Không khói hoàng hôn (Tập II – kỳ 3)

Nguyễn thị Kim Thoa

Dịch chuột – dịch người

Ban Mê Thuột hay Buôn Ma Thuột, đã có lúc tại khoa nhi bệnh viện tỉnh Daklak diễn ra các cuộc cãi vã giữa hai phe nhân sự: Phe cách mạng gồm chị Liên y sĩ trưởng khoa từ Trường Sơn về, chị Chiến y tá từ Bắc vào. Phe lưu dụng gồm 5 y tá: H’Băm, H’ Zup người dân tộc Ê Đê, Năng Ri người dân tộc Chăm, chị Hoàng thị Kính người Công giáo, bắc di cư và chị Trần Ngọc Hoa người Việt gốc Hoa quê ở Gia Hội Huế. Đồng minh của phe lưu dụng còn có hai y công: Vũ Thị Thái người bắc di cư, Mai Thị Bé người miền Tây Nam bộ. Phe này gọi là Ban Mê Thuột, phe kia gọi là Buôn Ma Thuột.

Khoa nhi của tôi là một phần của bệnh viện tỉnh Daklak, Daklak là một phần của Tây nguyên. Tây nguyên là một phần của miền Nam, đến thời điểm này Tây nguyên là một phần của đất nước Việt Nam Độc lập và Thống nhất. Cuối năm 1978 khi ông Lê Duẩn, Tổng bí thư đảng Cộng sản vào thăm, bảo Tây nguyên là mái nhà chung của nhân dân Đông Dương. Có lẽ giữa ông Tổng bí thư Lê Duẩn và tôi không có sự nhất trí đồng tình. Ông ấy bảo mái nhà chung của nhân dân Đông Dương. Tôi thì nói một mình hay nói với chồng tôi, anh Chu Sơn, làm gì có mái nhà chung của nhân dân Đông Dương. Rắc rối và chiến tranh không chỉ là vấn đề ngôn ngữ. Trở lại vấn đề tên của thị xã nơi tôi đang sống và đương đầu trong đoạn ký ức này tôi ghi là BMT cho tiện.

BMT đầu năm 1979 trở nên náo động. Ông Tổng bí thư Lê Duẩn vào thăm nói đâu đó trên trời (đối với tôi cơ quan đầu não của tỉnh là trời) rằng BMT có vị trí quan trọng, xứng đáng là nóc nhà chung Đông Dương. Phụ họa phán ngôn của Tổng bí thư Lê Duẩn, ông Trần Kiên bí thư tỉnh Daklak huy động cán bộ công nhân viên đi Buôn Trấp xây dựng công trường Xã hội Chủ nghĩa. Nhân viên khoa nhi và bệnh viện tỉnh Daklak được triệu tập tại hội trường để học tập về tình hình và nhiệm vụ mới…

Đầu năm 1979 vào một buổi chập choạng tối, các loa phóng thanh ở các góc phố đột ngột vang lên khúc nhạc quân hành. Quân Việt Nam tiến qua Campuchia giúp dân nước này tiêu diệt bọn diệt chủng Pôn Pốt – Yêng Sa Ri. Mấy tuần sau tin chiến thắng từ các tỉnh biên giới phía Bắc: Quân đội Nhân dân Việt Nam anh hùng đã giáng trả quyết liệt và đánh tan tác mấy trăm ngàn quân Trung Quốc xâm lược. Ông Trần Kiên ra lệnh cán bộ công nhân viên các ban ngành và nhân dân thị xã BMT đi đốt rừng trồng sắn, xây dựng căn cứ địa kháng chiến.

BMT vắng teo.

Nhưng đầu tháng ba, bệnh viện và nhất là khoa nhi của chúng tôi lại tấp nập. Chúng tôi đang đương đầu với dịch hạch. Căn bệnh mà ở Đại học Y khoa Huế chúng tôi chỉ học qua loa phần lý thuyết. Bản thân tôi cũng như các y tá tại khoa nơi tôi đang là bác sĩ điều trị chưa hề có một trải nghiệm nào.

Mùa xuân và tháng ba ở BMT thời tiết đẹp nhất trong năm. Thế nhưng, mùa xuân và tháng ba ở BMT năm 1979 là một ngoại lệ. Những cơn mưa trái mùa và gió nóng lúc xế trưa đã làm cho bầu không khí trở nên oi nồng, ẩm ướt rất khó chịu.

Một buổi sáng đầu tháng ba, trên đường đến bệnh viện, mới rẽ vào đoạn đường có khu tập thể nằm ở phía trái tôi nhận thấy có mùi hôi thối phả vào mặt mũi theo từng cơn gió. Vào văn phòng khoa, gặp H’Băm, chị y tá người dân tộc Ê Đê, tôi hỏi:

“Có phải mùi chuột chết bên khu tập thể của chị không”?

H’Băm trả lời:

“Đúng rồi mùi chuột chết. Chuột chết nằm khắp nơi, cống rãnh, bờ rào. Chuột cống, chuột đồng, chuột phố… Ánh mắt H’Băm bí ẩn mà chẳng có vẻ gì lo âu.

Đến giờ ăn trưa, các y tá bày các gói, hộp thức ăn của mình trên chiếc chiếu trải giữa phòng, trước mặt bàn làm việc của tôi. Các chị vừa ăn vừa trò chuyện. Câu chuyện tập chú vào chuột: chuột chết, mùi chuột chết… đến các món ăn chế biến từ chuột: Chuột thui, chuột nướng, chuột chiên bơ, chuột nấu cà ri… Phụ họa cùng câu chuyện chuột của các chị y tá, chiếc quạt trên trần nhà quay như điên phát ra tiếng gió phần phật và cả mùi chuột chết.

Tôi vốn sợ chuột, những câu chuyện chuột của mấy chị y tá làm tôi lộn ruột, rùng mình. Tôi mang lon ghin-gô (1) thức ăn ra hiên ngồi ăn một mình. Chị y tá Kính ăn xong ra ngồi với tôi. Tôi hỏi:

“Ở BMT chuột chết nhiều như thế này có thường xảy ra không? Các chị có sợ cái mùi thối khắm ấy không”?

Chị Kính bảo:

“Ở đây chuột chết lai rai nằm rải rác đó đây là chuyện bình thường. Còn mùi thối thì ăn thua gì. Ngày vừa giải phóng tại Ngã sáu và tại các bót án ngữ bảo vệ thị xã người chết phơi đầy, mùi hôi thối khủng khiếp lan tỏa khắp nơi. Xác người phủ bọc cờ đỏ, cờ vàng và cả những xác không có màu cờ sắc áo nằm kề bên nhau, máu me bê bết, chân cụt, tay gãy, ruột lòi, mặt mày biến dạng, ruồi bu, bọ rúc, chuột rỉa, chó tha. Tiếng súng đã dứt, nhưng xác người vẫn nằm la liệt. Đồng đội đôi bên, kẻ thắng thì truy đuổi, kẻ thua thì trốn chạy, người dân khiếp sợ chẳng dám ra đường. Chúng em giáo dân sống quanh khu vực nhà thờ, đàn ông thì tập trung bất động quanh bàn thờ chúa, đàn bà và trẻ em kẻ gậy người dao, có cả lựu đạn và súng tổ chức bảo vệ nhà thờ. Em có đứa cháu trai 15 tuổi chỉ huy các thiếu niên bạn chiến đấu trong những chiến hào xây bằng bao cát quanh tường rào. Nó choàng tấm vải đỏ, hết nhảy từ nóc hầm này qua nóc hầm kia, miệng hét, tay súng, tay lựu đạn huơ huơ, nhắm nhắm, như một ông tướng. Quân giải phóng không đụng đến nhà thờ nhưng giải tỏa nhanh chóng các ụ đề kháng của thiếu niên. Thằng cháu em chạy qua Ngã sáu theo mấy ông lính Cộng hòa, bị bắn chết nơi đó, trên cổ nó còn quàng tấm vải đỏ. Xác nó và xác của những người lính hai bên lẫn lộn. Trận đánh kết thúc, nhà nước cách mạng thu dọn xác chết chôn cất theo từng khu vực. Lính Cộng hòa chôn riêng, lính Giải phóng chôn riêng. Thằng cháu em vì còn nhỏ tuổi cổ lại quàng tấm vải đỏ, những người làm nhiệm vụ thu dọn tưởng là quân giải phóng nên xác của nó được chôn trong nghĩa trang liệt sĩ. Ba mẹ nó và những người cố thủ trong nhà thờ chúng em đều biết như thế mà vẫn để nguyên như thế vì sợ”.

Cuộc chiến đã qua đi tròn bốn năm, một quãng thời gian không dài. Do vậy những người dân ở cái thị xã BMT tội nghiệp này chưa quên được chết chóc, đau thương. Bất cứ lúc nào có cơ hội là họ kể lể về bất cứ sự việc nào ập đến trong ký ức rách nát của mình. Chị Kính y tá khoa nhi bệnh viện tỉnh Daklak cũng vậy. Chị kể chuyện như người ngoài cuộc mà mắt thì đỏ hoe. Bữa trưa hôm ấy chuyện chuột, chuyện người, chuyện xác chết ruồi bu, kiến đậu và mùi hôi thối đã làm tôi không còn muốn ăn uống gì. Cái lon ghin-gô đựng cơm khoai và mấy miếng khuôn đậu, mấy cọng rau muống chuẩn bị từ sáng sớm vẫn còn nguyên.

Hai ngày sau buổi trưa nói chuyện chuột, bệnh nhân vào khoa nhi tăng thấy rõ. Các em nhập viện buổi sáng, buổi chiều và cả trong đêm. Các phòng bệnh vốn đã đầy nay đầy thêm. Nằm đôi, nằm ba, đến khi các phòng bệnh không còn đủ chỗ, bệnh nhi nằm trên băng ca, trên chiếu sắp trải la liệt ở ngoài hiên. Buổi tối đến điện lù mù, khi mất điện, đèn dầu, đèn ló và cả que thông được đốt thắp nơi này nơi kia trông thật thê lương.

Chúng tôi, ngoài tôi là bác sĩ, chị y sĩ làm chủ nhiệm khoa, sáu y tá và hai y công, có thêm hai bác sĩ ở trường Đại học Y Tây nguyên qua hợp tác vào mỗi buổi sáng (buổi chiều họ về giảng dạy tại trường), đầu tắt mặt tối suốt 10 giờ (qui định của tỉnh trong thời kỳ đặc biệt) cũng không xuể công việc. Chúng tôi kêu gọi chi viện nhưng bệnh viện trưởng cứ lắc đầu, tình hình các khoa phòng khác cũng chẳng khả quan gì.

Daklak là tỉnh nằm sát biên giới Campuchia, bệnh viện, ty y tế và viện Vệ sinh dịch tể Tây nguyên còn phải cử người bổ sung cho cuộc chiến bên đó. Các bác sĩ có lý lịch không tốt thì bị điều đi nông trường. Cuộc chiến của chúng tôi tại khoa nhi bệnh viện tỉnh Daklak bị bỏ quên. Nhân lực thiếu đã đành, thuốc men lại càng thiếu hơn. Bản thân bác sĩ điều trị chính là tôi lại chưa có một hiểu biết và kinh nghiệm cụ thể về bệnh dịch hạch. Ở trường Y Huế, sinh viên chỉ được dạy qua lý thuyết, chưa hề thấy có bệnh này.

Chừng năm sáu chục bệnh đang nằm viện, chừng hai chục bệnh nhân chờ khám mỗi buổi, chúng tôi tả xung hữu

đột, lực bất tòng tâm, mất phương hướng.

Đa phần các cháu sốt cao, trên 38 độ C, có chung một triệu chứng, viêm hạch ở bẹn (háng) hay nách. Hạch nhỏ nhưng bệnh nhi khóc thét lên khi bác sĩ thăm khám.

Viêm hạch ở nhiều trẻ cùng một lúc trong bối cảnh

chuột chết hàng loạt khiến chúng tôi nghĩ nhiều đến khả năng dịch hạch hoành hành. Tôi trình bày tình trạng chung cùng khả năng nhân lực, thuốc men của khoa để xin ý kiến của bệnh viện trưởng. Trước mắt, chúng tôi chỉ giải quyết các vấn đề cấp cứu, điều trị các triệu chứng, điều trị viêm nhiễm với thuốc kháng sinh(2).

Bệnh nhẹ điều trị Xuyên tâm liên(3), DVS (3), Sulfamit. Bệnh nặng hơn điều trị Tétracycline, Streptomycine, Chloramphénicol. Đó là những gì chúng tôi có, mà có rất hạn chế, đặc biệt các loại tây dược.

Tôi một mặt tìm đọc lại tài liệu căn bản mang theo khi rời trường Y, một mặt hút dịch ở các hạch viêm để tìm vi trùng. Quả như tôi nhận định: bệnh phẩm lấy từ hạch có vi trùng ăn màu lưỡng cực khi nhuộm Giemsa. Đối với tôi đây là vấn đề mới mẻ và có phần “lí thú”. Lần đầu tiên tôi đối mặt với căn bệnh mà nhà bác học người Pháp Alexander Yersin đã tìm ra vi trùng hơn một trăm năm trước (1894). Và đây cúng là lần đầu tiên tôi được nhìn thấy con trực khuẩn Yersinia Pestis ăn màu lưỡng cực mà hồi còn là sinh viên tôi chỉ được thấy qua hình ảnh trên sách và bài học vi trùng của thầy Lê Bá Nhàn.

Tôi vừa sợ hãi, vừa “háu hức” trở lại “chiến trường” của mình với những kết quả ở phòng xét nghiệm.

Ban đầu bệnh chỉ xảy ra rải rác vài trường hợp ở các buôn làng người Ê Đê ở Krong Buk về sau lan dần đến các xã quanh thị trấn: Ea Kao, Ea Sup… Trẻ em Ê Đê, Chăm và Kinh đều bị.

Những ngày tiếp theo bệnh nhân nhập viện nhiều và nặng hơn. Một số em đã xuất hiện hoại tử khô(4) ở đầu ngón tay, đầu ngón chân, đầu mũi hoặc vành tai. Bệnh đã chuyển sang thể nhiễm trùng máu. Chỉ cần lấy máu đầu ngón tay nhuộm Giemsa là chúng tôi đã thấy có vi trùng.

Bệnh diễn biến rất nhanh. Có trường hợp tử vong sớm

do choáng nhiễm trùng(5), có trường hợp kéo dài do hoại tử khô. Hầu như ngày nào cũng có bệnh nhân tử vong.

Ngày lại ngày, nhìn những đứa trẻ khóc la rên rỉ với những đám hoại tử đen xỉn, hôi thối, tôi rối bời, đau đớn. Có em rụng một hay hai lóng tay, có em rụng mất ngón chân, có em sứt vành tai, có em đầu mũi đã khuyết đi một phần để lại lỗ đen nham nhở. Có em nặng hơn, một phần mô mềm ở bả vai, đùi hay mông khô quắt, đen sạm. Chung quanh tôi chỉ thấy một màu đen. Vết thương hoại tử đen, áo quần của những bà mẹ, ông bố đen sì nhiều ngày không giặt. Những con gà quạ(6) con mổ vội úp lên bụng những đứa trẻ sốt cao máu me bê bết cũng màu đen…

Cái màu đen đó cùng với màu hồng của những đám vi trùng ăn màu thuốc nhuộm dưới kính hiển vi đã khiến tôi liên tưởng và quay quắt suy nghĩ về cuộc cách mạng Xã hội Chủ nghĩa diễn ra suốt bốn năm trên mọi miền của đất nước với hai cuộc chiến tranh khủng khiếp khó hiểu giữa những người Cộng sản đã một thời là đồng minh – liên minh – quốc tế – vô sản – tình nghĩa – tót vời – đỉnh cao – nhân loại.

Trước mắt tôi hiển hiện hai hình ảnh, hai màu sắc nghịch chọi. Những con vi trùng ăn màu lưỡng cực hào nhoáng trên lam máu xét nghiệm, và khoa nhi của chúng tôi với mấy căn phòng nham nhở màu gỉ xám với những con bệnh đen rên rỉ, khóc than đợi chết từng ngày. Và cả chúng tôi nữa, những người thầy tìm không ra thuốc, cũng là nạn nhân của trận dịch lớn đang tàn phá đất nước, hủy hoại con người.

Ôi! lý tưởng và hiện thực. Không phải hai mà là một.

Tôi đã rời phòng xét nghiệm sau khi vứt lam máu với những vi trùng ăn màu lưỡng cực, đẹp như một thảm hoa hồng vào hộp xử lý chất thải.

Trở lại với khoa nhi, với cuộc đời, với chính tôi. Tất cả đang nhuộm một màu đen.

Tôi muốn có thêm một ít thuốc đặc trị và giảm đau, nhưng những yêu cầu của tôi hình như đã bị thượng đế bỏ qua, vì tất cả đang dành cho cuộc chiến chống bành trướng Trung Quốc, cuộc chiến diệt chủng ở Campuchia và câu chuyện thần thoại mái nhà chung Đông Dương.

Buổi sáng thứ bảy cuối tuần, ngày mai là ngày nghỉ, tôi thận trọng thăm khám các bệnh nặng. Bé H’Zoan 8 tuổi, bàn chân phải sưng tấy, ngón chân út đã rụng, các ngón còn lại khô teo, đen sạm và chờ rụng. Nằm bên cạnh H’Zoan là đứa em trai 5 tuổi, Y’Bloc, đang rên rỉ vì cái hạch sưng đỏ ở bẹn.

Lúc tôi khám bệnh, H’Zoan quì gối trên giường, hai tay chắp trước ngực van xin:

“Thưa bác, con không muốn tiêm thuốc nữa, thuốc tiêm đau quá, bác hãy dùng phần thuốc của con cho Y’Bloc, em nó cần hơn. Hôm qua con thấy em bé giường bên bị rụng ngón chân như con đã chết, chắc con cũng chết thôi. Bác hãy dành thuốc của con cho Y’Bloc, vì nó chưa bị thối tay chân. Con không muốn Bloc chết”.

Lời của H’ Zoan làm tôi xúc động, tôi nói với em:

“Con yên tâm tiêm thuốc, bệnh viện có đủ thuốc cho cả hai”. Tôi nói, nhưng lòng thì rối bời. Thuốc ở đâu?

Thế rồi H’Zoan ra đi vào một chiều tháng 5, khi bệnh viện phát động phong trào học tập thi đua làm theo lời Bác.

H’Zoan ra đi, đứa em trai suốt ngày nằm úp mặt xuống giường đòi chị đút cơm. Không khí khoa phòng thêm nặng nề u ám, lòng tôi đau đớn, rối bời.

Lời đề nghị của H’Zoan làm tôi suy nghĩ. Giá như được điều trị ngay từ đầu bằng Streptomycin và Tétracycline có lẽ sẽ giảm đi tình trạng nhiễm trùng máu. Phát đồ điều trị của bệnh viện không dùng Tétracycline và Streptomycine ở thể viêm hạch vì ngại tác dụng phụ của thuốc lên sự tăng trưởng của trẻ nhỏ, một phần cũng do tây dược quá thiếu. Mặc khác nền y tế lúc này có khuynh hướng chung là muốn Đông – Tây y kết hợp. Do vậy Xuyên tâm liên và DVS vẫn phải dùng dù chưa có một công trình nghiên cứu cụ thể nào về hai loại thuốc Đông y này.

Nhưng xem ra Xuyên tâm liên và DVS kết hợp với sulfamite không còn tác dụng nữa rồi. Tình trạng dịch bệnh không cải thiện mà trầm trọng thêm. Tôi trao đổi với bác sĩ Thới, vị bác sĩ đã bàn giao nhiệm vụ điều trị tại khoa nhi cho tôi hai năm trước. Ông bị điều ra trạm chống lao theo mệnh lệnh của tỉnh ủy. Suốt hai năm qua ông trở lại khoa nhi mỗi sáng, mỗi chiều để đưa đón vợ làm tại khoa lây nhiễm. Đưa đón vợ là một nhiệm vụ, nhưng trở lại khoa nhi là trở lại với nhiệm vụ của người thấy thuốc mà ông nhận ra là mình đã bị tướt đoạt. Ở trạm chống lao, ông ngồi chơi xơi nước. Ông tranh thủ về sớm đến muộn để có nhiều thì giờ đứng ở hiên trao đổi, chia sẻ cùng tôi những khó khăn, bế tắt tôi đang đối mặt. Bác sĩ Thới cũng nghĩ như tôi. Tôi đem chuyện ra bàn với chị y sĩ trưởng khoa, ban đầu chị ngại làm trái phát đồ chung, nhưng sau khi tôi phân tích giải bày, chị đồng ý giải pháp của tôi.

Tôi quyết định thay đổi phát đồ, dùng Streptomycine và Tétracycline ngay từ đầu cho các bệnh nhân ở thể viêm hạch nhẹ, thay vì dùng Xuyên tâm liên, DVS, sulfamite và chấp nhận những tác dụng phụ nếu có.

Vấn đề mới đặt ra cho tôi là do thuốc quá thiếu, khoa dược chỉ cung cấp theo cơ số họ có. Tôi không có đủ thuốc cho tất cả các bệnh nhân. Tôi phải chọn lựa thuốc dành cho bệnh nào và phải cắt đi ở bệnh nào. Tôi bắt buộc phải cắt thuốc ở những trường hợp mà có thể nói là đã “vô phương cứu chữa”. Tôi không đủ tự tin để tự mình quyết định việc cắt thuốc các trường hợp này. Hội ý với hai bác sĩ trường Đại học Y Tây Nguyên: Cao xuân Thanh Phương và Ngô Thị Nhân (khóa đàn em của tôi) là một lựa chọn của tôi.

Cả hai bác sĩ ở trường Y đã không đồng ý với tôi về việc cắt giảm thuốc ở một số trường hợp vì cho rằng: “còn nước còn tát”. Bản thân tôi cũng không muốn sự lựa chọn này nhưng không có cách nào hơn. Bác sĩ Thới lại khuyên tôi nên chọn lựa như vậy may ra giảm được số tử vong về sau. Ông nói thêm:

“Chúng ta chỉ biết đối phó trong phạm vi bốn bức tường của bệnh viện với những gì bệnh viện cung cấp. Ngoài kia diệt chuột, mua thêm thuốc là chuyện của người khác. Có muốn, chúng ta cũng không làm gì khác được. Buộc phải rời bỏ một số ít trường hợp để cứu nhiều trường hợp khác, đế sớm chấm dứt cơn dịch đen đang hoành hành. Đây là một chọn lựa quá đau đớn, nhưng không thể khác”. Bác sĩ Thới nói với nỗi thất vọng ê chề.

Bác sĩ Thu Sa, một bác sĩ ở trường Y Tây nguyên nhưng ở khoa nội người lớn, bạn học của tôi từ tiểu học đến trung học qua trường Y ủng hộ giải pháp của tôi. Sa bảo:

“Vấn đề là chấm dứt trận dịch càng nhanh càng tốt, nếu không bệnh nặng không cứu được, bệnh nhẹ sẽ trở nên nặng, cuối cùng đều chết, dịch cứ lan tràn”.

Hai tuần sau khi thay đổi phát đồ, tỷ lệ tử vong vẫn cao và nhất là sau cái chết của bé Ma Cẩm Vân, một em bé người Chăm có đôi mắt nâu to, làm tôi suy sụp tinh thần. Em chết trong bệnh cảnh viêm màng não do vi trùng dịch hạch. Tôi phát hiện triệu chứng màng não của em chỉ trước khi em ra đi ba ngày. Sáng hôm đó em nằm li bì, không ăn được cháo, bà mẹ khai từ đêm qua em nôn ói nhiều. Tôi lấy dịch tủy sống(7) kiểm tra và đã tìm thấy vi trùng dịch hạch. Streptomycine và Tétracycline không qua được màng não, chloramphénicol không có tác dụng là bao. Em đã ra đi.

Bé Ma Cẩm Vân không còn nữa, nhưng mỗi lần đi qua giường số 8 nơi em từng nằm, tôi vẫn nghe văng vẳng giọng đọc nửa trong nửa đục của em:

“Bố tan ca đêm.

Mẹ vào sáng.

Bố về trong nắng.

Áo thơm mùi dầu.

Em ra đầu cầu.

Dang tay đón bố”.

Bài thơ mới nghe qua lần đầu tôi cảm thấy vui. Nghe lần thứ hai tôi thấy buồn. Nghe lần thứ ba tôi thấy đau. Nhớ lại tôi muốn khóc.

Bài thơ tả cảnh sinh hoạt của hai vợ chồng công nhân trẻ, có đứa con đến trường mẫu giáo. Cái gia đình ấy không có nhà, cha con vợ chồng gặp nhau ở đầu cầu. Trời nắng áo thơm chỉ là lời bẻo mép của đứa văn nô. Ma Cẩm Vân và những bệnh nhân nhỏ bé tội nghiệp của tôi chỉ có đói khát, bệnh tật với những cơn sốt ba mươi chín, bốn mươi độ C, những cơn đau khủng khiếp thiếu thuốc men và chết chóc.

Lòng tôi chùng lại và tinh thần tôi suy sụp sau cái chết của Ma Cẩm Vân.

Để động viên tôi, bác sĩ Thới thường bảo:

“ Tận nhân lực mới tri thiên mệnh”.

Chị Bê vợ ông cũng luôn bảo:

“ Cố gắng lên em nhé”.

        Tôi nhìn thấy nơi hai người đó một sự chịu đựng gan lì. Cũng để động viên tôi bác sĩ Thu Sa(8) lúc bấy giờ đang là bác sĩ điều trị ở khoa nội đã nói đùa với tôi:

“Thoa ơi! Thoa có biết: Cái vấn đề của vấn đề là cái vấn đề… không biết cái vấn đề nào cơ bản và cũng không biết cái vấn đề nào là phải tiên quyết…” Sa lặp lại lời của một giảng viên trong một buổi học tập chính trị và đưa ra lời bình luận với những ngôn từ của y.

May mắn cho chúng tôi và cũng có lẽ do dùng thuốc mạnh ngay từ đầu khi bệnh còn ở thể viêm hạch nhẹ, vào đầu tháng mười tình hình bệnh dịch ở khoa nhi bắt đầu khả quan. Tỷ lệ tử vong bắt đầu giảm, số bệnh vào viện cũng giảm đi đáng kể.

Cơn dịch tạm lui, nhưng theo kinh nghiệm của bác sĩ Thới, nó chỉ tạm lui, sẽ tái phát vào tháng ba năm sau nếu không có biện pháp phòng bệnh tốt. Chu kỳ của dịch bệnh là hai năm.

Tôi gặp lại bác sĩ Cao xuân Thanh Phương và Ngô thị Nhân trước tết âm lịch tại khu nhà tập thể của đại học Y Tây nguyên trong một buổi chiều mây vần vũ. Phương và Nhân chuẩn bị rời Tây nguyên để về Đồng Nai.

Chúng tôi ngồi ôn lại câu chuyện dịch hạch. Cả ba đều buồn và nhớ đến những bệnh nhân mà mình đã đành thôi “tát nước”.

Nghĩ rất nhiều đến những em bé đã qua cơn dịch nhưng không biết rồi sẽ ra sao. Không hiểu Phương nghĩ gì khi nói với tôi:

–  “Nếu phải chọn lựa cái sống tật nguyền và cái chết đau đớn, em sẽ chọn cái chết đau đớn”.

Buổi chiều hôm đó tôi đã ngồi lại rất lâu nghe Phương đánh đàn ghi-ta và hát khúc Paloma trên cái nhà sàn ọp ẹp khi ngoài trời gió thét rồi mưa tuông. (Tôi viết mấy dòng ký ức này khi Phương đã ra đi. Có lẽ Phương đã chọn cái chết đau đớn, để khỏi phải sống tật nguyền).

Đầu năm 1980 tôi rời Ban Mê Thuột do bản thân suy kiệt trầm trọng, chồng bị bệnh nặng, chúng tôi không còn đủ sức để đương đầu ở nơi đây. Rời Ban Mê Thuột lòng tôi băn khoăn, giằng xé. Chẳng hiểu những em bé sống sót sau trận dịch rồi sẽ ra sao, và bệnh dịch có tái phát như lời của bác sĩ Thới hay không? Tôi mang tâm trạng của người thầy không tìm được thuốc, bất lực, chạy trốn khỏi cái nơi mình đã chọn. từ đầu.

Ghi chú

  • Lon ghin-gô: hộp sữa hiệu Guigoz, sau 1975 hộp không được dùng làm ca mem bới cơm.
  • Xuyên tâm liên là thuốc Đông y làm từ lá cây Xuyên tâm liên, DVS: thuốc đông y có tính kháng viêm làm từ các cây Sâm Đại Hành, lá Vằng, Sài Đất
  • Kháng sinh: antibotique, trong Nam trước 1975 gọi là trụ sinh
  • Hoại tử khô: gangrène sec
  • Choáng nhiễm trùng: shock septiqu
  • Người Ê Đê cũng nhu người kinh hay làm khi trẻ bị sốt cao là lấy con gà quạ con (gà đen) mổ đôi và úp lên bụng đứa trẻ đến khi con gà hết nóng. Họ cho rằng gà đen sẽ hút bớt chất độc trong người đứa trẻ.
  • Lấy dịch tủy sống: ponction lombaire. Từ hay dùng hiện tại là chọc tủy sống.
  • Bác sĩ Phạm thị Thu Sa ở trường Y Tây nguyên đã làm một tổng kết về trận dịch này. BS Sa ghi nhận các thế của dịch là thể viêm hạch và thể nhiễm trùng máu.
  • Ghi chú thêm: Ỏ bệnh viện Đa khoa Daklak lúc báy giờ có đủ bốn khoa chính là Nội, Ngoại, Sản, Nhi cùng các khoa lẻ khác là Tai Mũi Họng, Mắt, Răng Hàm Mặt, Lây (trước 1975 trong Nam gọi là khoa truyền nhiễm). Khoa lây điều trị các bệnh lây ở người lớn và một số bệnh lây trực tiếp như lao, sởi, thủy đậu, ho gà, uốn ván ở trẻ em… còn những bệnh lây gián tiếp qua vật trung gian (sốt xuất huyết, dịch hạch…) điều trị tại khoa nhi. Ngoài ra những bệnh lây nặng như viêm màng não mũ, viêm não được điều trị tại khoa nhi

Thư ký của Thiên Thần

Tôi đến thị xã Ban Mê Thuột vào một buổi chiều đầu mùa khô năm 1977. Gió bụi của miền cao nguyên đất đỏ làm tôi tối mắt sau một chuyến đi dài trên chiếc xe đò cọc cạch. Để mặc cho anh Chu Sơn – chồng tôi, loay hoay với mấy túi áo quần, sách vở. Bước xuống xe, tôi chỉ còn đủ sức ngồi bệt trên đám cỏ bên vệ đường. Đất đỏ, cỏ úa và bầu trời buổi chiều xám xịt. Đất trời Ban Mê Thuột buổi đầu giao tiếp đối với tôi chẳng thú vị gì.

Nơi tôi làm việc là khoa nhi bệnh viện tỉnh Daklak. Đây là một đấu trường quá sức với tôi. Cảm nhận lúc đầu là như thế. Khoa có 50 giường bệnh, bệnh nhân nằm la liệt hai ba em trên một giường. Những chiếc giường sắt tây cũ réc, cái mất song, cái gãy chân kê đóng khập khểnh. Mền chiếu đen điu, tả tơi rách nát. Nhân viên của khoa vỏn vẹn có 10 người. Một trưởng khoa, một bác sĩ điều trị, sáu y tá và hai hộ lý (y công). Trưởng khoa là chị Liên, y sĩ từ chiến khu về. Bác sĩ điều trị là một đại úy quân y lưu dung, ông Nguyễn Hữu Thới. Sáu chị y tá là các chị: Hoa, Hà, Toan, Ri, Kính và H’Băm làm nhiệm vụ điều dưỡng. Hai y công là chị Thái và chị Bé.

Bệnh viện tỉnh DakLak trước 1975 nguyên là một bệnh viện dã chiến quân dân y. Sau 1975 phần quân y tách riêng để hình thành nên bệnh viện quân đội. Cơ sở hạ tầng của bệnh viện dã chiến quân dân y này trở thành cái vỏ của một bệnh viện đa khoa dành cho dân các huyện nông thôn của tỉnh Daklak (thị xã Ban Mê Thuột có một bệnh viên riêng: bệnh viện thị xã).

Ban Mê Thuột giải phóng từ tháng 3 năm 1975. Tôi lên nhận việc cuối tháng 3 – 1977. Hai năm giải phóng, vừa đủ để những dãy phòng cấp bốn trở thành cái vỏ chật chội, loang lổ, xập xệ tối tăm của một cơ sở gọi là bệnh viện. Khoa nhi chiếm hai phòng cách nhau một hành lang hẹp. Mỗi phòng có một bóng đèn huỳnh quang ở giữa, hai đầu là hai bóng đèn tròn 100 watts tù mù vàng vọt khi có điện. Khi không có điện thì bà con người dân tộc thiểu số, người kinh tế mới thắp sáng bằng bất cứ thứ gì kiếm được. Nước thì khi có khi không. Bà con người dân tộc thiểu số đun nhét cả vỏ, cùi bắp, lá lảy, dẻ rách xuống miệng cầu xí. Hai chị y công làm việc đầu tắt mặt tối mà không khí của khoa phòng vẫn nặng nề khó chịu.

Y cụ thì không có gì ngoài hai bình oxy rỉ rét, mấy cái máy đo huyết áp xì hơi, kim tiêm thì phải mài đi mài lại trên các viên đá, khi chích các em khóc thét lên và lòng chúng tôi thì như bị cứa bởi lưỡi dao cùn.

Bệnh nhân của chúng tôi đa phần đến từ các buôn làng người dân tộc thiểu số, các khu dinh điền cũ (được thành lập thời Ngô Đình Diệm) và vùng kinh tế mới.

Hầu hết các em bị suy dinh dưỡng và mắc các bệnh lây nhiễm. Da các em bủng beo, xanh tái, lớp mỡ dưới da hầu như không còn, trên da đầy mụt nhọt, chốc lở và vết cắn thâm tím của muỗi mòng, vắt, đỉa.

Theo sự sắp xếp của lãnh đạo bệnh viện, tôi đến khoa nhi để thay thế bác sĩ Nguyễn Hữu Thới. Bác sĩ Thới sẽ chuyển đến trạm chống lao. Một tuần lễ làm việc dưới sự hướng dẫn của người bác sĩ tiền nhiệm đối với tôi là một cuộc chuyển giao tận tụy giữa hai thầy trò. Ông sợ tôi không đủ sức để đương đầu với một nhiệm vụ quá ư nặng nề. Ông bảo tôi nhanh chóng học tiếng và phong tục tập quán của người dân tộc thiểu số. Qua ông tôi còn học được tính kiên nhẫn, khiêm tốn, lòng yêu nghề, tinh thần lạc quan, tình yêu con người và cuộc sống. Ông đã rời khoa nhi đúng một tuần lễ sau khi tôi đến, nhưng trừ những ngày nghỉ theo qui định hành chánh, những lúc ốm đau hay những trường hợp bất thường, ngày nào ông cũng trở lại khoa nhi suốt ba năm tôi làm việc tại đó. Vợ ông – chị cán sự Bê đang làm việc tại khoa lây (khoa truyền nhiễm). Buổi sáng ông chở vợ đi làm, buổi chiều ông đến đón vợ trên chiếc xe đạp. Ông không chờ vợ ở khoa lây mà chờ vợ ở khoa nhi. Mục đích của ông là để xem tôi có hỏi gì không, và mặc nhiên ông trở thành người cố vấn tự nguyện cho tôi suốt hơn ba năm tôi ở khoa nhi bệnh viện tỉnh Daklak. Đối với ông làm việc ở trạm chống lao là một hình phạt nặng nề. Ở trạm chống lao ông trở nên người nhàn hạ. Ông và cả tôi nữa không hiểu vì lý do gì một bác sĩ chuyên nhi như ông lại bị trói tay trói chân ở trạm chống lao trước tình trạng khoa nhi và cả bệnh viện tỉnh Daklak la liệt bệnh nhân mà bác sĩ chỉ đếm được chưa hết mười ngón tay trên hai bàn tay.

Mỗi buổi chiều khi chị Bê vợ ông xong việc ở khoa lây, đến khoa nhi để ông chở về, tôi nhận ra niềm hân hoan trong mắt họ. Như thế là họ đã qua được một ngày bình yên để trở về với bốn đứa con đang chờ ở nhà.

Tôi rời khoa nhi bệnh viện tỉnh Daklak cuối năm 1980 khi không còn đủ sức để cầm cự. Tôi bị sốt rét, sinh con trai đầu, không có sữa. Chồng tôi, anh Chu Sơn bị lao phổi nặng, bác sĩ Thới điều trị. Chính ông đã khuyên chúng tôi nên nhanh chóng về đồng bằng để có điều kiện cách ly và có thêm dinh dưỡng là những điều kiện tối thiểu để chúng tôi tồn tại.

Chúng tôi về Đà Nẵng, không còn gặp bác sĩ Thới mỗi ngày tại khoa nhi, nhưng tin tức về ông tôi vẫn nhận được.

Ông trụ lại Ban Mê Thuột mặc dầu ông có điều kiện làm lại cuộc đời ở một nơi chốn khác. Tôi nhớ có lần ông đã tâm sự:

“Mình con địa chủ, học trường Tây, lại là sĩ quan quân đội Việt Nam Cộng Hòa, hơn thế nữa là trí thức. Địa chủ cộng với Tây, cộng với sĩ quan ngụy quân, cộng với trí thức, cộng với Ê Đê, cộng với giải phóng, cộng với Xã hội Chủ nghĩa để trở thành người Việt Nam. Làm người Việt Nam mà không đói khát, không đau thương, không khổ nhục, chưa thực sự là người Việt Nam”.

Ôi, cái công thức, cái con đường gì mà đắng cay đến thế. Có đi hết những chặng đường như thế mới là người Việt Nam sao? Đối với riêng tôi, những lời của Nguyễn Hữu Thới là một liệu pháp giúp tôi vượt qua được những bi quan khiếp sợ trong những ngày đối đầu với bệnh tật và môi trường sống xã hội chủ nghĩa tại Ban Mê Thuột. Ông đích thực là người thầy thuốc mẫu mực, một con người lương thiện mà bất cứ một nền y tế, một đất nước bình thường nào cũng nhất thiết không nên rẻ rúng.

Mấy tháng sau khi về Đà Nẵng chồng tôi một lần trở lại Ban Mê Thuột, gặp lại bác sĩ Nguyễn Hữu Thới – người thầy thuốc đồng thời là người tri ngộ trong một đêm cùng nhau trăn trở, đã biết thêm một thông tin ngẫu nhĩ rằng: Nguyễn Hữu Thới là hậu duệ đời thứ mười hai của Nguyễn Hữu Cảnh, người mà 300 năm trước vâng mệnh của chúa Nguyễn đến lập đồn biên phòng ở Mố Xoài, nay thuộc tỉnh Đồng Nai.

Thông tin cuối cùng chúng tôi nhận trễ tại Đà Nẵng vào cuối năm 1994 rằng là bác sĩ Nguyễn Hữu Thới bị đột quỵ, cương quyết không chịu đi bệnh viện, đã qua đời ở cái tuổi chưa đến 60. Ông không còn đủ sức để đi tiếp con đường khổ nạn làm người Việt Nam mà ông đã vạch cho chính mình.

Rời Ban Mê Thuột tôi mang tâm trạng một người bỏ cuộc, chạy trốn. Nhẹ nhàng hơn tôi xem mình như người lính bị loại khỏi cuộc chiến mà mình đã dấn thân. Ba năm hai tháng bảy ngày ở khoa nhi bệnh viện tỉnh Daklak quả là một quãng thời gian đáng nhớ của một người thấy thuốc đến đúng cái nơi cần phải đến.

Nhưng điều đáng nhớ nhất của tôi chưa phải là “liệu pháp Nguyễn Hữu Thới” mà là “liệu pháp Hoàng Ngọc Châu”.

Hoàng Ngọc Châu đến bệnh viện vào một buổi chiều áp tết năm Mậu Ngọ (1978) trong tình trạng cấp cứu: Mặt mày Châu như một tàu lá héo, em khó thở, da xanh mướt, môi nhợt nhạt, mũi hếch, cánh mũi phập phùng, mắt lồi, đầu ngón tay ngón chân bè ra và tím tái. Việc chẩn đoán bệnh cho Châu không khó lắm vì các triệu chứng lâm sàng đã rõ ràng và khá đầy đủ. Em bị tim bẩm sinh: Một trường hợp thông liên thất đã đổi shunt và có biến chứng tăng áp phổi(1).

Chúng tôi nhanh chóng làm các thủ pháp cấp cứu, các thủ tục nhập viện và nói với người nhà (mẹ em) chuẩn bị tinh thần để em ở lại bệnh viện dài ngày.

Những ngày áp tết bệnh viện và khoa nhi giảm dần quang cảnh tấp nập. Các bệnh nhân nhẹ hay đã ổn định lần lượt cùng với thân nhân về quê lo Tết và ăn Tết. Nhân viên bệnh viện một số cũng “tranh thủ” về nhà để làm cái gì đó chuẩn bị các thứ…

Tôi lần đầu tiên đón tết xa nhà. Những thứ phân phối nhận được từ ban “đời sống” bệnh viện nhiều và khác lạ hơn ngày thường nhưng chúng tôi không đủ sức “lo Tết”. Ăn uống cũng rất cần cho tình trạng thiếu thốn dinh dưỡng như chúng tôi, nhưng nghỉ ngơi đối với riêng tôi lại cần thiết hơn rất nhiều. Trang hoàng nhà cửa, cúng kiếng, nội ngoại, bạn bè nay đã xa không cần phải thăm hoặc tiếp bất cứ ai. Căn phòng nhỏ hẹp và tối do nhà nước cho ở hoàn toàn không thích hợp với một giò lan rừng do người cha của một bệnh nhân tặng.

Ba ngày Tết của hai vợ chồng “côi cút” chúng tôi là những lần đèo nhau trên chiếc xe đạp đi quanh các nơi cần mà chưa đến được trong thị xã. Chúng tôi không đủ sức đi xa hơn. Kết quả là được thở thoải mái hơn là thăm ngắm cảnh quan. Mỗi lần đi ra khỏi “phòng tiêu chuẩn” chúng tôi đều ghé khoa nhi. Hoàng Ngọc Châu và những em bệnh nặng khác trở thành đối tượng để tôi thăm Tết.

Đặc biệt mẹ con Hoàng Ngọc Châu là hai người nói tiếng Huế duy nhất trong số bệnh nhân của tôi lúc này. Châu đã qua cơn nguy cấp, tỏ ra liến thoắng, sinh động và ưa bắt chuyện. Qua câu chuyện ba ngày tết tôi biết quê cha của Châu là Hải Lăng, Quảng Trị, quê mẹ em là Huế, gia đình theo đạo Chúa, nghèo và đơn chiếc. Cha em là quân nhân của chế độ cũ, mẹ em là thợ may có một bàn máy đặt tại nhà với khách hàng là bà con quanh xóm.

Năm 1972, Châu 3 tuổi, gầy yếu xanh xao theo mẹ vào Huế trong “mùa hè đỏ lửa”. Hai mẹ con em trú tại nhà bà ngoại ở thôn Lịch Đợi, phía sau nhà ga Huế. Ba em là quân nhân, thường xuyên vắng nhà, theo đơn vị nay đây mai đó. Mẹ em bày một cái bàn nhỏ bán nước chè cho khách qua lại tại một góc trước sân ga để sống qua ngày.

Chiến tranh chấm dứt, ba em thôi làm lính, gia đình bé nhỏ của em rời nhà bà ngoại trở lại Hải Lăng sinh sống bằng nghề nông. Gia đình sum họp chưa được bao lâu, chính quyền địa phương đưa ba em đi học tập cải tạo ở Cồn Tiên, mẹ em tham gia hợp tác xã nông nghiệp. Do em bị đau ốm thường xuyên, mẹ phải ở nhà chăm sóc nên công điểm ở hợp tác xã chẳng được bao nhiêu, cuộc sống hai mẹ con trở nên cùng quẫn phải bồng bế nhau vào lại Huế nương nhờ bà ngoại. Việc bán nước chè ở trước ga Huế thu nhập không đủ để đóng góp cùng bà ngoại trong các nhu cầu đơn giản mà cấp thiết của ba người, một già yếu, một trẻ bệnh và một phụ nữ chân yếu tay mềm hết đường bươn chải. Họ quyết định đi kinh tế mới theo chủ trương của nhà nước.

Phú Xuân, xã kinh tế mới cách quận lỵ Buôn Hồ 30 cây số, cách Ban Mê Thuột 70 cây số về phía đông bắc là quê hương bất đắc dĩ sau cùng của họ. Bởi phía sau họ còn có ba nơi để nghĩ tưởng và nhớ thương về, bà con đồng đạo, nhà thờ xứ và đặc biệt người đàn ông là cha, là chồng, là rể đang đi học tập cải tạo.

Ở xã kinh tế mới Phú Xuân bệnh tình của Châu ngày một nặng thêm. Bà ngoại trông nom cháu và đảm trách công việc: bếp núc, heo gà. Mẹ cháu, chị Sửu – một mình ra đồng giữa hai thời kiểng với hợp tác xã và đầu tắt mặt tối với mảnh đất vườn 1000m2 bao quanh nhà.

Châu phát bệnh nặng giữa đêm, không đợi được đến sáng để theo chuyến xe công nông duy nhất trong ngày ra huyện, chị Sửu phải gọi nhờ mấy người trong đội sản xuất thay nhau võng Châu đi suốt sáu bảy tiếng đồng hồ đường rừng ra bệnh viện Huyện. Bệnh viên huyện Buôn Hồ điều trị mấy ngày không thuyên giảm, họ giới thiệu Châu lên bệnh viện Tỉnh Daklak.

Ở khoa nhi bệnh viện tỉnh Daklak, qua giai đoạn cấp cứu, Châu có vẻ khỏe hơn, ăn uống được tí chút. Một tuần sau em đi lại được, nói năng hoạt bát, ưa bắt chuyện, quan tâm nhiều thứ, thắc mắc nhiều điều, tỏ ra là một đứa trẻ thông minh. Tôi phải nhắc nhở cả hai mẹ con là nói nhiều không có lợi cho việc điều trị bệnh, em vâng lời nhưng chóng quên. Em chờ những lúc tôi rỗi tay là lân la hỏi hết chuyện này đến chuyện nọ. Có lần em hỏi tôi:

Bác biết tiếng Tây phải không?

Tôi nhìn em thật lâu và hỏi lại:

– Con thắc mắc như thế để làm gì? Con cần biết điều gì phải không?

– Hôm trước con thấy bác nói chuyện với bác sĩ Thới toàn tiếng Tây không à(2).

– Ừ mà chuyện bác biết hay không biết tiếng Tây, con hỏi để làm gì.

– Ở với bà ngoại, con hay nghe bà hay nhắc đến Thánh Đường, Thánh Lễ La Vang. La Vang đối với ngoại và cả mẹ nữa vô cùng tôn kính và thiêng liêng. Con không hiểu hai từ La Vang là gì. Con đã hỏi mẹ và ngoại nhiều lần nhưng cũng chỉ được trả lời: đó là một nhà thờ rất to, rất thiêng. Một lần nào đó hồi xa xưa đức Mẹ đã hiện ra che chở cho người có đạo trước sự truy đuổi chém giết của người ngoại đạo. Ba con đi học tập. Mẹ và ngoại muốn đến đó để cầu xin Đức Mẹ cứu giúp cho Ba mau được thả về. Không đi được, đêm nào mẹ và ngoại cũng cầu nguyện, van xin Đức Mẹ La Vang cho ba được về, cho cháu được lành bệnh. Con không hiểu từ La Vang là gì? Có phải kêu to và vang xa hay la lối vang núi đồi như mấy người lớn ở quê mới giải thích không? Hay La Vang là tiếng Tây mà người mình vì dốt mà không hiểu được? Bác biết tiếng Tây, bác giảng cho con, con rất muốn nghe.

Tôi phân vân không biết giải thích thế nào cho em, đây là một vấn đề tôi đã trao đổi nhiều lần với cha Petitjean(3), người dạy pháp văn cho tôi. Tôi cố tóm tắt sao cho thật dễ hiểu.

– Theo bác La Vang không phải là tiếng Tây cũng không là tiếng Việt.  Gốc của La Vang là lá vằng. Lá Vằng là loại cây mọc hoang trên núi đồi Quảng Trị, lá vằng là một loại cây thuốc mà ngày xưa các bà mẹ khi mang thai thường uống để sinh con có nước da hồng hào không viêm nhiễm. Lá vằng cũng dành cho các bà mẹ sau khi sinh uống để có sữa nhiều. Vì thương con nên các bà mẹ đã chịu khó uống thứ nước lá rất đắng này trong suốt một thời gian dài từ khi mang thai đến hết thời kỳ cho con bú. Thời vua Cảnh Thịnh nhà Tây Sơn cách đây khoảng 220 năm, đạo Thiên Chúa bị đàn áp. Dân xứ đạo Cổ Vưu, (một xứ đạo cách thị xã Quảng Trị 4 cây số về phía tây, cách thành phố Huế 50 cây số về phía Bắc) đã chạy trốn ở một ngôi chùa hay đình miếu gì đó đã hoang tàn giữa một đồi chung quanh có nhiều cây lá vằng. Cuộc sống khó khăn, đói khổ, bệnh tật, một đêm nào đó họ thấy đức mẹ Maria hiện ra ban phép lành và che chở họ. Nhờ vậy họ vượt qua hiểm nguy, bệnh tật và tuyệt vọng. Từ sau sự kiện Đức Mẹ hiện ra trên đồi lá vằng, địa danh này trở nên nổi tiếng trong cộng đồng người công giáo. Nhiều người, nhiều gia đình gặp tai ương hoạn nạn đã lên đó cầu xin để được tai qua nạn khỏi. Nhà thờ trên đồi lá vằng được xây dựng, sửa chữa, xây mới ngày một to lớn và đẹp đẽ.

Tôi nói chưa xong thì Hoàng Ngọc Châu nóng vội hỏi:

– Nhưng tại sao nhà thờ trên đồi lá vằng lại gọi là La Vang?

Tôi lấy một đơn thuốc lật mặt sau viết lớn cùng trên một hàng bốn chữ: Lá Vằng – La Vang đưa cho Châu và bảo:

– Con hãy quan sát và nói cho bác nghe có gì giống nhau và khác nhau trong bốn chữ này.

Hoàng Ngọc Châu cầm tờ giấy nhìn và ngẫm nghĩ một lúc và trả lời:

– Lá Vằng có dấu sắc, dấu á, dấu huyền. La Vang không có dấu nào cả.

Tôi giải thích tiếp cho Châu:

– Tiếng Tây và chữ Tây không có các dấu huyền, sắc, hỏi, ngã, nặng, chữ Tây cũng không có các âm ă, â. Người Tây quen nói và viết tiếng nước họ, khi họ nói và viết tiếng Việt họ thường nói sai và viết sai. Ví dụ chữ lá vằng họ nói và viết thành la vang. Tên con là Hoàng Ngọc Châu, họ viết và đọc là Hoang Ngoc Chau. Tên mẹ con là Sửu họ viết và đọc là Suu. Trong số những người dân Đạo chạy nạn Tây Sơn lên trốn trên đồi lá vằng chắc chắn có một ông cố đạo người Tây. Ông này nói không chuẩn tiếng Việt, lá vằng ông nói thành la vang. Dân có đạo mình rất kính phục, vâng lời tuyệt đối và hay bắt chước bất cứ thứ gì có thể bắt chước được từ các ông cố đạo suốt mấy trăm năm.  La Vang hay Hoang Ngoc Chau hay Suu là ba trong rất nhiều ví dụ.

Hoàng Ngọc Châu chăm chú nghe ra vẻ bằng lòng với những lời giải đáp của tôi.

Tôi hỏi tiếp em:

– Thế con thích gọi nhà thờ La Vang hay nhà thờ Lá Vằng?

Châu trả lời nhanh và gọn:

– La Vang thì dễ nói hơn, Lá Vằng thì hay hơn.

Tôi chửng hững trước nhận xét dứt khoát của em. Đằng sau ánh mắt mệt mỏi, làn da xanh tái, những nhịp thở ngắn thiếu khí ấy tôi cảm nhận được những nét tinh anh, thánh thiện tồn tại như những tia nắng le lói đang tắt dần giữa bầu trời tối đen.

Sau Tết khoảng 10 ngày, thấy chị Sửu, mẹ Châu, đang loay hoay nấu nướng gì đó ở khu bếp dành riêng cho người nhà bệnh nhân, trở lại phòng, tôi bảo Châu:

– Mẹ con nấu nướng vất vả lắm, con gắng ăn nhiều

cho mẹ vui. Châu cúi mặt, đưa tay chùi nước mắt và nói:

– Bác không biết mẹ con và bà ngoại cực khổ và thương con như thế nào đâu. Trước khi đi bệnh viện, con nghe được câu chuyện giữa mẹ và bà ngoại. Ba con đi học tập chưa về, con không biết hỏi ai để biết sự thật. Con nói với bác nhưng bác đừng nói lại với ai.

Châu vừa nói đến đó, thấy mẹ bưng cháo vào, em dừng lại, làm ra vui vẻ, nhận tô cháo từ tay chị Sửu, vừa thổi vừa ăn một cách ngon lành. Nét mặt người mẹ tươi hẳn lên, trông chị tràn đầy hạnh phúc và hy vọng.

Mấy hôm sau chị Sửu gởi Châu lại cho người nuôi bệnh bên cạnh để về Phú Xuân lấy thêm gạo củi. Châu chờ lúc tôi không bận việc, em vội đến bên tôi không ấp úng như bữa trước, trái lại em tỏ ra chững chạc tự tín:

– Hôm trước con định kể chuyện con cho bác nghe, nhưng mẹ vào, con vội thôi. Hôm nay bác có rảnh và muốn nghe con nói không? Tôi bảo:

– Con cứ nói, bác nghe đây.

Châu buồn bã, khóc rưng rức rồi nói trong nước mắt:

– Con không… không… phải… là… con… đẻ… của mẹ.

Mẹ Sửu… không phải…  là… mẹ đẻ… của con.

Tôi bối rối không hiểu chuyện gì, tôi hỏi lại Châu:

– Tại sao con nói thế?

Châu bảo:

– Trước khi đi bệnh viện Buôn Hồ con nghe bà và mẹ nói nhỏ với nhau rằng: “bệnh con thấy tăng không thấy giảm. Phải đưa đi nhà thương thôi. Cả bà và mẹ đều khóc và nói: Dù không phải là con đẻ, là cháu ruột nhưng không thể không thương. Khó khăn thế nào cũng phải cố thôi. Phải bán con heo lấy tiền, mượn thêm thúng lúa xay gạo để đem nó đi chữa bệnh”.

– Bác ơi! Châu tiếp tục nói, con rất nhớ ba, thương mẹ, thương bà. Bác ơi! con có sống được không? Ba con có về kịp không? Bác ơi… Châu vừa nói liên hồi vừa thở hổn hển, rồi òa khóc.

Tôi đau điếng trong lòng, muốn khóc nhưng cố gắng tỏ ra bình thường và nói:

–  Con sẽ không sao đâu, ăn nhiều và đừng nghĩ đến chuyện buồn. Ba con sẽ về thôi. Con có mẹ và bà thật tuyệt vời. Tôi lau nước mắt cho em, xoa đầu an ủi để em bớt xúc động. Được một lúc lâu, hết khóc, Châu nói:

– Bác ơi! con có điều nhờ bác, bác phải hứa giúp con.

– Ừ bác sẽ giúp, làm gì được trong sức của bác, bác sẽ làm.

– Con biết không sống được đến ngày ba về, con nhờ bác viết cho ba con một cái thư. Viết rằng con nhớ thương ba, mẹ và bà ngoại hết lòng thương yêu chạy chữa và chăm sóc cho con. Con cũng rất thương bà và mẹ. Con chết vì bệnh nặng không chữa được, mai tê ba về đừng la trách mẹ tội nghiệp.

          Tôi bàng hoàng, bao tử thắt từng cơn, không cầm được lòng, nước mắt chảy dài. Cố gắng trấn tỉnh, tôi nói với Châu:

– Con cũng có thể viết thư cho ba kia mà.

Châu bảo:

– Bác viết thì ba tin hơn. Con viết ba không tin bằng bác viết.

Nói được với tôi câu đó, Châu bớt xúc động, em có vẻ thanh thản hơn. Em đến giường, nằm xuống mắt lim dim muốn ngủ.

Một ngày tháng giêng, Ban Mê Thuột gió nổi từng cơn, bụi đỏ mù trời. Các cửa kính bệnh viện cũ kỹ tù mù, bụi phủ hết lớp này đến lớp khác mặc dù các chị y công sáng nào cũng lau chùi. Từ trong phòng làm việc thỉnh thoảng tôi ngước nhìn qua cửa sổ: cây lá lay động tả tơi, vật vờ trong gió cát. Tôi linh cảm một điều gì đó chẳng lành sẽ đến. Hoàng Ngọc Châu, bệnh nhân bé nhỏ tội nghiệp của tôi, thiên thần của tôi ra đi chăng?

Nhớ lời em gởi gắm. Tôi liên tưởng đến tiếng chim hót trong bụi mận gai. Tiếng hót thật hay thoát ra từ trái tim đang rỉ máu.

Hoàng Ngọc Châu ra đi. Không có vị linh mục nào làm thánh lễ cho em. Chỉ có chị Sửu, mẹ em, và tôi – (kẻ ngoại đạo đồng thời là người thầy thuốc bất lực) ở bên em những giây phút cuối cùng. Tôi vuốt mắt, chị Sửu cài lại cúc áo, làm dấu thánh cho em và vỡ òa một cơn khóc mà chị cố kìm nén bấy lâu. Chị gào lên:

Con ơi, mẹ biết ăn nói với ba con sao đây?

Anh ơi! Sao giờ này lại không có anh. Thằng Châu đã bỏ chúng ta rồi.

Tôi lại bàn làm việc, định thần một lúc, viết giấy khai tử cho em. Nhớ lời em nhờ, tôi lật mặt sau tờ giấy khai tử viết mấy dòng sau đây:

“Tôi: Bác sĩ Nguyễn thị Kim Thoa, đã tiếp nhận và điều trị tích cực bệnh nhi Hoàng Ngọc Châu. Bệnh em Châu nặng, khả năng bệnh viện và cá nhân tôi không đủ để duy trì sự sống cho em. Trước khi qua đời, em Hoàng Ngọc Châu nhờ tôi viết lại mấy lời gởi cho người cha đang đi học tập cải tạo: “Ba ơi! con rất nhớ ba. Ở nhà cũng như ở bệnh viện mẹ và bà ngoại đã thương yêu nuôi nấng và chăm sóc con đầy đủ, chu đáo. Con thương mẹ, ba cũng như thương bà. Con của Ba: Hoàng Ngọc Châu”.

Tôi đưa tờ khai tử cho chị y tá Ri lên khu hành chánh để đóng dấu. Tôi dặn chị Ri nhớ đóng dấu cả mặt sau nơi tôi ghi mấy dòng di ngôn theo yêu cầu của Hoàng Ngọc Châu. Chị Ri lau vội nước mắt bước ra.

Ngồi lại một mình, nước mắt vẫn ràn rụa, lòng xúc động nhưng không còn quặn thắt đau như trước đó mấy phút. Tôi nghĩ về Hoàng Ngọc Châu với lòng quí trọng và biết ơn. Tôi đã nhận được từ em, cậu bé tám tuổi trước khi lìa khỏi cuộc đời tàn ác vô tình này, một ý chỉ, một thông điệp về tình yêu thương, lòng vị tha và ý thức trách nhiệm đối với người còn ở lại, không chỉ với cha mẹ, bà ngoại mà còn với tất cả chúng ta, những kẻ đang nhân danh hay mạo danh đủ mọi thứ giữa cuộc tồn tại hai mặt này.

Những lời đơn sơ mộc mạc mà Hoàng Ngọc Châu đã thều thào thốt ra trước lúc lâm chung và cả những điều em đã nói với tôi qua những cuộc trao đổi trong những ngày sau Tết đã làm thay đổi mối giao tiếp giữa tôi và em. Tôi không còn là một bác sĩ với “sứ mệnh” cứu chữa bệnh tật cho em nữa, bởi tôi đã bó tay bất lực để cho cái cậu bé vô cùng thánh thiện ấy ra đi. Còn em mặc dù rất muốn sống để chờ người cha đi học tập về để yêu thương và được yêu thương trong mái ấm gia đình, trong cộng đồng làng nước, nhưng em đành chấp nhận cuộc ly biệt chẳng đặng đừng. Có điều em chẳng hề oán trách bất cứ ai, bất cứ thế lực nào, trần gian hay thiên giới, đặc biệt em không muốn cái chết của chính mình sẽ để lại bất cứ một ngộ nhận nào có thể nẩy sinh từ một sự thật em tình cờ nghe biết được trước khi đi bệnh viện rằng hai phụ nữ đã cúc cung tận tụy nuôi nấng chăm sóc chạy chữa cho em suốt tám năm trời trong tình yêu thương vô hạn không phải là mẹ, là bà ngoại ruột.

Những lời trăn trối em gởi gắm cho người cha mong đợi mà tôi đã ghi lại ở mặt sau tờ khai tử của Hoàng Ngọc Châu đã chuyển hóa tôi từ một người thầy thuốc thất bại thành người thư ký khiêm tốn của một thiên thần.

Ghi chú:

(1) thông liên thất, tăng áp phổi: communication interventriculaire,  hypertention pulmonaire: syndrome Eisenmenger.

(2) Bác sĩ Thới như tôi đã giới thiệu ở trên, ông có thói quen dùng tiếng Pháp để diễn đạt các khái niệm chuyên môn. Gần như ông không biết các danh từ y khoa tiếng Việt. Tôi nói Thông Liên Thất ông không hiểu. Tôi phải nói communication interventriculaire. Tôi nói tăng áp phổi ông càng tò te. Tôi phải nói hypertention pulmonaire thì ông nhanh chóng ừ ừ gật gật. Tôi xin mở một ngoặc đơn để nói rõ hơn về vấn đề chuyên ngữ tại Đại học Y khoa Huế. Tôi biết thêm một số từ ngữ y khoa tiếng Việt nhờ môt năm học tập chính trị sau giải phóng. Thời gian này sinh viên khóa 10 đại học Y khoa Huế, phải thực tập thêm một năm với tư cách là sinh viên nội trú tại bệnh viện Trung ương Huế. Tại đây chúng tôi nhận sự hướng dẫn bởi các bác sĩ chuyên nhi từ miền Bắc vào. Các vị này bắt buộc chúng tôi phải sử dụng tiếng Việt hoàn toàn trong tất cả mọi trường hợp từ làm bệnh án đến giao tiếp với đồng nghiệp, với bệnh nhân. Tôi biết chủ trương lấy tiếng Việt làm chuyển ngữ đã được một số nhà chuyên môn, nhà văn hóa, nhà báo ở miền Nam cổ vũ từ nhiều năm trước. Tại Huế, bác sĩ Lê Khắc Quyến, nguyên khoa trưởng Đại Học Y khoa Huế đã biên soạn cuốn tự điển danh từ y khoa Pháp – Việt và hô hào mạnh mẽ cho hành động có tính cách chính trị và văn hóa này trên tạp chí Lành Mạnh do ông chủ trương. Nhưng thực tế kết quả chẳng được bao nhiêu. Tại Đại học Y khoa Huế từ các giáo sư người ngoại quốc, các giáo sư, giảng sư người Việt, đến bác sĩ trợ giảng, chế nghiệm viên và sinh viên đều dùng các thuật ngữ y khoa bằng tiếng Anh, tiếng Pháp và cả tiếng Đức. Thậm chí có giáo sư người Việt vẫn soạn giáo trình và giảng hoàn toàn bằng ngoại ngữ. Có nhiều sinh viên phải rời trường Đại Học Y vì trình độ ngoại ngữ không đủ để đáp ứng yêu cầu của một số môn học.

Có điều cần làm rõ là việc sử dụng ngôn ngữ Việt trong giảng dạy và học tập tại tất cả các chuyên ngành khác nhau ở bậc đại học hoàn toàn không đồng nghĩa với việc sinh viên và cả rất nhiều giáo sư tiến sĩ tại các đại học Việt Nam không biết ngoại ngữ. Ngoại ngữ theo tôi là cầu nối ốc đảo trí tuệ và học thuật Việt Nam với các đại lục trí tuệ và học thuật thế giới.

(3) Petitjean tên đầy đủ là Henri Petitjean, linh mục thừa sai thuộc giáo hội Pháp quốc hải ngoại. Trước 1954 hành đạo ở Hải Phòng. Sau 1954 chuyển vào miền Nam, cư trú và hành đạo tại Huế. Bị trục xuất khỏi Việt Nam ngày 4 tháng 9 năm 1975.

Tôi quen ông ở lớp học Pháp văn do ông phụ trách, đồng thời tôi cũng giúp ông hiểu thêm về ngôn ngữ và văn hóa Việt Nam. Câu chuyện lá vằng và La Vang là một trong những vấn đề chúng tôi đã thảo luận.

(4) Tôi ghi chú thêm về câu chuyện trên: Châu mất mẹ khi lọt lòng. Chị Sửu về làm mẹ Châu sau đó không lâu. Tôi biết được điều này trong một dịp đi công tác tuyến ở xã kinh tế mới Phú Xuân. Tôi đã tìm thăm hai người phụ nữ lương thiện và đáng kính này.

This entry was posted in Văn and tagged . Bookmark the permalink.