết trong thư chủ bút Tạp chí Triết học, số 6, tháng 10, 2021:[94]
“Thú thật tôi vô cùng cáu tiết với một văn phong ngập tràn lối viết hoa theo kiểu tiếng Đức của tác giả, cộng thêm rất nhiều từ Hán Việt hết sức cồng kềnh và nặng nề. Có lẽ tác giả muốn noi gương Hegel: “Một triết gia vĩ đại phải tra tấn hành hạ những người muốn hiểu ông ta.” Chưa biết Nguyễn Hữu Liêm trong tương lai có phải là Hegel của Việt Nam hay không nhưng chắc chắn những ai đọc sách của ông đều phải chấp nhận “bị tra tấn hành hạ.”
Hoặc thậm chí có phần châm biếm danh hiệu ‘Hegel’ này:[95]
“Chẳng hạn ngôn ngữ và truyền thống văn hóa Đức đã sản sinh ra triết học Kant, Hegel, Habermas, Gadamer, Husserl. (…) Còn chúng ta sống trong truyền thống văn hóa Việt Nam mà lại cố gắng nói năng giống như Hegel thì chỉ là làm dáng hay đóng kịch triết học mà thôi.”
Nếu đã đọc những gì GS NHL đã viết về triết học được trích trong quyển này thì độc giả có lẽ đã nhận thấy rằng, những miêu tả của ông DND về ông NHL trước kia có vẻ chính xác hơn, như ‘thích đề cập đến những vấn đề tư tưởng, triết học đao to búa lớn’, ‘học vấn lai căng chẳng ra gì lại thích viết báo, viết sách nói về những điều mình chưa hề được học hỏi bao giờ’ hay ‘tự cho mình là triết gia, lập thuyết triết học trong khi hoàn toàn dốt nát về triết học Tây Phương’.
Ông NHL không biết tiếng Đức và chữ Hán đứng sau các từ Hán-Việt nhưng lại thích phân tích từ Hán-Việt và tự chế ra những từ Hán-Việt mới, mà những từ này đa phần là vô nghĩa hoặc ít nhất thì không có một ý nghĩa xác định, khiến cho ngay cả ông NHL cũng sử dụng chúng sai lung tung (xem mục B.I). Ông NHL đề cập đến những vấn đề lớn lao như chuyển động của lịch sử thế giới (tức bao gồm Việt Nam, Trung Quốc, Ấn-độ và châu Âu) bằng cách áp dụng triết học Hegel, trong khi ông không hề đọc hiểu đúng được các văn bản của triết gia này bằng tiếng Anh. Chúng tôi có lấy một số đoạn văn ngẫu nhiên được ông NHL dịch mà không có đoạn văn nào ông NHL dịch đúng; những lỗi sai của ông NHL là những lỗi sai cơ bản về ngữ pháp tiếng Anh, chưa bàn gì tới tư tưởng (xem B.II). Có lẽ ví dụ rõ và khôi hài nhất cho khả năng đọc hiểu tiếng Anh kém cỏi của ông NHL là cách ông đọc triết gia Feyerabend, ông không hề biết triết gia này đang chỉ trích điều gì và có quan điểm gì. Ông lầm tưởng Feyerabend phản bác các nhà khoa học trong bài The Strange Case of Astrology đồng nghĩa với việc người này bảo vệ chiêm tinh thuật và liên tục trích dẫn Feyerabend nhằm bảo vệ niềm tin của mình; trong khi chính triết gia này cũng coi chiêm tinh thuật là một trò lừa những người không biết gì. Làm sao một ‘giáo sư triết học’ có thể có khả năng đọc hiểu văn bản kém đến thế?
Với một khả năng ngôn ngữ như vậy, việc ông NHL không có kiến thức chính xác về triết học là điều không có gì khó hiểu, thứ khó hiểu duy nhất ở đây là không biết động lực nào đã khiến cho ông NHL tự tin nói và viết một cách rất chắc chắn những điều mình không hề biết hay được học, từ những việc nhỏ như phân tích từ Hán-Việt, đọc tiếng Đức, trích Truyện Kiều đến những việc lớn hơn như viết bài phê bình triết gia khác hay viết sách để công bố triết thuyết do ông NHL lập ra. Nhưng cơ sở nào để ông NHL lập triết thuyết khi ông không có kiến thức nào về triết học, khoa học tự nhiên, kiến thức lịch sử, văn hoá, địa lí, dù đây có thể là những kiến thức cơ bản nhất (ông NHL áp dụng học thuyết lịch sử của Hegel và tưởng Bồ Đào Nha nằm ở phía Đông Anh Quốc (!), xem mục C.I). Cách ông NHL viết về con người và văn hoá Việt Nam thì đầy những thiên kiến, những ý kiến chủ quan vô căn cứ và không thiếu màu sắc phân biệt vùng miền. Hình như ông NHL đã có sẵn một hình ảnh méo mó về người Việt Nam rồi sau đó nghĩ ra đủ thứ triết luận và ‘dẫn chứng’ để biện hộ cho cách nhìn này của ông, chẳng hạn như ‘chakra Việt Nam’, Truyện Kiều phản ánh đời sống tâm linh bi đát của người Việt, vài ca sĩ mà ông NHL chọn ra có thể phản ánh được trình độ ‘tâm thức’ của cả một dân tộc, v.v. Càng đọc và suy nghĩ về những bài viết của ông thì người ta càng nhận ra được càng nhiều sai lầm, mâu thuẫn.
Nói ngắn gọn, ông NHL chưa từng biết gì về triết học thực sự và học thuyết Liêmism của ông không là gì khác ngoài sự tưởng tượng chủ quan của ông.
Trường hợp của ông NHL là một trường hợp thú vị. Những lời mà DND đã viết về ông NHL cách đây gần 30 năm cho đến nay vẫn còn chính xác, hầu như không sai ở điểm nào. Trường hợp của ông NHL cho thấy rõ một điều, một người không thể học triết học chỉ thông qua việc đọc sách và tưởng tượng, khi không được đào tạo ở một cơ sở học thuật đàng hoàng. Và nếu không có ngoại ngữ thì người ta không thể thực sự nắm bắt và đi sâu vào triết học. Ba mươi năm có thể rất dài, nhưng cũng có thể rất ngắn. Như đối với trường hợp của ông NHL, ba mươi năm vừa qua ông không học thêm được một ngoại ngữ nào, kiến thức Anh ngữ cũng vẫn còn hạn chế, còn kiến thức triết học thì chỉ dừng lại ở mức cơ bản nhất. Bài ông NHL ‘phản biện’ mới được viết vào tháng 4 năm ngoái, do vậy mà nó phản ánh khá đúng trình độ triết học của ông NHL hiện tại. Làm thế nào để giải thích cho hiện tượng giẫm chân tại chỗ trong triết học của ông NHL? Chắc là sẽ phải mượn lời của ngài giáo sư ở chỗ này, đó là ông NHL vẫn còn thiếu ‘ngã thể’, cái ‘năng lực ego’ vẫn còn yếu ớt, chưa biết ‘suy luận thấu đáo’, ‘đến nơi đến chốn’, nhưng sau một vài lần awaken nữa thì ông NHL chắc sẽ học được tiếng Đức và đạt được ‘sự tỉnh thức của tri thức’ mà ông thường nhắc đến.
Người Đức nói von Nichts kommt Nichts, ‘chẳng có gì đến từ hư không’, trường hợp của ông NHL có lẽ là ví dụ rõ ràng nhất cho câu nói này. Không cố gắng thì người ta không thể đạt được thành tựu gì cả, việc đọc một vài cuốn sách tạp loại nào đó (nhất là về mấy chủ đề như ‘tiến hoá’ với ‘vũ trụ học’) chắc chắn là dễ hơn việc kiên trì học một ngoại ngữ cho đến nơi đến chốn, nhưng cái giá phải trả là cuối cùng người ta không biết mình biết thứ gì, thứ mình biết là có đúng hay không. Giá như ông NHL chịu khó đi học và đừng quá tự tin vào khả năng của mình (ông NHL đã viết sách ‘khai giải’ Hegel từ hơn 30 năm nay, dù ông không biết chút gì về triết gia này) thì giờ đây ông NHL đã có thể có một kiến thức tốt hơn, những gì ông viết có thể sẽ có một giá trị nào đó. Ở thời điểm hiện tại, sẽ là an toàn khi người ta giả định rằng các sách và các bài viết của ông NHL không thể được sử dụng cho bất cứ mục đích khoa học nào cả.
Không có triết gia từ trên trời rơi xuống. Hegel cũng phải đi học, ông phải học và rồi thành thạo tiếng Hi-lạp và tiếng La-tinh (Hegel từ bé đã viết một phần nhật kí của mình bằng ngôn ngữ này); theo một số tài liệu, Hegel cũng biết tiếng Pháp và tiếng Anh. Hegel theo học ở Chủng viện Tübinger rồi đến Đại học Jena, những cơ sở đào tạo tốt bậc nhất vào thời của ông, ông cũng đi nhiều nơi để thu về một hiểu biết sâu sắc về lịch sử, văn hoá và nghệ thuật châu Âu. Ông cũng có kiến thức cả về khoa học tự nhiên cũng như các ngành khoa học xã hội như khoa học pháp luật, kinh tế và lịch sử. Triết học của ông có một cơ sở phát triển vững chắc, kế thừa di sản triết học của Kant và xa hơn là di sản văn hoá-tinh thần của châu Âu nói chung. Không thể nào có chuyện một người không biết bất cứ ngoại ngữ nào, không có kiến thức chuyên môn về bất cứ lĩnh vực nào, từ khoa học tự nhiên cho đến khoa học xã hội-nhân văn, lại đùng một cái trở thành ‘triết gia’, trở thành ‘Hegel của Việt Nam’. Dù vậy thì những tác phẩm của ông NHL cũng không phải là không có giá trị. Nếu như không bị đau đầu vì những thuật ngữ và những khái niệm ‘triết học’ lộn xộn có đầy trong những tác phẩm này, chúng tôi tin là độc giả sẽ thấy chúng có tính giải trí khá cao, đủ để cho người ta vài tràng cười trên con đường đi đến ‘Thời Quán’, ‘Trí Huệ’ và ‘cõi Cao hơn’, nơi mà triết gia NHL đang chờ tất cả chúng ta.
Vẫn như mọi lần trước, chúng tôi dành những lời cuối cùng của bài viết để hướng tới độc giả, vốn là đối tượng mà chúng tôi nhắm đến ngay từ đầu. Chúng tôi viết bài này không phải là vì ông NHL mà là vì những ảnh hưởng tiêu cực mà ông đang gây ra đối với những độc giả đã đọc sách của ông, những người đã lầm tưởng rằng ông NHL có kiến thức triết học thực sự và Liêmism thực sự là một học thuyết triết học. Về phần ông NHL thì chúng tôi tin là ông sẽ không thay đổi gì trong tương lai, nếu như ông tiếp tục nói về triết; mặt khác, với khả năng ngôn ngữ và khả năng đọc hiểu mà ông NHL đã thể hiện trong việc đọc các văn bản triết học thì chúng tôi tin là ông cũng sẽ không thể đọc và hiểu hết những điều đang được đề cập ở đây, giả như ông có đọc bài viết này. Chúng tôi hi vọng rằng độc giả qua bài viết này sẽ biết thêm một chút để nâng cao cảnh giác trước hiện tượng NHL và những hiện tượng tương tự vẫn đang còn hiện diện trong môi trường triết học ở Việt Nam. Cuộc đời của một con người là hữu hạn, nếu như người ta lãng phí thời gian quý giá cho những tác phẩm vô bổ thì sẽ càng có ít thời gian để làm được điều gì đó thực sự có ích cho chính mình và mọi người.
Con đường nào là con đường an toàn nhất để đi đến triết học đối với người Việt Nam? Như đã từng nói nhiều lần trong các bài viết khác nhau, chúng tôi giờ đây vẫn nói với sự chắc chắn cao nhất: con đường đến với triết học xuất phát từ ngôn ngữ. Không thể học triết học mà không giỏi ngôn ngữ. Một người Việt Nam muốn tìm hiểu và nghiên cứu triết học phải biết tiếng Anh, song như vậy là chưa đủ; người học triết nên biết thêm các ngoại ngữ châu Âu lục địa để có thể đọc được nguyên tác và các tài liệu chú giải đi kèm, tiếng Đức thường là lựa chọn tối ưu cho những người học triết, sau đó có thể là tiếng Pháp, tiếng Ý v.v., đối với người Việt Nam thì việc biết tiếng Trung Quốc, hay ít nhất là các thành tố Hán-Việt, là cần thiết để hiểu được chính xác các thuật ngữ triết học được dùng trong tiếng Việt. Chúng tôi không thấy lí do chính đáng nào để không học ngoại ngữ trước khi học triết học. Chúng tôi, và chắc cũng giống như nhiều độc giả, bỏ qua lí do được nêu ra trong bài ‘Học Triết như thế nào?’ của ông DND, theo đó thì người Việt Nam không cần học tiếng Đức khi học triết học vì sách tiếng Đức rất đắt, đắt hơn nhiều so với sách tiếng Anh và tiếng Pháp tại Việt Nam, vốn ‘tràn ngập với giá rẻ mạt’ ở các chợ sách cũ. Lí do này chứa đựng trong nó rất nhiều sai sót, những sai sót mà chúng tôi tin là độc giả sẽ tự nhìn ra được, bên cạnh việc đa số các tài liệu triết học Đức giờ đã được số hoá trên Internet và cung cấp miễn phí đến người học.
Một người vẫn có thể đọc triết mà không có ngoại ngữ, tất nhiên, nhưng khi đó thì người đó hãy lưu tâm rằng kiến thức của mình có một cơ sở rất không chắc chắn vì tài liệu tiếng Việt có thể có nhiều sai sót khi chuyển ngữ, song vấn đề nghiêm trọng hơn ở đây là người này không hề có một công cụ nào để đối chiếu, kiểm tra lại cách hiểu triết học của mình. Chúng ta không cần phải đi sâu vào triết học ngôn ngữ hay thuyên thích học (hermeneutics) để biết được rằng ngôn ngữ rất quan trọng trong quá trình học tập, tư duy và truyền đạt thông tin. Triết học trước khi biết ngoại ngữ và sau khi biết ngoại ngữ là hai thứ khác nhau. Chúng tôi không muốn nhắc đến một tác giả viết sách triết học, do không thực sự biết bất cứ ngoại ngữ nào và do chưa bao giờ được đào tạo bài bản về triết học, đã hiểu sai hầu như tất cả các văn bản triết học và không có kiến thức thực sự về bộ môn này, dù đã học triết học trong hơn ba mươi năm.
Chúng tôi không viết bài này chỉ với mục đích chỉ ra những điều tiêu cực, tại mỗi lỗi sai, chúng tôi thường dịch lại đoạn văn và chỉ ra cách hiểu đúng của văn bản. Chúng tôi cũng cố gắng cung cấp cho độc giả một vài thông tin về triết học hay văn hoá chính xác hơn đến với độc giả tại những chỗ phù hợp. Nếu đã đọc đến điểm này trong bài, hi vọng độc giả đã có được thêm nhiều kiến thức, niềm vui và đặc biệt là thu hoạch được điều gì đó hữu ích cho hành trình đi đến triết học của chính mình.
Dưới đây chỉ liệt kê một số tài liệu tham khảo chính, một số tài liệu chỉ được nhắc đến ít lần sẽ không được liệt kê ở đây. Các nguồn tài liệu tham khảo cũng đã được ghi bằng cước chú ở trong bài viết chính.
CÁC TÁC PHẨM CỦA ÔNG NGUYỄN HỮU LIÊM
Nguyễn Hữu Liêm. 2020. Phác thảo về một triết học cho lịch sử thế giới, NXB Hội Nhà Văn.
—. 2018. Thời tính, Hữu thể và Ý chí – Một luận đề siêu hình học. NXB Đà nẵng.
—. 2016. Sử tính và Ý thức: Một triết học cho Sử Việt, NXB Sống.
—. 1992. Dân chủ Pháp trị: Luật pháp, Công lý, Tự do và Trật tự xã hội, Biển mới. Phiên bản online năm 2012 tại đây.
Các bài viết trên Tạp chí Triết tại đây.
Các bài viết của ông NHL trên các diễn đàn: Cái âm điệu tủi thân bi đát (3.9.2003). Xem tại đây.
Nơi giữa đại hội Việt kiều: Một nỗi bình an (27.11.2009). Xem tại đây.
Từ Lệ Thu đến Hồng Nhung – ba lần chết của nhạc Việt (22.1.2021). Xem tại đây.
Hegel, G. W. F.. Vorlesungen über die Philosophie der Weltgeschichte: Berlin 1822 (K.-H. Ilting, H. N. Seelmann, & K. Brehmer, Eds.). F. Meiner Verlag, 1996.
—. 1807. Phänomenology des Geistes. Blackmask Online, 2002. Xem tại đây.
—. Vorlesungen über die Philosophie der Geschichte. Reclam Verlag, 1924. Xem tại đây.
—. Vorlesungen über die Philosophie der Religion, Berlin, 1832. Xem tại đây.
BẢN DỊCH TIẾNG ANH
Hegel, G. W. F. [1807]. Phenomenology of Spirit. translated by A. V. Miller with analysis of the text and foreword by J. N. Findlay: Oxford: Clarendon Press, 1977.
—. The Philosophy of History. Batoche Books, Kitchener, 2001 With Prefaces by Charles Hegel and the Translator, J. Sibree, M.A. Xem tại đây.
Jaspers K. 1949. The Origin and Goal of History. Yale University Press, New Haven and London, 1958. Xem tại đây.
—. 2013. Die maßgebenden Menschen: Sokrates, Buddha, Konfuzius, Jesus. Piper Taschenbuch.
[78] Höffe, Otfried (2007), Immanuel Kant, C. H. Beck Verlag, tr. 186
[79] Nguyên văn: ‘Nun könnte allerdings, wenn eine solche Denkungsart ein allgemeines Naturgesetz würde, das menschliche Geschlecht gar wohl bestehen, und ohne Zweifel noch besser, als wenn jedermann Von Teilnehmung und Wohlwollen schwatzt, auch sich beeifert, gelegentlich dergleichen auszuüben, dagegen aber auch, wo er nur kann, betrügt, das Recht der Menschen verkauft, oder ihm sonst Abbruch tut’ (GMS 423).
[80] Hübner, Dietmar (2024), Einführung in die philosophische Ethik, Vandenhoeck & Ruprecht Verlage, tr. 192.
[81] Xin tham khảo thêm tại đây. Lưu ý rằng lời nói này được Arendt phát biểu trong mối tương quan trực tiếp với Eichmann và nền độc tài Quốc Xã. Trích dẫn này không nhắc đến sự phục tùng hay những nghĩa vụ nói chung, ví dụ như các nghĩa vụ của công dân trong các chế độ dân chủ.
[82] Kant I., Anthropologie in pragmatischer Hinsicht, tr. 49. Nguyên văn: ‘Die Gestalt des Gegenstandes wird durchs Gehör nicht gegeben, und die Sprachlaute führen nicht unmittelbar zur Vorstellung desselben, sind aber eben darum, und weil sie an sich nichts, wenigstens keine Objekte, sondern allenfalls nur innere Gefühle bedeuten, die geschicktesten Mittel der Bezeichnung der Begriffe, und Taubgeborene, die eben darum auch stumm (ohne Sprache) bleiben müssen, können nie zu etwas mehrerem als einem Analogon der Vernunft gelangen’. Xin xem tại đây.
[83] Xem tại đây. Nguyên văn: ‘Vergleicht man hiermit das Verfahren der Weltweisheit, so ist es davon gänzlich unterschieden. Die Zeichen der philosophischen Betrachtung sind niemals etwas anders als Worte, die weder in ihrer Zusammensetzung die Theilbegriffe, woraus die ganze Idee, welche das Wort andeutet, besteht, anzeigen, noch in ihren Verknüpfungen die Verhältnisse der philosophischen Gedanken zu bezeichnen vermögen. Daher man bei jedem Nachdenken in dieser Art der Erkenntniß die Sache selbst vor Augen haben muß und genöthigt ist, sich das Allgemeine in abstracto vorzustellen, ohne dieser wichtigen Erleichterung sich bedienen zu können, daß man einzelne Zeichen statt der allgemeinen Begriffe der Sachen selbst behandle’ (AA 2:278–9).
[84] Xem tại đây. Nguyên văn: ‘In der Philosophie überhaupt und der Metaphysik insonderheit haben die Worte ihre Bedeutung durch den Redegebrauch, außer in so fern sie ihnen durch logische Einschränkung genauer ist bestimmt worden. Weil aber bei sehr ähnlichen Begriffen, die dennoch eine ziemliche Verschiedenheit versteckt enthalten, öfters einerlei Worte gebraucht werden, so muß man hier bei jedesmaliger Anwendung des Begriffs, wenn gleich die Benennung desselben nach dem Redegebrauch sich genau zu schicken scheint, mit großer Behutsamkeit Acht haben, ob es auch wirklich einerlei Begriff sei, der hier mit eben demselben Zeichen verbunden worden’.
[85] Kant I., AA, VII, 120.
[87] Kant, Idee zu einer allgemeinen Geschichte in weltbürgerlicher Absicht. Nguyên văn: ‘Man kann sich eines gewissen Unwillens nicht erwehren, wenn man ihr Thun und Lassen auf der großen Weltbühne aufgestellt sieht und bei hin und wieder anscheinender Weisheit im Einzelnen doch endlich alles im Großen aus Thorheit, kindischer Eitelkeit, oft auch aus kindischer Bosheit und Zerstörungssucht zusammengewebt findet’.
[88] Höffe, Otfried (2007), Immanuel Kant, C. H. Beck Verlag, tr. 250.
[89] Nguyên văn: ‘Die Weltgeschichte ist der Fortschritt im Bewußtsein der Freiheit – ein Fortschritt, den wir in seiner Notwendigkeit zu erkennen haben’, trích từ Vorlesungen über die Philosophie der Weltgeschichte.
[90] Tham khảo thêm tại đây. Bản dịch tiếng Việt tại đây.
[91] Nguyên văn: ‘Im Reiche der Zwecke hat alles entweder einen Preis, oder eine Würde. Was einen Preis hat, an dessen Stelle kann auch etwas anderes, als Äquivalent, gesetzt werden; was dagegen über allen Preis erhaben ist, mithin kein Äquivalent verstattet, das hat eine Würde’. Xem tại đây.
[93] Phiên bản trực tuyến của cuốn sách này có thể được đọc tại đây.
[95] Xin đọc bài ‘Học Triết như thế nào’, Tạp chí Triết số 5, tại đây.