Dương Thắng
- Giáo sư Ludwig von Mises[1], người phát ngôn chủ chốt trong nhiều năm của “Trường phái kinh tế Áo”, đã nhiều lần nhấn mạnh về tầm quan trọng của việc phân tích nghiêm túc mọi “khuynh hướng” kinh tế, dẫu nó có vẻ bề ngoài phi thực tế hay không tưởng đến mức nào. F. A. Hayek – người đồng hương, nhà kinh tế học đoạt giải Nobel năm 1974, bạn thân của Ludwig von Mises – đã phân tích cẩn thận một trong những học thuyết “thời thượng” nhất nhưng lại là một trong những học thuyết có tính phá hoại nhất đối với tư tưởng kinh tế hiện đại – cái ý tưởng cho rằng các phương pháp của khoa học tự nhiên mà điển hình là toán học và vật lý cũng có thể áp dụng cho những nghiên cứu về xã hội.
- Trong cuốn Cuộc cách mạng ngược trong khoa học: Các nghiên cứu về sự lạm dụng lý tính[2] xuất bản lần đầu vào năm 1952 và được tái bản nhiều lần sau đó, Hayek đã mổ xẻ và phân tích cẩn trọng và có hệ thống chủ nghĩa thực chứng (positivisme) và thuyết duy sử luận (historicisme)-hai học thuyết khoa học xã hội đã đóng vai trò nền tảng cho các lý thuyết xã hội chủ nghĩa hiện đại[3], những lý thuyết gắn bó chặt chẽ với các nền kinh tế tập trung và kế hoạch hoá. Những luận điểm phê phán này rất sâu sắc và rất cần thiết cho những ai quan tâm nghiêm túc đến phương pháp khoa học xã hội và lịch sử tư tưởng kinh tế.
- Hayek luôn bày tỏ mối quan tâm và sự lo lắng về việc lạm dụng lý tính trong các ngành khoa học xã hội. Những nền móng đầu tiên của chủ nghĩa xã hội đã được những người đi tiên phong như Saint Simon[4] xây dựngvào đầu thế kỷ 19. Cũng trong thời gian này các nhà nghiên cứu và các học giả hầu như đã được giải phóng hoàn toàn khỏi những hạn chế và cấm kỵ của thần thoại và mê tín tôn giáo Trung cổ. Kiến thức về thế giới vật chất phát triển vũ bão thông qua những bước nhảy vọt. “Cuộc cách mạng công nghiệp”, với nhiều phát minh mới, đã cải thiện đáng kể sức sản xuất, thông tin liên lạc và giao thông vận tải. Khi hàng hóa và dịch vụ trở nên sẵn có hơn, điều kiện sống cũng được nâng cao đáng kể, đặc biệt là đối với tầng lớp “bình dân” và những người nghèo. Tỷ lệ sống sót sau sinh và tuổi thọ trung bình tăng cao hơn. Sự gia tăng dân số đã cung cấp bằng chứng hùng hồn cho sự tiến bộ có thể đạt được bằng cách áp dụng các phương pháp của khoa học vật lý vào cơ học và công nghệ. Do đó, không có gì đáng ngạc nhiên khi việc cố gắng áp dụng các phương pháp của khoa học tự nhiên, đặc biệt là vật lý vào hầu hết mọi ngành học đã trở thành mốt thời thượng. Tuy nhiên, chúng lại hoàn toàn không phù hợp với các hoạt động nghiên cứu về hành vi và hoạt động của con người và xã hội. Giải thích tại sao lại như vậy là chủ đề chính trong cuốn sách nổi tiếng này của Hayek.
- Phần quan trọng nhất của cuốn sách là phần đầu tiên với nhan đề Chủ nghĩa duy khoa học và nghiên cứu về xã hội. Chủ nghĩa duy khoa học (scientism), như cái cách mà Hayek đã phát biểu, là sự áp dụng sai lệch và khiêm cưỡng các phương thức tư duy được áp dụng trong nghiên cứu các hiện tượng vật lý vào nghiên cứu xã hội. Đặc trưng nổi trội của khoa học tự nhiên là “tính khách quan”, tức là việc phân loại các sự vật theo những tác động qua lại của chúng, bất kể việc chúng có thể mang ý nghĩa chủ quan như thế nào đối với mỗi người trong chúng ta. Ở chiều ngược lại, toàn bộ quan điểm trong các nghiên cứu về hành vi xã hội nằm trọn trong ý nghĩa vốn có của các hiện tượng được nghiên cứu. Như Hayek đã nhấn mạnh: “[…] Chẳng thể định nghĩa một “hàng hoá” hay “mặt hàng kinh tế”, “thực phẩm” hay “tiền tệ” dưới góc độ vật lý mà chỉ có thể định nghĩa dưới góc độ thuộc về quan điểm của những người bận tâm đến chúng”, cũng tương tự như vậy, những phân tích về bản chất vật lý của tiền polymer hay tiền kim loại sẽ không bổ sung gì thêm cho hiểu biết của chúng ta về ý nghĩa xã hội của tiền tệ. Vì vậy, theo một nghĩa nào đó, hai lĩnh vực nghiên cứu – khoa học tự nhiên và khoa học xã hội – được tiến hành theo hai chiều ngược nhau. Nhà nghiên cứu khoa học tự nhiên tiến hành phân tích để khám phá các yếu tố cấu thành ra các sự vật mà anh ta đang nghiên cứu, trong khi nhà nghiên cứu khoa học xã hội bắt đầu với các yếu tố trong tương tác xã hội có thể quan sát được và được thấu hiểu dựa trên thực tế rằng bản thân chính con người anh ta là một tác nhân tương tác và công việc tiếp sau đó là tiến hành xây dựng các sơ đồ lý thuyết nhờ vào những gì được anh ta quan sát trực tiếp như một phần của hệ thống xã hội. Và như vậy, bằng những cách thức được nhắc đến ở trên, nhà nghiên cứu khoa học tự nhiên được trao cho những sự vật “toàn thể” và anh ta phải tìm hiểu xem chúng được tạo nên từ những cái gì; trong khi đó nhà nghiên cứu khoa học xã hội lại được trao cho các “bộ phận” của sự vật và anh ta phải đi xây dựng “cái toàn thể”.
- Nói một cách ngắn gọn thì nếu như phương pháp nghiên cứu căn bản trong khoa học tự nhiên là “phân tích”, thì trong khoa học xã hội lại là “tổng hợp hay tổ hợp”. Như Hayek đã nhấn mạnh: “[…] nhóm các ngành khoa học xã hội không xử lý các tổng thể “có sẵn”. Thay vào đó nhiệm vụ của chúng là thiết lập các tổng thể đó bằng cách tạo dựng các mô hình từ các phần tử quen thuộc – các mô hình tái tạo cấu trúc các mối quan hệ giữa một số trong rất nhiều hiện tượng mà chúng ta luôn quan sát được đồng thời trong đời sống thực”.
- Lỗi lầm lớn nhất của “Chủ nghĩa duy khoa học” đến từ việc không nhận ra sự khác biệt cơ bản này. Điển hình là nhận định sau đây của Auguste Comte, cha đẻ của xã hội học: “[…] giống như sinh vật học, khi con người và xã hội là đối tượng chính… tổng thể của khách thể được biết đến hiển nhiên rõ ràng hơn và dễ tiếp cận hơn so với các bộ phận của khách thể”. Nếu quả đúng như vậy, thì một nghiên cứu “khách quan” về xã hội, không liên quan đến bất kỳ tham chiếu nào đến động cơ, giá trị hoặc ý tưởng của con người, chắc chắn sẽ là khả thi và chúng ta có thể áp dụng bất kỳ quy luật nào mà chúng ta đã được học trong việc tổ chức lại xã hội theo các nguyên tắc vận hành “tốt nhất” và “tối ưu”. Tất nhiên, đây chính là điều mà Saint-Simon và các đệ tử của ông muốn làm, và như Hayek đã chỉ ra, không phải ngẫu nhiên mà hầu hết những người này đều xuất thân từ trường Đại học Bách Khoa Paris, thành trì của truyền thống lý tính Pháp.
- Tuy nhiên trên thực tế, nhà khoa học xã hội, như chúng ta đã thấy rất rõ, không bao giờ có được vị thế đó. “Xã hội tổng quan” không hiện diện trước mặt anh ta để bị thao túng, đơn giản bởi vì một “thứ” như vậy thực sự không tồn tại. Tất cả những gì chúng ta “có” là các tương tác của những cá nhân và những tương tác của họ đã tạo ra những kết quả ngoài ý muốn và không hề được thiết kế sẵn. Nhiệm vụ của nhà khoa học xã hội là tích hợp những quy luật mà anh ta có thể phát hiện được vào trong một hệ thống lý thuyết. Điều này rõ ràng là bất khả nếu sự tương tác của một số người không tạo ra trật tự, nhưng một câu hỏi quan trọng hơn cần được đặt ra: giả sử rằng chúng ta có thể khám phá ra trật tự được tạo ra bởi sự tương tác tự phát của một số người, liệu chúng ta có thể thay đổi nó không?
- Cuốn Cuộc cách mạng ngược trong khoa học này của Hayek sẽ giúp độc giả nhận ra sự bất khả thi của việc mong muốn lập ra một nền kinh tế tập trung và kế hoạch hoá và cũng như cái mong ước muốn tạo ra các thể chế xã hội vận hành theo những thiết kế có sẵn. Những mong muốn này bắt nguồn từ niềm tin rằng xã hội có thể được phân tích và lập kế hoạch bằng các phương pháp khoa học vật lý: quan sát, thử nghiệm và đo đạc. Những người theo đuổi ý tưởng này đã không nhận ra sự khác biệt quan trọng giữa các phương pháp khoa học vật lý và khoa học xã hội. Khi làm như vậy, họ đã bỏ qua vai trò của các cá nhân và ý tưởng, giá trị và mục tiêu của họ. Và quan trọng hơn họ cũng bỏ qua tính tất yếu của sự thay đổi.
- Trong cuốn sách này Hayek cũng giải thích nguồn gốc của các thể chế xã hội như thị trường, giá cả, tiền tệ, ngôn ngữ, v.v. Ông nhấn mạnh rằng bản thân xã hội, vốn mang lại nhiều lợi ích cho từng thành viên, là kết quả (ngoài ý muốn) đến từ vô vàn những hành động của rất nhiều người. Những ý tưởng và hành động riêng biệt, độc lập, có chủ ý và tự nguyện của họ đã vô tình dẫn đến sự hình thành của nó. Và những thay đổi đang diễn ra sẽ đóng vai trò thúc đẩy xã hội chuyển đổi sang một thứ gì đó rất khác trong tương lai. Những ai muốn tìm cách cải cách xã hội và giải quyết các vấn đề xã hội cần phải học cách đánh giá cao vai trò của tự do trong sự phát triển của các thể chế xã hội hữu ích, điều mà luôn vắng mặt trong các quy hoạch xã hội được các môn đồ của trường phái duy khoa học dày công thiết kế và cố gắng áp đặt lên xã hội .
- Hayek viết cuốn Cuộc cách mạng ngược trong khoa học trong những năm tháng khốc liệt nhất của thế chiến II với mong muốn làm sáng tỏ một sự thật hiển nhiên: sự hữu hạn bẩm sinh của tâm trí con người. Xác tín này của Hayek dựa trên một nền tảng mang đậm tính triết học, và triết học ở đây cần phải hiểu theo nghĩa rộng, đó là một “tầm nhìn về thế giới”. Và mối quan hệ giữa tầm nhìn triết học và tầm nhìn chính trị, cũng như giữa tầm nhìn chính trị và tầm nhìn kinh tế, trong đa phần các trường hợp đều không phải là một quan hệ tuyến tính giản đơn. Dựa trên nền tảng triết lý này Hayek đã kiên trì xây dựng hệ thống phương pháp luận để chống lại khuynh hướng duy khoa học trong nghiên cứu xã hội, khuynh hướng bắt chước một cách mù quáng cách tiếp cận trong nghiên cứu thế giới tự nhiên. Ông khẩn thiết yêu cầu các nhà nghiên cứu khoa học xã hội hãy ghi nhớ điều này để có thể đem tới những đóng góp tích cực cho sự phát triển nền văn minh nhân loại thay vì tham gia vào việc phá huỷ nó.
[1] Ludwig Heinrich Edler von Mises (29/9/1881-10/10/1973), nhà kinh tế học Trường phái Áo, nhà sử học, nhà luận lý học và nhà xã hội học, một trong những lý thuyết gia hàng đầu về chủ nghĩa tự do cổ điển. Ông nổi tiếng về hành vi học, ngành nghiên cứu về lựa chọn và hành động của con người.
[2] F. A. Hayek. The Counter-Revolution of Science: Studies on the Abuse of Reason (bản dịch tiếng Việt: Cuộc cách mạng ngược trong khoa học: Các nghiên cứu về sự lạm dụng lý tính. Đinh Tuấn Minh dịch. NXB Tri Thức, Hà Nội, 2017).
[3] Thuật ngữ “chủ nghĩa xã hội” mà Hayek đề cập trong các nghiên cứu của mình không phải là “chủ nghĩa xã hội” như cách hiểu ở Việt Nam hiện nay.
[4] Henri de Saint-Simon (1760-1825), nhà triết học, kinh tế học Pháp, người đầu tiên đề xướng chủ nghĩa xã hội.