Thế giới mới tươi đẹp (kỳ 4)

Aldous Huxley

Hiếu Tân dịch

Chương Bảy

NÚI MẶT BÀN (mesa) giống như một con tàu trong một eo biển lặng gió bụi hung hung đỏ. Dòng kênh bị thương giữa hai bờ vách đá dựng đứng, và từ vách này sang vách kia một vệt xanh chạy xuyên qua thung lũng – con sông và những cánh đồng của nó. Trên mũi của con tàu đó tại tâm của eo, và dường như là một bộ phận của nó, trên phần địa hình nhô lên của đá trần có dáng dấp rõ ràng, là bản (pueblo) Malpais. Khối nọ chồng lên khối kia, mỗi tầng trên nhỏ hơn tầng dưới, và những ngôi nhà cao giống như những kim tự tháp nhiều bậc và cụt vươn lên trời xanh. Dưới chân chúng là những toà nhà thấp rời rạc, những bức tường đan chéo nhau; và trên ba mặt những vách đứng lao thẳng xuống đồng bằng. Vài cột khói bay lên thẳng đứng và mất hút trong bầu không khí lặng gió.

“Kỳ cục”, Lenina nói. “Kỳ cục quá”, là lời lên án bình thường của cô. “Tôi không thích. Tôi không thích con người đó”. Cô chỉ tay vào người da đỏ dẫn đường được giao đưa họ đến bản. Tình cảm của cô rõ ràng được đáp lại; chính cái lưng của người ấy, đi trước bọn họ, thù địch, khinh bỉ một cách sưng sỉa.

“Ngoài ra”, cô hạ giọng, “nó bốc mùi”.

Bernard không có ý định phủ định điều ấy. Họ tiếp tục bước đi.

Bỗng nhiên dường như toàn bộ bầu không khí trở nên sống động và đập thình thịch, thình thịch với chuyển động không mệt mỏi của dòng máu. Ở trên đó, Malpais, trống đang nổi. Những bàn chân của họ cảm thấy như rơi theo nhịp của trái tim bí ẩn đó; chúng làm cho họ bước gấp gáp. Con đường dẫn họ đến chân vách đá dựng đứng. Các mặt của con tàu núi mặt bàn vươn lên như ngọn tháp phía trên họ, ba trăm foot tới mép tàu.

“Giá mà chúng ta có thể đưa máy bay đến đây”, Lenina nói, bực bội nhìn lên khoảng không lơ lửng trên vách đá. “Em ghét đi bộ. Người ta thấy mình thật nhỏ bé khi đứng dưới chân một quả núi”.

Họ bước đi tìm lối đi trong bóng rợp của núi, vòng quanh một chỗ nhô ra, và kìa, một hẻm núi bị nước bào mòn, là con đường đi lên chiếc thang đồng hành. Họ leo lên. Đó là một lối đi rất dốc trườn dich dăc từ bên này sang bên kia rãnh nước. Đôi khi nhịp trống gần như không nghe thấy, có những lúc dường như chúng chỉ đánh quanh một góc ấy.

Khi họ leo lên được nửa đường, một con đại bàng bay qua gần họ đến mức gió từ cánh của nó thổi rát mặt họ. Trong một khe nứt của đá có một đống xương. Nó gây một cảm giác khó chịu ngột ngạt, và người da đỏ bốc mùi càng lúc càng nặng. Cuối cùng họ ra khỏi khe núi bước ra trước ánh nắng chan hoà. Đính núi mặt bàn là một khoang đá phẳng lì.

“Giống như tháp Charing-T” Lenina bình luận. Nhưng cô chẳng được thích thú lâu với phát hiện của mình về sự giống nhau ấy. Những tiếng dậm chân nhip nhàng khiến họ quay đầu nhìn lại. Hai người da đỏ đang trên đường chạy đến, để trần từ cổ họng xuống đến rốn, những thân mình nâu đen sơn những vạch trắng (“giống như những sân tennis bằng nhựa đường”, sau này Lenina giải thích) mặt họ trông hoang dại không giống người, bôi vẽ lem nhem màu đỏ tươi, đen và son. Mớ tóc đen của họ quấn lông cáo và flannel đỏ. Những áo choàng không tay bằng lông gà tây rung rinh trên vai họ; những mũ miện khổng lồ bằng lông vũ xoè ra lòe loẹt quanh đầu. Mỗi bước đi những vòng bạc kêu leng keng, những vòng cổ nặng nề bằng chuỗi xương hoặc ngọc lam kêu lách cách.

Họ đến không nói một lời, lặng lẽ chạy trong những đôi giày da hươu thuộc. Một trong hai người mang một chiếc chổi lông, người kia mang trong hai tay cái gì nhìn xa giống như ba hay bốn sợi dây thừng. Một trong những dây thừng ấy đang quằn quại, và bỗng nhiên Lenina thấy chúng là những con rắn.

Những người ấy đến mỗi lúc một gần, những con mắt tối xẫm của họ nhìn cô; nhưng không có một dấu hiệu nào nhận biết, một dấu hiệu nhỏ nhất nào rằng họ đã trông thấy cô và nhận ra sự tồn tại của cô. Con rắn lúc trước quằn quại giờ lại rủ thõng xuống như những con khác. Những người ấy đi qua.

Tôi không thích”, Lenina nói. “Tôi không thích cái này”.

Cô còn ít thích hơn những gì đang đợi cô ở cổng làng, nơi người dẫn đường bỏ họ lại trong khi hắn đi vào bên trong nhận lệnh. Trước hết là bùn đất, những đống rác, bụi bặm, những con chó, ruồi nhặng. Mặt cô nhăn lại vì ghê tởm. Cô đưa mùi xoa lên bịt mũi.

“Nhưng làm sao họ có thể sống như thế này?” Cô bùng ra bằng một giọng hoài nghi công phẫn. (Không thể thế được.)

Bernard nhún vai một cách đầy triết lí. “Dù sao”, gã nói “họ đã sống như thế này năm sáu ngàn năm nay. Bởi vậy tôi nghĩ bây giờ họ đã phải quen với nó”.

“Nhưng tính sạch sẽ là gần với tính Ford” (tính thiêng liêng), cô khăng khăng.

“Đúng. Và văn minh là vô trùng”, Bernard tiếp tục, kết luận bằng một giọng mỉa mai bài học trong khi ngủ thứ hai về vệ sinh thường thức. “Nhưng những người này chưa bao giờ nghe về Ford Của Chúng Ta, và họ chưa được khai hóa. Do đó vô ích nếu..”.

“Ôi”. Cô nắm chặt tay gã. “Trông kià”.

Một người da đỏ gần như trần truồng đang chậm chạp từ nền đất cao tầng một của ngôi nhà bên cạnh leo xuống thang, từng bậc từng bậc một với sự thận trọng run rẩy của người cực kì già. Mặt ông ta hằn những vết nhăn sâu và đen, giống như chiếc mặt nạ bằng đá vỏ chai. Cái mồm móm không còn chiếc răng nào. Ở khóe môi và hai bên cằm, vài sợi lông dài gần như lóe trắng trên nền da tối. Mái tóc dài không được búi thả xuống thành những mớ xám xung quanh mặt lão. Thân lão còng và gầy trơ xương, gần như không có thịt. Lão xuống rất chậm, ngừng trên từng bậc trước khi liều xuống bậc khác.

“Có chuyện gì với ông ấy thế?” Lenina thì thầm. Mắt cô mở to vì sợ hãi và sửng sốt.

“Ông ấy già, có thế thôi”. Bernard trả lời bằng giọng bất cẩn nhất. Gã quá hoảng hốt, nhưng cố làm ra vẻ thản nhiên.

“Già à? Nhưng mà Giám đốc cũng già, nhiều người già; họ không như thế”.

“Đó là bởi vì chúng ta không cho phép họ như thế. Chúng ta giữ cho họ khỏi bệnh tật. Chúng ta giữ cho lưu trữ bên trong của họ cân bằng một cách nhân tạo ở mức cân bằng của tuổi trẻ. Chúng ta không cho phép tỉ lệ magnesium-calcium của họ rơi xuống dưới mức khi họ ba mươi tuổi. Chúng ta truyền máu trẻ cho họ. Chúng ta giữ cho sự trao đổi chất của họ thường xuyên được kích thích. Như vậy, tất nhiên họ sẽ trông không giống thế này. Một phần”, gã nói thêm, “bởi vì phần lớn họ chết từ lâu trước khi đạt đến tuổi sinh học này. Trẻ nguyên vẹn cho đến sáu mươi, và sau đó, cạch một cái, kết thúc!”

Nhưng Lenina đâu có nghe. Cô đang nhìn người già ấy. Ông ta xuống chầm chậm, chầm chậm. Bàn chân ông ta chạm mặt đất. Ông ta quay người. Trong hốc mắt sâu hoắm, đôi mắt ông ta vẫn sáng lạ thường. Chúng nhìn cô một lúc lâu không có biểu hiện gì, không ngạc nhiên, như thể cô không hề có đó. Rồi chậm chạp, với cái lưng còng ông già tập tễnh bước qua bên họ và đi mất.

“Nhưng thật khủng khiếp”, Lenina thầm thì. “Kinh tởm. Đáng lẽ chúng ta không nên đến đây”. Cô thò tay vào túi lấy viên soma nhưng phát hiện ra rằng, do một đãng trí chưa từng có, cô đã bỏ lại lọ thuốc ở nhà nghỉ. Các túi của Bernard cũng rỗng.

Lenina bị bỏ lại đối mặt với nỗi khiếp sợ Malpais không ai giúp đỡ. Họ tới tấp kéo đến chật ních. Cảnh tượng hai người phụ nữ trẻ vạch vú cho con bú khiến cô đỏ mặt quay đi. Trong đời cô chưa bao giờ phải thấy cảnh khiếm nhã như thế. Và điều làm cho nó tồi tệ hơn, thay vì khéo léo phớt lờ nó đi, thì Bernard lại cứ bô bô bình luận về cái cảnh đẻ đái đáng phẫn nộ này. Vì lúc này hiệu quả của soma đã tan hết, gã xấu hổ về sự yếu đuối gã đã phô bày sáng nay ở khách sạn, gã tìm cách tỏ ra mạnh mẽ và ngang tàng.

“Một mối quan hệ thân thiết tuyệt vời biết bao”, gã nói, cố tỏ ra táo tợn. “Và cái tình cảm nó sinh ra mới mãnh liệt làm sao. Tôi thường nghĩ có lẽ là một mất mát nếu người ta không có một người mẹ. Và có lẽ là một mất mát đối với cô nếu cô không được làm mẹ, Lenina ạ. Hãy tưởng tượng chính cô ngồi ở đây với đứa con của cô trong tay..”.

“Bernard! Sao anh dám?” Một bả già toét mắt và da lở loét đi qua làm gián đoạn cơn phẫn nộ của cô.

“Chúng ta đi thôi”, cô van nài. “Tôi không thích ở đây”.

Nhưng đúng lúc này người dẫn đường quay trở lại và ra hiệu cho họ đi theo, dẫn họ xuống một con phố hẹp giữa các ngôi nhà. Họ đi vòng qua một góc. Một con chó chết nằm trên một đống rác; một người đàn bà bướu cổ đang bắt chấy cho đứa con gái nhỏ. Người dẫn đường dừng dưới chân một cái thang, giơ tay thẳng lên, rồi phóng bàn tay ngang ra phía trước. Họ làm theo mệnh lệnh câm của hắn, trèo lên thang và bước qua cửa, dẫn vào một căn buồng hẹp, hơi tối và có mùi khói và mùi mỡ đang nấu, mùi quần áo lâu không giặt. Ở đầu kia của căn buồng là một cửa khác, qua nó một vệt nắng và tiếng trống ồn ào, rất to và rất gần, tràn vào.

Họ bước qua ngưỡng cửa và thấy mình đang đứng trên một khoảng đất rộng. Bên dưới họ, bị những ngôi nhà cao bao bọc, là quảng trường của làng, chen chúc những người da đỏ. Những lớp phủ sáng, những lông chim trên tóc đen, những tia sáng của ngọc lam, những da ngăm đen loáng lên vì nhiệt. Lenina lại lấy mùi xoa bịt mũi. Trong khoảng trống ở giữa quảng trường là hai bệ hình tròn đất nện, rõ ràng là mái che của những căn buồng ngầm dưới đất; vì ở tâm của mỗi nền là một cửa hầm, có chiếc thang thò ra từ khoảng tối bên dưới. Một tiếng sáo ngầm từ dưới đất bay lên và gần như lọt thỏm trong tiếng trống đều đều dai dẳng tàn nhẫn.

Lenina thích tiếng trống. Nhắm mắt và thả hồn theo tiếng sấm êm êm đều đều ấy, để cho nó càng lúc càng tràn ngập hoàn toàn tâm trí cô, cho đến khi không còn gì trên thế giới này ngoài nhịp đập trầm sâu ấy. Nó nhắc cô về tiếng ồn tổng hợp được làm ra tại nghi lễ Đoàn kết ngày hội Ford. “Ăn chơi thả cửa” . (“Orgy-porgy”) cô thì thầm với mình. Những tiếng trống này cũng đánh lên cùng một nhịp điệu ấy.

Có tiếng hát đột ngột cất lên làm giật mình – hàng trăm giọng đàn ông gào lên dữ dội trong hợp xướng kim loại cục cằn. Một vài nốt và quãng lặng dài, cái im lặng chứa chất dông tố của tiếng trống, rồi một tiếng đinh tai, hí lên bằng giọng kim của nữ đáp lại. Rồi lại tiếng trống; và một lần nữa giọng trầm sâu hoang dại của cánh đàn ông khẳng định tính đàn ông của mình.

Kì quặc – đúng. Nơi này thật kì quặc, âm nhạc cũng vậy, quần áo và những bướu cổ cũng vậy và những bệnh ngoài da và những người già. Nhưng bản thân màn biểu diễn này – trong đó không có cái gì đặc biệt kì quặc.

“Nó gợi tôi nhớ đến bài hát Cộng đồng của những đẳng cấp thấp” cô nói với Bernard. Vì bỗng nhiên từ những căn buồng hình tròn ngầm dưới đất một bầy yêu ma quỉ quái hiện hình.

Nhưng chỉ một chút sau nó gợi cô nhớ đến một chức năng ít vô hại hơn nhiều. Đeo những mặt nạ gớm ghiếc hoặc vẽ giống mặt người, họ đi ra trong một điệu nhảy tập tễnh vòng quanh quảng trường, hết vòng này đến vòng khác, vừa nhảy vừa hát, mỗi lần nhanh hơn một chút; tiếng trống thay đổi và nhịp nhanh hơn, thành ra giống như nhịp mạch của người sốt trong các lỗ tai; và đám đông bắt đầu hát cùng những người đang nhảy múa, càng lúc càng to hơn; và một người đàn bà đầu tiên thét lên, rồi người khác và người khác, như thể đang bị chọc tiết; rồi bỗng dưng người thủ lãnh của đoàn múa bùng ra khỏi hàng, chạy về phía một chiếc hòm gỗ ở một đầu quảng trường, nâng nắp lên và lôi ra một cặp rắn đen. Tiếng la hét dữ dội bật lên từ đám đông, những người đang nhảy múa chạy về phía ông ta và giơ bàn tay ra. Ông ta quẳng con rắn cho người chạy đến đầu tiên, rồi khoắng tay vào hòm lấy thêm. Mỗi lúc một nhiều, những con rắn đen, nâu, lốm đốm, ông ta quẳng chúng ra. Rồi sau đó điệu nhảy lại tiếp tục theo một nhịp điệu khác. Họ nhảy vòng tròn với những con rắn trong tay, uốn lượn như rắn, với chuyển động nhấp nhô mềm mại của đầu gối và hông. Lượn tròn lượn tròn. Người thủ lĩnh ra hiệu, và hết con này đến con khác, tất cả rắn được ném vào giữa quảng trường; một ông già từ dưới đất chui lên rắc bột ngô cho chúng, và từ một cửa hầm khác một phụ nữ chui lên rắc nước từ một cái vò màu đen lên chúng. Rồi người phụ nữ giơ tay lên và tiếp theo là im lặng tuyệt đối trong ngạc nhiên và kinh hãi. Trống ngừng đập, sự sống dường như đi đến kết thúc. Ông già chỉ vào hai lỗ cửa dẫn xuống thế giới ngầm đưới đất. Và chầm chậm, được nâng lên bằng những bàn tay vô hình từ bên dưới, từ một lỗ cửa hiện ra hình vẽ một con đại bàng, và từ một lỗ cửa khác, là hình một người đàn ông, trần truồng, và bị đóng đinh vào thập giá.

Hai hình treo ở đó, dường như tự đứng được, như thể đang nhìn. Ông già vỗ tay. Một cậu trai khoảng mười tám, mình trần, dưới đóng khố bằng vải bông trắng, từ đám đông bước ra đứng trước ông, hai tay khoanh trước ngực, đầu cúi xuống. Ông già làm dấu chữ thập lên cậu và quay đi. Cậu trai trẻ bắt đầu bước chầm chậm quanh đống rắn đang quằn quại. Cậu vừa đi hết vòng đầu và một nửa vòng thứ hai thì trong số những người đang nhảy múa, một người đàn ông cao đeo mặt nạ chó sói và nắm trong tay chiếc roi bện bằng da, tiến về phía cậu. Cậu trai tiếp tục đi như không nhận ra sự có mặt của người này. Người chó sói vung roi, một thoáng chờ đợi dài lâu, tiếng vút của chiếc roi và âm thanh của nó quật vào da thịt. Cơ thể cậu trai rung lên, nhưng cậu im lặng tiếp tục bước đi những bước chân chậm chạp, đều đặn như trước. Người chó sói lại đánh, đánh nữa, và mỗi cú đánh ban đầu là tiếng thở hổn hển, sau một tiếng rên sâu nổi lên từ trong đám đông. Cậu trai bước đi. Hai vòng, ba vòng, bốn vòng. Máu chảy. Vòng thứ năm, thứ sáu. Lenina bỗng lấy tay bưng mặt và khóc nức nở. “Ôi, ngăn họ lại, ngăn họ lại!” cô van nài. Nhưng ngọn roi vẫn quất xuống, quất xuống không thương xót. Bẩy vòng. Bất thình lình cậu trai loạng choạng, và, không một tiếng động, ngã sấp mặt xuống đất. Cúi xuống người cậu này, ông già dùng một chiếc lông chim trắng dài quết vào lưng cậu, đỏ lòm, giơ nó lên một lát cho mọi người nhìn, rồi ve vẩy nó ba lần bên trên đống rắn. Mấy giọt rớt xuống, rồi bỗng nhiên tiếng trống lại nổi lên, thành một cơn hoảng loạn những âm thanh hối hả; rồi một tiếng hét ghê người. Những người nhảy múa lao lên, nhặt những con rắn và chạy ra khỏi quảng trường. Đàn ông, đàn bà, trẻ con, cả đám đông chạy theo họ. Một phút sau quảng trường trống rỗng, chỉ có cậu trai ở lại, nằm sõng soài nơi cậu ngã xuống, hoàn toàn bất động. Ba bà già từ một ngôi nhà đi ra, nặng nhọc nâng cậu dậy và khiêng vào. Con đại bàng và người đàn ông trên thập giá canh giữ một lúc, trên bản trống rỗng, rồi, như thể đã xem đủ, từ từ tụt xuống dưới cửa sập, biến mất vào âm ti.

Lenina vẫn thổn thức. “Quá kinh khủng”, cô cứ lặp đi lặp lại, và mọi an ủi của Bernard đều vô hiệu. “Quá kinh khủng! máu me!” cô rùng mình. “Ôi, tôi muốn có soma”.

Phòng trong có tiếng bước chân.

Lenina không động đậy, chỉ ngồi úp mặt vào lòng bàn tay, nhắm nghiền mắt, Chỉ có Bernard đi loanh quanh.

Một người đàn ông trẻ mặc quần áo người da đỏ, nhưng mớ tóc bện của anh ta màu rơm, mắt xanh xám, da anh ta là da trắng, màu đồng thiếc.

“Hê-lô! Chào buổi sáng!” người lạ mặt nói một thứ tiếng Anh không lỗi nhưng kì quặc. “Các vị là người văn minh phải không? Các vị đến từ Nơi Khác, bên ngoài Khu Bảo tồn phải không?”

“Ai thế này…?” Bernard mở đầu một cách ngạc nhiên.

Người đàn ông trẻ thở dài và lắc đầu. “Một người bất hạnh nhất”. Và, chỉ vào vết máu ở trung tâm quảng trường, “Các vị có nhìn thấy cái vết ghê tởm này không?”[1] anh ta hỏi bằng giọng run lên vì xúc động.

“Một gram tốt hơn một lời nguyền rủa”. Lenina nó một cách máy móc từ sau bàn tay cô. “Ước gì tôi có soma”.

“Đáng lẽ tôi nên ở đây lúc đó”, người đàn ông trẻ tiếp tục. “Tại sao họ không lấy tôi làm người hi sinh? Tôi đã chạy quanh được mười, mười hai, mười lăm vòng. Palowhtiwa chỉ được có bẩy vòng. Tôi có thể đổ máu gấp hai lần. Cả đám đông nhìn thấy máu hồng tươi“.[2] Anh ta vung tay trong một cử chỉ hoang tàng; rồi chán chường, để họ lại thất vọng. “Nhưng họ không để tôi làm. Họ ghét tôi vì mầu da của tôi. Luôn luôn cứ là như thế. Lúc nào cũng thế”. Nước mắt trào ra, anh ta xấu hổ bỏ đi.

Kinh ngạc làm Lenina quên việc mất soma. Cô buông tay khỏi mặt, và lần đầu tiên nhìn người trẻ tuổi. “Anh định nói rằng anh muốn bị đánh bằng cây roi ấy?” Vẫn quay mặt phía khác, người đàn ông ra dấu hiệu xác nhận. “Vì bản làng – để trời mưa xuống và ngô mọc lên. Và để cầu Pokong và Jesus. Và khi đó chứng tỏ tôi có thể chịu đau mà không kêu. Vâng”. Và giọng anh ta bỗng mang một âm hưởng mới, anh ta quay người ngạo nghễ nhún vai, một cái hất cằm ngạo nghễ, thách thức “để chứng tỏ tôi là một con người…Ôi!” Anh ta thở hổn hển rồi im lặng, ngáp. Lần đầu tiên trong đời anh ta thấy một khuôn mặt cô gái mà má không đánh màu da chó hoặc sôcôla, tóc thì màu nâu vàng và lượn sóng tự nhiên, còn vẻ mặt thì toát ra mối quan tâm nhân hậu (chuyện lạ!).

Lenina mỉm cười với anh ta, một chàng trai trông dễ ưa, cô nghĩ, và một thân hình thật đẹp. Máu chảy rần rật lên mặt người trai trẻ; anh ta cụp mắt xuống, ngước lên lần nữa thấy cô vẫn mỉm cười, và phải cố sức lắm mới quay mặt đi được để giả vờ nhìn thật chăm chú vào một vật gì đó ở bên kia quảng trường.

Những câu hỏi của Bernard làm chệch hướng. Ai? Thế nào? Khi nào? Từ đâu? Dán mắt lên mặt Bernard, người đàn ông trẻ tuổi cố tự giải thích (anh ta khao khát một cách đắm đuối được thấy Lenina mỉm cười đến mức không dám nhìn cô). Linda và anh ta – Linda là tên mẹ anh ta (tiếng “mẹ” nói ra khiến Lenina trông rất khó chịu)- là người lạ trong Khu Bảo tồn này. Linda đến từ Nơi Khác cách đây đã lâu, từ trước khi sinh ra anh, cùng với một người đàn ông là cha của anh. (Bernard vểnh tai lên nghe). Bà đã đi bộ một mình trong vùng núi non này đến đó trên miền Bắc, đã ngã xuống dốc và bị thương ở đầu. (Tiếp tục đi, tiếp tục đi, Bernard nói một cách kích động.) Những người thợ săn ở Malpais tìm thấy bà và mang bà về bản. Còn người đàn ông là cha của anh, Linda không bao giờ gặp lại ông ta nữa. Tên ông là Tomakin. (Vâng, Thomas là tên thánh của G.Đ.L.Â.) Chắc ông ấy đã bay đi rồi, bay về Nơi Khác, nơi không có bà; một người đàn ông không tốt, không tử tế, không có tình. “Và thế là tôi sinh ra ở Malpais”, anh kết luận, “ở Malpais”, và lắc đầu.

Ngôi nhà nhỏ ở ngoài rìa bản mới dơ dáy, bẩn thỉu làm sao! Một khoảng không đầy bụi đất và rác rưởi ngăn cách nó với làng. Hai con chó đói đánh hơi một cách tục tằn trong đống rác trước cửa. Bên trong, khi họ đi vào, chạng vạng, thối um, và đầy ruồi nhặng. “Linda!” người trai trẻ gọi.

Từ phòng trong vọng ra một giọng phụ nữ khàn khàn, “vào đi”. Họ đợi. Trong những chiếc bát vương vãi trên sàn là thức ăn từ những bữa ăn còn lại, có lẽ nhiều bữa.

Cửa mở ra. Một người đàn bà da đỏ rất mập tóc vàng hoe bước qua ngưỡng cửa và đứng nhìn những người lạ chằm chằm, vẻ ngờ vực, miệng há ra. Lenina ghê tởm nhận thấy hai chiếc răng cửa bị thiếu. Và mầu sắc của những chiếc còn lại… Cô rùng mình. Trông còn kinh khủng hơn ông già kia. Béo quá. Và tất cả những đường nét trên mặt bà ta, nhũn nhẽo, nhăn nheo. Và đôi má hóp vào, với những vết đỏ tía ấy. Và những mạch máu đỏ trên cái mũi, và đôi mắt đỏ ngầu. Và cái cổ ấy – cái cổ ấy, và mảnh chăn bà ta quấn trên đầu, rách rưới, bẩn thỉu. Và dưới lớp áo nâu có dáng như cái bao tải, cặp vú đồ sộ và cái bụng phình ta, và cặp mông to. Ôi, kinh khủng hơn ông già kia, kinh khủng hơn! Và bỗng nhiên sinh vật kia tuôn ra một dòng thác lũ lời nói, lao đến cô với hai cánh tay dang rộng, và Ford ơi! Ford ơi! – quá kinh tởm, vào lúc khác có lẽ cô đã phát bệnh – ép chặt cô vào người, vào ngực, vào bụng bà ta và bắt đầu hôn cô. Ford! Hôn, đầy nhớt dãi, với cái mùi kinh khủng, rõ ràng không bao giờ tắm, đơn giản chỉ là cái mùi tỏa ra từ thứ vật chất thô lỗ được tống vào các chai Delta và Epsilon (không, điều ấy không đúng với Bernard), nồng nặc mùi rượu. Cô vùng chạy thật nhanh ra ngoài.

Một khôn mặt méo mó, sưng húp vì khóc đối diện với cô; sinh vật đang khóc.

“Ôi, em thân yêu, em thân yêu”. Dòng thác lời nức nở tuôn chảy. “Nếu em biết được vui mừng đến thế nào, sau bằng ấy năm trời! Một khuôn mặt văn minh! Vâng, những bộ quần áo văn minh. Bởi vì tôi nghĩ tôi sẽ không bao giờ được thấy lại một bộ đồ lụa acetate thật sự nữa”. Bà ta sờ vào ống tay áo sơmi của Lenina. Những móng tay đen đúa. “Và chiếc quần short bằng vải nhung visco đáng ngưỡng mộ này! Em biết không, em thân yêu, tôi vẫn còn giữ những bộ quần áo cũ, mặc khi tôi đến đây, cất trong một cái hòm. Lát nữa tôi sẽ cho em xem. Dù sao, tất nhiên, tất cả acetate đã thành lỗ cả rồi. Nhưng cái thắt lưng trắng đáng yêu quá – mặc dầu tôi phài nói rằng cái bằng da dê màu xanh của em trông đẹp hơn”. Bà ta lại khóc để nói tiếp. “Chắc John đã kể với em rồi. Tôi đã phải chịu đựng những gì, và không có lấy một gram soma. Chỉ lâu lâu được một ngụm mescal[3], khi Pope mang đến. Pope là gã trai mà tôi quen. Nhưng sau đó nó khiến ta cực kì khó chịu, cái thứ nước mescal ấy, ta phát bịnh vì chất nhựa xương rồng này, ngoài ra nó luôn luôn tạo ra cái cảm giác kì cục là hổ thẹn một cách tệ hại hơn vào ngày hôm sau.

Và tôi thật xấu hổ. Hãy thử nghĩ xem: Tôi – một Bêta có con, hãy thử đặt cô vào địa vị tôi xem”. (Chỉ một đề nghị này cũng làm Lenina rùng mình.) “Mặc dù không phải lỗi của tôi, tôi thề đấy, bởi vì tôi vẫn còn không biết chuyện đó đã xảy ra như thế nào, chỉ biết rằng tôi đã tập tất cả những bài tập nhân-mãn (Malthusian Drill) ấy, cô biết không, theo số, Một, hai, ba, bốn, tôi thề đấy; nhưng dù sao chuyện ấy cũng đã xảy ra, và tất nhiên không có cái gì như một Trung tâm Nạo phá thai ở đây. Nhân tiện, nó vẫn còn ở dưới Chelsea phải không?” bà ta hỏi. Lenina gật đầu. “Và vẫn còn rọi đèn pha những ngày Thứ Ba và Thứ Sáu chứ?” Lenina lại gật. “Cái tháp thủy tinh màu hồng đẹp đẽ ấy!” Linda tội nghiệp ngẩng mặt lên, và với đôi mắt nhắm ngất ngây chiêm ngưỡng những hình ảnh tươi sáng trong kí ức. “Và dòng sông đêm”, bà ta thì thầm. Những giọt nước mắt to tướng chầm chậm rỉ ra từ khóe mắt nhắm nghiền. “Và trong đêm bay về từ Stoke Poges. Và sau đó tắm nước nóng, và massage rung-chân không…Nhưng đó”. Bà ta hít một hơi thở sâu, lắc đầu, mở mắt ra, hít vào một hai lần, rồi xì mũi vào những ngón tay, và lấy vạt áo dài lau chúng. “Ôi, tôi thật xin lỗi”, bà ta nói đáp lại Lenina lúc ấy bất giác nhăn mặt ghê tởm. “Đáng lẽ tôi không nên làm thế. Tôi xin lỗi. Nhưng biết làm thế nào nếu ở đây chẳng có chiếc khăn tay nào? Tôi nhớ việc này đã từng làm tôi bấn loạn thế nào, tất cả là bẩn thỉu, và không có cái gì vô trùng. Tôi đã bị ngã vỡ đầu khi lần đầu tiên người ta đưa tôi đến đây. Cô không thể tưởng tượng họ đã đắp cái gì lên đấy. Đất bùn, chỉ là đất bùn thôi. Tôi thường bảo họ, như thể họ là trẻ con”,Văn minh là vô trùng”, và nói với họ về ‘liên cầu khuẩn–G và xoắn khuẩn –T’; rằng có buồng tắm và toa lét thì mới sống khỏe;” nhưng tất nhiên họ không hiểu. Làm sao họ hiểu được? Và cuối cùng tôi nghĩ tôi đã quen với nó. Dù sao thì, làm thế nào giữ cho mọi vật sạch sẽ khi không có nước nóng? Và hãy nhìn những quần áo kia. Thứ lông thô lỗ kia không giống acetate. Nó bền lắm, cứ dùng mãi. Và khi nó rách thì vá nó lại. Nhưng tôi là một Bêta, tôi làm việc trong Phòng Thụ tinh; không có ai từng dạy tôi những việc như thế. Đó không phải là công việc của tôi. Ngoài ra, vá quần áo không bao giờ là việc làm đúng. Khi chúng thủng lỗ vứt chúng đi và mua bộ khác. ‘Càng nhiều mũi khâu, càng kém sang giàu,’ không phải thế sao? Khâu vá là phản xã hội. Nhưng ở đây thì hoàn toàn khác. Cứ như sống với những người điên. Tất cả những chuyện họ làm là điên rồ. Bà ta nhìn qanh, thấy John và Bernard đã bỏ họ và đang đi đi lại lại trong bụi và rác bên ngoài ngôi nhà, tuy vậy, bà vẫn hạ giọng bộc bạch và ngả người, trong khi Lenina cứng người và co rúm lại, gần đến mức luồng hơi sặc sụa mùi rượu độc làm lay động những sợi lông trên má cô. “Chẳng hạn”, cái giọng khàn khàn của bà ta thì thầm “cái cách họ có nhau ở đây”.

“Điên, tôi bảo cô, cực kì điên rồ. Mọi người thuộc về mọi người khác, đúng không, đúng không?” Bà ta khẩn khoản, giật tay áo Lenina, Lenina gật cái đầu cô vẫn quay đi, xả ra một hơi mà cô đã cố nén từ nãy, và cố hít vào một hơi khác, tương đối lành sạch hơn. “Còn ở đây” bà kia tiếp tục, “không ai được coi là thuộc về hơn một người khác. Và nếu cô có người theo cách bình thường, những người khác sẽ nghĩ cô độc ác và chống lại xã hội. Họ sẽ ghét và khinh cô. Có lần rất nhiều đàn bà kéo đến gây chuyện ầm ĩ vì những người đàn ông của họ đã đến ngắm tôi. Ờ, tại sao không? Và lúc đó họ lao vào tôi… Không, nó kinh khủng quá, tôi không thể kể được”. Linda lấy tay bịt mặt và rùng mình. “Họ quá căm giận, những người đàn bà ở đây. Điên, điên rồ và độc ác. Và tất nhiên họ không biết gì về những bài tập nhân-mãn, hay những chai, hay gạn, hay bất cứ sự vật nào thuộc loại đó. Và họ luôn luôn có con theo cách như vậy – như chó. Thật đáng tởm. Và nghĩ rằng tôi…Ôi, Ford ơi, Ford, Ford! Và tuy vậy John vẫn là niềm an ủỉ lớn cho tôi. Tôi không biết tôi sẽ làm gì nếu không có nó. Mặc dù nó luôn nôn nao khó chịu một cách đáng sợ bất cứ khi nào có một người đàn ông đến… ngay từ lúc nó còn bé. Có lần, nhưng đó là khi nó đã lớn hơn, nó đã định giết Waihisiwa tội nghiệp– hay là Pope nhỉ?- bởi vì đôi khi họ thường đến với tôi. Bởi vì tôi không bao giờ có thể làm cho nó hiểu rằng đó là điều người văn minh nên làm. Tôi nghĩ nó nhiễm bệnh điên rồi. Dù sao, hình như John đã bị lây từ người da đỏ. Bởi vi, tất nhiên, nó ở cạnh họ rất nhiều. Mặc dù họ luôn luôn thật thô lỗ với nó và không cho nó làm những việc mà những đứa con trai khác làm. Một mặt thì điều đó là tốt, vì nó khiến tôi dễ dàng hơn trong việc đào luyện nó một chút. Cô không biết việc ấy khó khăn thế nào đâu. Có rất nhiều điều người ta không biết, biết không phải việc của tôi. Tôi muốn nói, khi một đứa trẻ hỏi cô chiếc trực thăng hoạt động như thế nào, hay ai tạo ra thế giới, ừ, cô trả lời như thế nào nếu cô là một Bêta và luôn luôn làm việc trong Phòng Thụ tinh? Cô trả lời thế nào nào?”

(Xem tiếp kỳ sau)

Chú thích

[1] William Shakespeare, Macbeth

2 Như trên.

3 Mescal: thứ rượu Mexico không màu, cất từ nước trái cây lên men của một số giống cây sa mạc, như xương rồng. Có tác dụng gây ảo giác.


Comments are closed.