Thế giới mới tươi đẹp

Aldous Huxley

Hiếu Tân dịch

clip_image002

LỜI GIỚI THIỆU

Anh Aldous Leonard Huxley, tác giả ‘Thế giới mới tươi đẹp’ là nhà tiểu thuyết, nhà triết học, sinh ngày 26 tháng Bảy 1894 trong một gia đình của dòng họ Huxley có nhiều người nổi tiếng. Ông viết tiểu thuyết, truyện ngắn, sách du ký, kịch bản phim, nhiều tác phẩm phi hư cấu, (trong đó đáng chú ý là Những cánh cửa của nhận thức hồi tưởng lại những trải nghiệm dùng ma túy), và những tiểu luận về nhiều chủ đề khác nhau. Là một triết gia nhân văn chủ nghĩa và hòa bình chủ nghĩa và nhà văn châm biếm, ông được coi là một trong những trí thức kiệt xuất nhất của thời đại. Từ năm 1937 Huxley chuyển sang sống ở Mỹ đến khi mất. Giai đoạn sau ông quan tâm đến lĩnh vực tâm linh như cận tâm lí (parapsychology), thuyết thần bí triết học (philosophical mysticism), thuyết phổ biến (universalism). Năm 1962 một năm trước khi mất, ông được Hội Văn Học Hoàng gia Anh RSL trao tặng danh hiệu cao quí Companion of Literature. Ông cũng được đề cử giải Nobel trong nhiều năm.

Huxley mất ngày 22 tháng Mười Một 1963, cùng ngày nhà văn C.S. Lewis mất và tổng thống Mỹ John F.Kennedy bị ám sát.
Tác phẩm
Trong vở kịch Bão tố (The Tempest) của Shakespeare, Miranda là một thiếu nữ sống trên hoang đảo, nơi không có ai khác ngoài cha cô và những đầy tớ của ông, với một hồn ma (Ariel). Lần đầu tiên trông thấy những người khác, cô thốt lên:
Ôi, tuyệt diệu!
Bao nhiêu con người tốt đẹp nơi đây.
Loài người mới đẹp đẽ làm sao. Ôi thế giới mới tươi đẹp!
Có những con người này trong ấy.
Trớ trêu thay, những con người ấy lại là những đại biểu tồi tệ nhất của loài người, những kẻ độc ác và phản phúc. Khi lần đầu tiên trông thấy thế giới mới, John-Người hoang dã – nhân vật chính trong tiểu thuyết của Aldous Huxley và tín đồ nhiệt thành của Shakespeare – đã kêu lên đầy hứng khởi, như Miranda:
Ôi thế giới mới tươi đẹp!
Và, tác giả cuốn tiểu thuyết mang cái tên này dẫn ta vào xem thế giới mới tươi đẹp ấy.
* * *
Cuốn tiểu thuyết ý tưởng này, thuộc loại viễn tưởng, đúng hơn là ‘phản-khôngtưởng’ hay ‘khôngtưởng-đen’, cực kì nổi tiếng từ khi nó ra đời. Không một người có học nào ở phương Tây không biết đến nó. Một hình dung ghê rợn về tương lai của loài người. Là không tưởng, tức là chỉ có trong tưởng tượng, nhưng nó gợi cho ta suy nghĩ về những xu thế có thể có của sự phát triển của công nghệ, của nền văn minh, và những hệ lụy đối với nhân tính của loài người.
Thế giới mới tươi đẹp mô tả London vào năm A.F.632: (Năm 632 Kỷ nguyên Ford) tức năm 2540 Công lịch, đó là thế giới của một nhân loại mới, một loài người được làm lại hoàn toàn, bằng công nghệ. Phôi thai người được thụ tinh trong ống nghiệm, được chăm sóc theo quy trình đặc biệt, và ra lò theo số lượng kế hoạch hoá. Sản phẩm-người của quá trình sản xuất hàng loạt theo dây chuyền ấy được chia thành năm loại, năm đẳng cấp cách biệt, gọi tên theo các chử cái Hy Lạp: alpha, beta, delta, gamma, và epsilon, trong đó alpha là đẳng cấp cao nhất và epsilon là thấp nhất. Alpha, beta được chế tác và tinh chọn để có những phẩm chất thể chất và trí năng hoàn hảo, lớn lên thanh những con người khỏe mạnh thông minh, cân đối, đẹp đẽ; còn delta, gamma, và epsilon, những đẳng cấp thấp, được sản xuất từng mẻ lớn theo qui trình Bokanovsky, từ một trứng có thể ra đến 96 con, hoàn toàn đồng nhất về mọi mặt, “giống nhau một cách kinh hoàng” và trong quá trình phôi thai còn bị xử lí hóa học cho còi cọc, đần độn, vì chúng “không cần khả năng suy nghĩ.” Dễ hiểu là alpha, beta được giao những chức năng lãnh đạo và điều hành xã hội, còn delta, gamma, và epsilon lao động để làm ra sản phẩm cho xã hội tiêu dùng. Khi ra đời, những đứa trẻ được đào luyện một cách đặc biệt bằng phản xạ có điều kiện, chẳng hạn những đứa bé delta được lập phản xạ để “sợ sách và hoa”. Mọi đứa bé đều được lập phản xạ để suốt đời hài lòng với số phận dành cho mình. Việc giáo dục trẻ dựa trên phương pháp “học trong khi ngủ”: trong lúc ngủ chúng được nghe từ loa phóng thanh những câu nói soạn sẵn, có vần điệu như những châm ngôn, lặp lại hàng trăm hàng nghìn lần để in vào tiềm thức của chúng, tạo thành những ám thị, và trong suốt cuộc đời những châm ngôn này sẽ tự động bật ra trong những tình huống thích hợp. Mỗi đẳng cấp mặc đồng phục cùng màu để phân biệt với những đẳng cấp khác. Những đẳng cấp cao được ám thị để hãnh diện về đẳng cấp của mình và khinh bỉ đẳng cấp dưới. Những đẳng cấp thấp tất nhiên được ám thị để chỉ biết phục tùng. Nhưng tại sao không tạo ra một xã hội toàn alpha cộng, khi về mặt công nghệ, đều ấy hoan toàn có thể? Bởi vì, như một thí nghiệm trong Thế giới mới tươi đẹp đã cho thấy: một xã hội toàn alpha cộng thì không thể vận hành được, do không ai chịu làm những công việc hạ cấp, và nội chiến đã nổ ra. Vậy những đẳng cấp thấp là hoàn toàn cần thiết, và theo Mustapha Mond, tỉ lệ tối ưu được tính theo mô hình ‘tảng băng trôi’: 1/9 trên mớn nước, 8/9 bên dưới, bảo đảm xã hội ổn định. Vậy 8/9 đó sẽ hạnh phúc được ở bên dưới sao? Cố nhiên! Với những con người như vậy, một xã hội mới đã hình thành: Thế giới mới tươi đẹp.
Và thế giới ấy quả là tươi đẹp. Đó là một Nhà nước Toàn cầu, được điều hành bởi mười vị Đại Kiểm soát tối cao. Khẩu hiệu của nó là “Cộng đồng, Đồng nhất, Ổn định.” Các công nghệ sinh sản và nuôi dạy con người đảm bảo tính Đồng nhất và Ổn định này; nhờ sự phát triển tột bực của công nghệ, sản xuất dư thừa đảm bảo thỏa mãn mọi nhu cầu vật chất; tiêu dùng và hưởng thụ được khuyến khích; tất cả mọi người đều hài lòng với thân phận mình, ganh tị – căn bệnh mạn tính của nhân loại (cũ), nguồn gốc của mọi bất bình và rối loạn – không còn đất sống. Mục tiêu của xã hội là hạnh phúc cho tất cả mọi người, và khi mà mọi người đều cảm thấy hạnh phúc và thỏa mãn thì còn mong muốn gì hơn nữa ngoài việc mong cho cuộc sống cứ như thế ổn định đến muôn đời?
Vì tên sách hứa hẹn trình ra cho chúng ta một thế giới mới, chúng ta hãy chú tâm đến những cái mới ở đây, mới một cách cực đoan và triệt để, tạo nên ý nghĩa chủ đạo của tác phẩm. Trước hết, con người được sinh ra hoàn toàn theo lối mới. Không còn tàn dư gì của những mối quan hệ gia đình và huyết thống, chúng đã lùi sâu vào quá khứ, vì theo lời Mustapha Mond, vị Đại Kiểm soát Thế giới, “Lịch sử, nói chung, là chuyện nhảm nhí, tầm phào, ba láp.” Khi nói chuyện với sinh viên, ông mô tả cuộc sống gia đình, chồng vợ, việc sinh đẻ và nuôi con (của “thời xưa”) bằng những cảnh nhớp nhúa, tởm lợm mà những thanh niên thời ấy không thể hình dung nổi. Thời mới bây giờ những từ như “cha”, “mẹ” bị coi là tục tằn, người ta tránh nói chúng như húy kị, thậm chí một nhân viên viết báo cáo lên thượng cấp phải ghi “m…” thay cho từ “mẹ”. Chung thủy bị coi là lố bịch, trinh tiết là tởm lợm. Sao vậy? Vì xã hội có phong tục và chuẩn mực đạo đức mới về tình dục. Trẻ con 9,10 tuổi được dạy chơi “trò chơi Dâm dục,” thanh niên trai gái được khuyến khích “ngủ với càng nhiều người càng tốt”, thay đổi bạn tình luôn luôn, việc duy trì một mối quan hệ thân mật trong thời gian dài là điều cấm kị. “Mỗi người thuộc về mọi người khác,” tất cả đều thuộc về cộng đồng, không có gì là thầm lén, riêng tư. Ở đây tình dục không có chức năng sinh sản, mà chỉ có mục đích duy nhất là khoái lạc, bản năng tình dục được buông thả không giới hạn, nhưng những biện pháp tránh thai được áp dụng nghiêm ngặt. Ngoài thời gian lao động không mấy nặng nhọc, mọi người thoải mái vui chơi, xã hội lo cung cấp cho họ những phương tiện tiêu khiển, cá nhân không được dùng thời gian một mình, vì không phải lo thiếu nhu cầu vật chất và không có những mối quan hệ riêng tư, nên không cần (và không được phép có) những phút suy tư trầm lắng. Và đấy là điều mà người ta gọi là hạnh phúc: một hạnh phúc cho tất cả, ngang nhau! Và để cho hạnh phúc luôn luôn đầy đủ, còn có thêm một thứ: soma, đó là những viên thuốc gây ảo giác được phát cho mọi người theo khẩu phần; mỗi khi người ta thấy buồn phiền, bất an, thiếu hạnh phúc, một viên soma sẽ đưa họ vào trạng thái lơ mơ phiêu bồng không cảm giác không ý thức, và họ lại thấy hạnh phúc.
* * *
Bernard Marx là một alpha-cộng, nhưng là một alpha khiếm khuyết: theo lời đồn, khi anh còn là bào thai một nhân viên thao tác tưởng nhầm anh ta là một gamma nên đã đổ rượu vào chất giả máu của anh, lớn lên mặc dù thông minh nhưng anh bị còi cọc không có tầm vóc bình thường của một alpha, và suốt đời anh mang mặc cảm tự ti, rụt dè khốn khổ, bị khinh thường, chế giễu, và nhìn mọi người bằng con mắt hằn học. Lenina Crowne – một cô gái beta ‘phổng phao’ và nồng nhiệt – thích Bernard, sau khi bị cô bạn Fanny phê phán vì đã quan hệ với một chàng trai hoàn hảo khác (Henry Foster) đến bốn tháng trời mà chưa thay đổi. Lenina là mẫu người lí tưởng của thế giới mới, hoàn toàn đáp ứng mọi đòi hỏi của thế giới này, nhưng Bernard lại là người duy nhất có những băn khoăn, bất mãn, những câu nói báng bổ và những ý nghĩ “phi chính thống”. Trong khi Lenina vồ vập thi Bernard đến với cô một cách khó khăn, anh mong muốn có những phút tâm tình kín đáo “chỉ có hai người với nhau,” nhưng cô lại chỉ muốn cùng nhau vui chơi tập thể, vì “với nhau” thì đã có cả đêm trên giường rồi! Trong khi nàng hành xử đúng theo phong hóa của thế giới mới, coi tình dục chỉ là thú vui chơi tiêu khiển, thì chàng lại ôm ấp những cảm xúc yêu đương lãng mạn cổ hủ. Nhưng mọi chuyện rồi cũng qua, vì Bernard dù bất tuân nhưng cũng là con người của thế giới mới, có thể chấp nhận được những tiêu chuẩn đạo đức của nó. Chỉ đến khi gặp John-người hoang dã, người tình mà Lenina chọn cho minh để thay thế Bernard, bi kịch mới xảy ra.
Bernard đưa Lenina đến chơi Khu Bảo tồn Hoang dã ở New Mexico, tại đó họ gặp mẹ con Linda và John. Hai mươi lăm năm trước, trong một chuyến đi thăm Khu Bảo tồn Hoang dã với người đàn ông của bà ta, Linda – một cô gái beta-cộng lúc đó – gặp tai nạn và bị bỏ lại. Linda khi đó đã có mang, rồi sinh ra John, (đây đúng thật là một tai nạn vì nếu ở thế giới mới, với những biện pháp tránh thai hữu hiệu và cả trung tâm nạo phá thai, người ta không để chuyện đó xảy ra). Thời gian dài sống ở Khu Hoang dã đã biến Linda thành hoang dã thật sự, với nỗi luyến nhớ thế giới văn minh (“Nơi Khác”, như bà ta kể với con) và thói quen “quan hệ” bừa bãi với đàn ông ở đây mà bà ta không bỏ được khiến bà ta luôn gặp rắc rối vởi các bà vợ thổ dân. John lớn lên đau khổ và cô độc vì mẹ cậu bị căm ghét và khinh bỉ, nhưng bù lại, cậu được mẹ dạy đọc và tình cờ được làm quen với những tác phẩm của William Shakespeare. Và thật là nghịch lí: một chàng trai được nuôi dạy hoàn toàn trong môi trường hoang dã lại là người duy nhất thấm nhuần tinh hoa của nền văn hóa Victoria. John rất đẹp trai, đã lập tức mê hoặc được Lenina, và với nàng, lần đầu tiên cậu cảm thấy rung động si mê như Romeo lần đầu gặp Juliet.
Qua câu chuyện kể của John, Bernard phát hiện ra người đàn ông đã đưa Linda đến Khu Hoang dã và bỏ bà ta lại đấy, tức là cha đẻ của John, chính là Giám đốc Trung Tâm Xử lí và Điều kiện hóa Phôi thai, một sếp lớn vô cùng quan trọng, hiện thân của trật tự thế giới mới, đang muốn nghiêm trị những ý nghĩ phi chính thống và nổi loạn của Bernard. Bernard xin và được Mustapha Mond cho phép đưa Linda và John về “thế giới văn minh,” và khi viên Giám đốc đang gay gắt buộc tội Bernard và tuyên bố sa thải anh ta trước đám đông nhân viên, thì Bernard đưa Linda và John ra. Những tràng cười bung ra dữ dội khi John quì xuống trước Giám đốc và kêu “cha ơi.” Quá nhục nhã lão Giám đốc lủi mất, ngay lập tức từ chức và không bao giờ xuất hiện ở trung tâm nữa.
Ở London – xứ sở văn minh, “thế giới mới tươi đẹp” – John trở thành người quan trọng và nổi tiếng dưới tên Người Hoang dã, anh được mọi người săn đón nhưng anh trốn tránh tất cả. Người Hoang dã lạc lõng trơ trọi giữa chốn văn minh, vì hầu như anh là người duy nhất mang trong mình văn hóa của thời đại Phục Hưng ở châu Âu, hoàn toàn xa lạ với những con người thời đại Hậu Fort. Mới gặp John, Lenina lần đầu cảm thấy trong cô có cái gì như thể tình yêu, nhưng nó nhanh chóng chuyển thành ham muốn nhục dục đơn thuần, vì cô luôn tuân thủ ước lệ, lễ giáo của xã hội đương thời. Người Hoang dã cũng yêu cô, một cách trang trọng thầm kín, anh luôn thấy mình là Romeo và Lenina là Juliet để anh tôn thờ, anh chàng luôn sợ không xứng đáng với [sự trong trắng cao quý] của nàng. Dịp may đến, cô được giao đưa anh đi xem một tối phim tình fili, thật ra là một loại phim kích dục, kết hợp âm nhạc tổng hợp và các mùi hương kích động tất cả các giác quan của người xem (nhìn-nghe-sờ-ngửi), nhưng trong khi cô mê say với phim thì anh phẫn nộ, thấy nó ghê tởm. Sau buổi chiếu phim cô rạo rực chờ đợi, nhưng anh lịch sự cáo từ (good night!) khiến cô tức điên, thầm rủa anh là “quỷnh ” và nghĩ chắc tại anh không yêu cô. Nhưng rồi anh cũng thắng được nỗi e dè để tỏ tình với cô với tất cả sự kính cẩn và lòng ngưỡng mộ. Một cách tự nhiên nhất đời, Lenina lập tức tự lột hết quần áo, sẵn sàng cho một cơn xác thịt cuồng loạn như thường lệ, khiến John giận dữ điên cuồng, mắng cô là “đồ đĩ thõa trơ tráo”. Cuộc tình cả hai bên đều mong đợi ấy đi đến một kết cục ê chề. Chàng quay về với Shakespeare còn nàng cầu cứu soma.
Linda, mẹ của John, được đưa trở lại thế giới văn minh theo đúng với sở nguyện của bà ta, nhưng đã không còn thích ứng với nó nữa: lối sống quái đản của bà ta ở nơi hoang dã, những cuộc lang chạ liên miên với đàn ông thổ dân và việc lạm dụng mescal, một chất ma túy của thổ dân mà bà ta dùng để thay thế soma, đã hủy hoại thân xác và tâm thần của bà. Xuất hiện trước ‘Giám đốc – người tình cũ’ như một con quái vật lạ lùng và đáng tởm, cái dị dạng của bà ta, biểu hiện lão suy ở tuổi bốn tám, làm mọi người khiếp sợ. Nhưng rồi bà ta mãn nguyện: trở về thế giới văn minh là được trở về với soma. Bà ta chỉ việc nằm suốt ngày trên giường, được cấp lượng soma không hạn chế giúp bà ta chìm vào trạng thái phởn phơ bất tận. Vô tình trở thành vật thí nghiệm soma, cơ thể bà ta suy sụp và nhanh chóng tiến đến cái chết đau đớn. Quả là soma đã rút ngắn cuộc sống của bà ta, nhưng mặt khác, như một bác sĩ đã nói, nó đã thật sự kéo dài cuộc sống của bà ấy….Soma có thể làm người ta mất đi một số năm trong thời gian..Nhưng hãy nghĩ về độ dài khổng lồ, không thể đo lường được nó có thể cho người ta sống ngoài thời gian. Mọi thứ ảo giác vui chơi do soma gây ra chẳng phải là một phần giấc mơ thần tiên vĩnh cửu của tổ tiên chúng ta hay sao? Soma là bức tường thành kiên cố ngăn cách tâm trí người ta khỏi thực tại, với mọi thứ lo âu muộn phiền, nếu có.
Nhưng Thế giới mới tươi đẹp là một thế giới không phiền muộn, không có những ám ảnh Sinh-Lão-Bệnh-Tử của cõi Ta Bà. Mọi người sinh ra không đau đớn, lớn lên đẹp đẽ và mạnh khoẻ, mọi bệnh tật đã được xử lí triệt tiêu từ trong ống nghiệm, và cứ trẻ đẹp như thế đến tuổi sáu mươi thì chấm dứt, để được đưa vào Đài Lột xác (tức Lò thiêu), và mang lại lợi ích cuối cùng cho cộng đồng là một nắm phôtpho bón ruộng. Không có những mối quan hệ lâu dài và thân thiết, nên cái chết của một người không gây thương cảm cho bất cứ ai. Sự khóc thương bi lụy của John trước cái chết của Linda bị coi như một trò lố bịch, diễn ra trước mắt cô y tá và lũ trẻ đang được cô đưa đến để “thực tập chết,” tức là chứng kiến và tạo phản xạ có điều kiện cho quen với sự chết. Những tình cảm lâu bền và sâu sắc giữa con người ở đây là không cần thiết và gần như cấm kị, vì cấm kị chính là một yếu tố quan trọng của sự ổn định xã hội.
Triết lí nền tảng của Thế giới mới tươi đẹp được Mustapha Mond thảo luận một cách hệ thống với người Hoang dã khi ông hạ cố giải đáp các thắc mắc của anh, sau khi anh cùng với Bernard Marx và Helmholtz bị bắt đưa đến gặp ông. Cuộc thảo luận của người Hoang dã, người duy nhất lúc này có đủ trình độ để thảo luận, với một trong mười người lãnh đạo (kiểm soát!) cao nhất của thế giới, người rất biết lắng nghe, cho thấy tính chất của một nền “chuyên chế nhân từ”. Mustapha cho biết xã hội cần tiêu khiển, bằng những trò vui vô tâm, chứ không cần nghệ thuật cao cấp. (Kịch) Shakespeare chẳng hạn, bị cấm ở London, trước hết, vì nó cũ. Nghệ thuật phải Mới và dễ hiểu, đại chúng. Cái Đẹp thì hấp dẫn, mà hấp dẫn là nguy hiểm: nó dẫn đến mất ổn định. Toàn bộ xã hội được xây dựng trên những thành tựu cao ngất của khoa học, nhưng nghiên cứu khoa học thật sự bị cấm đoán, hay ít ra, phạm vi nghiên cứu bị hạn chế. Nghệ thuật thật sự thì làm ra Cái Đẹp, khoa học thật sự thì khám phá ra sự thật về thế giới và con người, nhưng mục tiêu của xã hội không phải là sự thật và cái đẹp, mà là tiện nghi và hạnh phúc. Hạnh phúc phổ biến đảm bảo ổn định xã hội, điều mà sự thật và cái đẹp không làm được. Dễ hiểu là trong một xã hội như thế, tôn giáo là không cần thiết, vì Thượng Đế thì “vắng mặt”, “Thượng đế không tương hợp với máy móc và thuốc men khoa học, và hạnh phúc phổ biến”. Theo Mustapha “Người ta tin điều gì đó bởi vì người ta đã được đào luyện để tin chúng. Tìm lí do tồi cho những gì người ta tin vì những lí do tồi khác – đó là triết học.” Ông nói “không thể có một nền văn minh lâu dài nếu thiếu những trò vui đồi bại…Nền văn minh tuyệt đối không cần những thứ như sự hi sinh, cái tuyệt mỹ, cái cao cả hoặc cái anh hùng” và không có cơ hội nào để xuất hiện những thứ đó. Tóm lại, nhân danh hạnh phúc phổ biến và ổn định xã hội, tất cả những gì là cao quí, cũng như những tình cảm thông thường của con người, bị xóa bỏ hoàn toàn. Cái gọi là nhân phẩm, nhân cách hoàn toàn vắng bóng. Cá nhân không được phép tự ý thức quá mạnh, không được phép có tư duy độc lập, có khuôn mặt riêng của mình, vì sẽ không thích hợp với đời sống cộng đồng.
Mustapha có tài hùng biện, nhưng ông đã không thuyết phục được người Hoang dã. Anh nói
“Nhưng tôi không muốn thoải mái. Tôi muốn Thượng đế, tôi muốn thơ ca, tôi muốn nguy hiểm thật sự, tôi muốn tự do, tôi muốn lòng tốt. Tôi muốn tội lỗi.”
“Thật ra,” Mustapha Mond nói, “anh đang đòi quyền được bất hạnh.”
“Vậy thì được,” người Hoang dã nói giọng thách thức, “tôi đòi quyền được bất hạnh.”
Anh đã khước từ thứ “hạnh phúc” không xứng đáng với Con Người.
* * *
Gần một thế kỉ đi qua, tính tiên tri trong tiểu thuyết Thế giới mới tươi đẹp của Huxley đã làm sửng sốt nhiều thế hệ. Dưới hình thức viễn tưởng khoa học, cuốn tiểu thuyết không đơn thuần là tưởng tượng phóng túng của tác giả, đúng hơn, nó là một phép ngoại suy của một trí óc vượt tầm thời đại, từ cái hiện thực đang diễn ra trước mắt tới những xu hướng có thể có trong tương lai. Một xã hội hoàn chỉnh như trong truyện thì không thể có thật, ta gọi nó là không tưởng, và cái thực tại ảo mà nó biểu hiện khiến ta rùng mình sởn gáy về sự phi nhân tính của nó, nên cái không tưởng ấy ta gọi là khôngtưởng-đen (dystopia); nhưng từng khía cạnh của nó đôi khi ló dạng trong hiện thực không khỏi khiến ta giật mình. Cái hiện thực trong truyện không phải là tiếng khóc than của một nhân loại đói khổ và lầm than, như từ Dickens đến Tolstoy, từ Hugo đến Jack London, mà là tiếng cười đắc thắng của khoa học và công nghệ. Khi Huxley viết quyền sách này (1931), thì I.P. Pavlov (1849-1936), Henry Ford (1863-1947) và Sigmund Freud (1856-1939) đều là người đương thời với ông; sản xuất theo dây chuyền, phản xạ có điều kiện hay libido vẫn đang là thời sự mới mẻ. Tác phẩm của Huxley không “phản ánh hiện thực”; từ hiện thực, thậm chí từ những thời sự của ngày ấy, Huxley nghĩ về cái có thể đến trong tương lai. Những thành tựu khoa học rực rỡ quả là những ân sủng diệu kì mà loài người tự ban cho mình, nhưng chúng làm biến đổi bộ mặt loài người ra sao thì có ai dám chắc, chẳng hạn, khi quyền sử dụng chúng được đặt vào những bàn tay vô trách nhiệm? Diễn biến lịch sử đã chứng tỏ nỗi lo như thế không bao giờ là thừa cả. Thế giới mới tươi đẹp có tham vọng giải quyết những vấn đề lớn của loài người từ bao đời nay: nhờ tiến bộ khoa học và công nghệ, nó cung cấp dư thừa của cải vật chất đảm bảo một cuộc sống tiện nghi thoải mái nhất, và nhằm đến cái đích cao nhất mà con người muốn đạt đến: hạnh phúc! Mà lại là hạnh phúc cho tất cả mọi người! Nhưng hóa ra cái đích cao nhất ấy, hạnh phúc ấy, chỉ là thỏa mãn khoái lạc vật dục, vì xã hội chỉ có thể cung cấp đến đó, tiến bộ khoa học và vật chất dư thừa không mang lại văn hóa. Văn hóa và nghệ thuật cao cấp không tồn tại, nghệ thuật duy nhất là phim tình fili, một thứ giải trí thấp kém và dung tục. Tình dục chỉ có mục đích tiêu khiển (recreational sex). Các đẳng cấp cao thì thông minh nhưng cá tính sáng tạo phải bị triệt tiêu để bảo đảm cho xã hội ổn định, nghĩa là giữ nguyên ở một trạng thái, không thay đổi, không tiến hoá, không phát triển; bởi vì chính khả năng suy nghĩ độc lập của mỗi cá nhân là nhân tố thúc đầy tiến bộ của loài người. Con người có thể hành động không suy nghĩ, vì đã được dẫn dắt bằng những châm ngôn học được trong lúc ngủ nằm sẵn trong tiềm thức; tự do ý chí của cá nhân bị ngăn chặn vì nguy hiểm cho xã hội. Các đẳng cấp thấp được điều kiện hoá trong những Phòng Tiền định Vận mệnh, để suốt đời mãn nguyện với địa vị của bản thân, khi kẻ nô lệ biết yêu thân phận nô lệ của mình thì xã hội ổn định. “Mỗi người thuộc về mọi người khác,” nên ngay trong “tình trường” cũng không có ghen tuông; không có chênh lệch trong hưởng thụ thì không có ganh tị, do đó cũng không có bất bình, xung đột, chiến tranh. Một xã hội như thế được tạo ra như một hệ khép kín thì sẽ tồn tại vĩnh viễn. Nó là không tưởng, nhưng không phải vì thế mà không đập vào ý thức chúng ta như những cảnh báo mạnh mẽ: trong mọi hình thức tàn phá hủy diệt, không gì đáng sợ hơn húy diệt tính người.

18/5/2017

Dịch giả HIẾU TÂN

Chương một (Kỳ 1)

Một tòa nhà lùn bè bè mầu xám chỉ có 34 tầng. Trên cổng chính, dòng chữ TRUNG TÂM XỬ LÝ VÀ ĐIỀU KIỆN HOÁ PHÔI THAI LONDON và, trên một lưới bảo vệ, là khẩu hiệu của Nhà nước Toàn cầu

CỘNG ĐỒNG – ĐỒNG NHẤT – ỔN ĐỊNH.

Căn phòng rộng thênh thang ở tầng chệt quay về hướng bắc. Lạnh lùng, dù bên ngoài những ô cửa sổ kia đang là mùa hè, dù trong phòng đang là cái nóng nhiệt đới, một ánh sáng mảnh chói gắt chiếu qua cửa sổ cố tìm một hình nhân mặc quần áo, một bóng dáng xanh xao ớn lạnh, nhưng chỉ thấy thủy tinh, kền và những đồ sứ sáng choang lạnh lẽo của phòng thí nghiệm. Chỉ thấy cái lạnh lẽo mùa đông đáp lại cái lạnh lẽo mùa đông. Áo choàng của nhân viên thì trắng, những bàn tay họ đeo găng cao su màu da xác chết tái nhợt. Ánh sáng đông cứng, chết chóc, ma quái. Nó chỉ mượn vẻ sống động rực rỡ từ những hình trụ màu vàng của những chiếc kính hiển vi những ống sáng bóng như những thỏi bơ vàng óng, trải từng vệt từng vệt xuống những chiếc bàn làm việc.

“Và đây” Giám đốc vừa mở cửa vừa nói “là Phòng Thụ tinh”.

Cúi xuống những dụng cụ của mình, ba trăm Nhân viên Thụ tinh đang chúi đầu làm việc, khi Giám đốc Trung tâm Xử lý và Điều kiện hóa Phôi thai bước vào phòng, trong không khí im lặng chỉ nghe tiếng hơi thở, những tiếng lẩm nhẩm âm ư hay tiếng huýt đãng trí của sự tập trung miệt mài. Một đoàn sinh viên mới đến, trẻ trung, hồng hào và non nớt, đi theo một cách hơi khúm núm sợ sệt sau gót viên Giám đốc. Mỗi cậu mang một cuốn sổ tay, cứ mỗi khi ông lớn kia nói, thì lại hốt hoảng ghi nguệch ngoạc vào đấy. Trực tiếp từ cái nguồn đáng tin cậy này. Đây là một đặc ân. Vị GĐTT (Giám đốc Trung tâm) của Trung tâm London luôn luôn lấy điệu bộ quan trọng đích thân dẫn các sinh viên mới của ông đi một vòng quanh các phòng ban.

“Để giúp các anh có một ý niệm chung” ông ta giải thích. Vì tất nhiên nếu họ muốn làm công việc của họ một cách thông minh, thì nhất định phải có những ý niệm chung này, nhưng nếu họ muốn là những thành viên tốt và hạnh phúc trong xã hội, thì họ càng ít có những ý niệm ấy bao nhiêu càng tốt. Vì những cái cụ thể, như mọi người đều biết, làm nên đức hạnh và hạnh phúc; còn những cái chung, cái tổng quát thì về mặt trí tuệ tất nhiên là xấu. Không phải các triết gia, mà những người thợ xẻ và những người sưu tập tem tạo nên xương sống của xã hội.

“Ngày mai”, ông nói thêm, mỉm cười với họ hơi có vẻ dọa dẫm hiền lành, “các anh sẽ ngồi xuống làm việc nghiêm chỉnh. Các anh không còn thời gian cho những ý tưởng tổng quát nữa. Trong khi.”..

Trong khi, đó là một đặc ân. Bọn trẻ ngoáy như điên. Trực tiếp từ cái nguồn đáng tin cậy này.

Cao, hơi gầy và dáng đi thẳng, Giám đốc hướng đến căn phòng. Ông ta có chiếc cằm dài, những chiếc răng to và hơi hô, khi ông không nói thì được che bằng đôi môi dày đỏ và cong. Trẻ hay già? Ba mươi? Năm mươi? Năm mươi lăm? Khó đoán. Dầu sao thì câu hỏi này vẫn chưa được đặt ra, ở cái thời ổn định này. A. F. 632[1] chưa xảy ra để cho người ta hỏi câu hỏi đó.

“Tôi sẽ bắt đầu ngay từ đầu”. GĐTT nói, và những sinh viên nhiệt huyết hơn ghi lại ý ông trong sổ tay của họ. Bắt đầu ngay từ đầu. “Đây là những lò ấp”, ông vẫy tay. Và, mở một cánh cửa cách nhiệt, ông chỉ cho họ những dãy giá xếp chồng lên nhau đựng những ống nghiệm có đánh số. “Đây là mẻ trứng của một tuần. Được giữ”, ông giải thích “ở thân nhiệt bình thường; trong đó những giao tử đực” và đây, ông mở một cánh cửa khác “phải được giữ ở ba mươi lăm thay vì ba mươi bảy độ. Thân nhiệt bình thường hoàn toàn tiệt trùng”. Những con cừu đực được bọc trong lò sinh nhiệt không thể làm cha.

Vẫn đứng tựa vào các lò ấp, ông giải thích ngắn gọn cho họ, trong lúc những chiếc bút chì vẫn gấp gáp lằng ngoằng trên các trang giấy, về quá trình thụ tinh hiện đại, tất nhiên đầu tiên nói về dẫn nhập giải phẫu của nó – “cuộc giải phẫu tiến hành một cách tự nguyện vì lợi ích của Xã hội, chưa nói đến chuyện nó mang lại phần thưởng lên đến chín tháng lương” tiếp tục với một số mô tả về kỹ thuật giữ cho buồng trứng sống và phát triển mạnh sau khi bị cắt rời; chuyển sang xem xét nhiệt độ tối ưu, độ mặn, độ nhớt; ý nói đến thứ chất lỏng trong đó bảo quản những quả trứng rụng và chín, rồi dẫn các đệ tử của mình đến các bàn làm việc, chỉ cho họ thấy chất lỏng ấy được xả ra khỏi các ống nghiệm như thế nào, nó được lấy từng giọt từng giọt một vào những bản-kính-mang-vật của các kính hiển vi như thế nào, những quả trứng mà nó bảo quản được kiểm tra về tình trạng bất thường, được đếm và được chuyển vào những vật đựng có lỗ hình tổ ong như thế nào, rồi (lúc này ông đưa họ sang xem hoạt động này) vật đựng được nhúng vào một dung dịch ấm chứa những tinh trùng bơi lội tự do như thế nào, ở một mật độ tối thiểu một trăm nghìn con trong một centimet khối, ông nhấn mạnh, và sau mười phút, nếu có trứng nào vẫn còn chưa được thụ tinh, nó sẽ được nhúng lần nữa, và nếu cần, lần nữa; những trứng đã thụ tinh quay trở lại lồng ấp như thế nào, nơi các Alpha[2] và các Beta cuối cùng được đóng chai, trong khi các Gamma, Delta và Epsilon lại được mang ra, chỉ sau ba mươi sáu giờ, để thực hiện Qui trình Bokanovsky[3].

“Qui trình Bokanovsky” Giám đốc nhắc lại, và bọn sinh viên gạch dưới những chữ này trong sổ tay của họ.

Một trứng, một phôi, một người trưởng thành bình thường. nhưng những trứng đã qua quá trình Bokanovsky sẽ đâm chồi, sẽ sinh sôi nảy nở nhanh chóng, sẽ phân chia. Từ tám lên chín mươi sáu, chồi, và mọi chồi sẽ lớn thành một phôi hình dạng hoàn hảo, và mọi phôi sẽ lớn thành một người lớn trưởng thành đầy đủ. Làm chín mươi sáu người lớn lên ở nơi trước đây chỉ có một người lớn lên. Tiến bộ.

“Về thực chất” G.Đ.L. kết luận, “việc Bokanovski-hóa bao gồm một loạt sự hãm phát triển. Chúng ta kiểm soát sự lớn lên bình thường và, thật nghịch lí, trứng đáp ứng bằng việc đâm chồi”.

“Đáp ứng bằng việc đâm chồi”. Những chiếc bút chì ngoáy rối rít.

Ông chỉ tay. Trên một băng chuyển động thật chậm, một chiếc giá đầy những ống nghiệm được đưa vào một chiếc hòm kim loại lớn, từ một hòm khác, giá nhô ra. Máy móc quay ro ro uể oải. Mất tám phút để một ống đi qua, ông bảo họ. Tám phút chiếu tia X mạnh là thời gian mà trứng có thể chịu được. Một số trứng chết, số còn lại, được chia làm hai, đa số bật ra bốn chồi, một số tám, tất cả được đưa lại các lồng ấp, tại đó chồi bắt đầu phát triển; rồi, sau hai ngày, bất ngờ được làm ấm lên và kiểm tra. Hai, bốn, tám, những chồi đến lượt chúng bật lên, và sau khi đã bật lên, được cho một liều cồn gần chết, kết quả là bật nẩy chồi lần nữa và có những chồi nảy ra từ chồi, nảy ra từ chồi cứ thế sau đó tiếp tục hãm nói chung đến gần chết, để phát triển trong yên tĩnh. Trong thời gian đó trứng gốc theo đúng luật trở thành một trong từ tám đến chín mươi sáu phôi, một sự cải thiện phi thường, các anh thấy không, về bản chất. Những cặp đồng sinh giống nhau, nhưng không phải sinh đôi, sinh ba tầm thường như cái thời sinh đẻ trước đây, khi một trứng đôi khi ngẫu nhiên phân chia thành hàng chục, thành rất nhiều trong cùng một thời gian.

“Rất nhiều”, Giám đốc nhắc lại, và vung hai tay lên, như thể ông đang ban phát sự hào phóng của mình. “Rất nhiều”.

Nhưng một trong các sinh viên ngu đến mức hỏi như thế có lợi gì.

“Cậu bé giỏi!” Giám đốc xoay tròn xung quanh cậu ta. “Cậu có thấy không? Có thấy không?” Ông ta giơ tay lên, cử chỉ của ông thật trang trọng. “Qui trình Bokanovsky là một trong những công cụ chủ yếu của sự ổn định xã hội!”.

Những công cụ chủ yếu của sự ổn định xã hội!

Những đàn ông đàn bà đạt chuẩn; trong những mẻ giống nhau như đúc. Toàn thể cán bộ của một nhà máy nhỏ được bố trí bằng các sản phẩm của một trứng duy nhất được bokanovski-hóa.

“Chín mươi sáu đứa trẻ sinh đồng thời giống nhau như đúc vận hành những cỗ máy giống nhau như đúc. Giọng nói gần như run lên vì cuồng nhiệt. “Anh sẽ thật sự biết anh đang ở đâu. Lần đầu tiên trong lịch sử”. Ông dẫn khẩu hiệu toàn cầu. “Cộng đồng, Đồng nhất, Ổn định”. Những từ ngữ vĩ đại. Nếu chúng ta có thể bokanovski-hóa một cách đồng nhất thì toàn bộ vấn đề sẽ được giải quyết”

Giải quyết bằng những Gamma tiêu chuẩn, những Delta bất biến, những Epsilon đồng nhất. Hàng triệu đồng sinh giống nhau như đúc. Nguyên tắc sản xuất hàng loạt cuối cùng đã được áp dụng cho sinh học

“Nhưng than ôi”, Giám đốc lắc đầu. “Chúng ta không thể bokanovski-hóa một cách đồng nhất”.

Chín mươi sáu dường như là giới hạn, bảy mươi hai là trung bình tốt. Từ cùng một trứng và với những giao tử của cùng con đực chế tạo ra nhiều mẻ đồng nhất có thể – đó là điều tốt nhất (đáng buồn là chỉ tốt hàng thứ hai) mà họ có thể làm được. Mà ngay cả chuyện này cũng khó khăn.

Vì trong tự nhiên cần đến ba mươi năm để hai trăm cái trứng đạt đến độ chín. Nhưng công việc của chúng ta là ổn định dân số vào ngay lúc này, bây giờ và ở đây. Nhỏ giọt những đứa trẻ giống nhau trong suốt một phần tư thế kỉ – thì còn có ích lợi gì?”.

Rõ ràng, chẳng ích lợi gì cả. Nhưng ký thuật của Podsnap đã tăng tốc gấp nhiều lần quá trình chín của trứng này. Họ có thể đảm bảo chắc chắn ít nhất một trăm năm mươi trứng chín trong hai năm. Theo lời họ, thụ tinh hay bokanovski-hóa nhân với bảy mươi hai ta sẽ có trung bình gần mười một nghìn anh chị em cùng sinh trong một trăm năm mươi mẻ những trẻ cùng sinh giống nhau như đúc, và trong hai năm có cùng một tuổi.

“Và trong những trường hợp ngoại lệ, chúng ta có thể làm cho một trứng sinh ra cho chúng ta hơn mười lăm nghìn cá nhân trưởng thành”.

Vẫy một chàng trai hồng hào khỏe mạnh tóc vàng hoe vừa ngẫu nhiên đi ngang qua, “Anh Foster”, ông gọi. Chàng trai đến gần. “Anh Foster, anh có thể cho chúng tôi biết kỉ lục của một trứng duy nhất?”.

“Mười sáu nghìn và mười hai nghìn ở Trung tâm này”, Foster trả lời không hề do dự. Anh ta nói rất nhanh, có đôi mắt linh lợi, và có vê thích thú khi dẫn ra những con số. “Mười sáu nghìn và mười hai, trong một trăm tám mươi chín mẻ đồng nhất. Nhưng tất nhiên họ đã làm tốt hơn nhiều”, anh ta liến thoắng, “trong một số Trung tâm nhiệt đới. Singapore đã thường xuyên tạo ra hơn mười sáu nghìn năm trăm; và Mombasa thật sự đã chạm đến vạch mười bảy nghìn. Nhưng lúc đó là họ có những thuận lợi không công bằng. Ông phải thấy một trứng da đen đáp ứng với tuyến yên! Hết sức đáng kinh ngạc khi ông thường chỉ quen làm việc với chất Âu châu. Còn nữa”, anh ta nói thêm, với một tiếng cười (nhưng trong mắt anh ta có cái ánh hơn thua và hếch cằm lên một cách thách thức) “còn nữa, chúng tôi muốn đánh bại họ nếu chúng tôi có thể. Hiện giờ tôi đang làm trên một trứng Delta-trừ. Mới chỉ mười tám tháng tuổi. Trên mười hai nghìn bảy trăm con rồi, hoặc mới được gạn hoặc ở dạng phôi. Và vẫn còn rất mạnh. Chúng tôi sẽ đánh bại họ”.

“Tôi thích cái tinh thần của anh!” Giám đốc kêu lên, và vỗ vai Foster. “Đi với chúng tôi, và cho các cậu sinh viên này hưởng chút kiến thức chuyên gia của anh”.

Foster cười khiêm tốn. “Sẵn lòng”. Họ cùng đi.

Trong Phòng Đóng chai, tất cả đang hoạt động hối hả, hài hòa theo trật tự. Những chiếc nắp làm bằng màng bụng lợn nái tươi sống cắt sẵn thành từng miếng có kích thước thích hợp được ném vào những thang máy nhỏ từ Kho Nội tạng dưới tầng hầm đi lên. Vút, và cạch một cái! Những cửa sập thang máy mở; công nhân đóng chai chỉ việc giơ ra một bàn tay, cầm lấy cái nắp, đưa vào, ấn nhẹ xuống và trước khi chiếc chai đủ thời gian đi ra khỏi tầm với theo băng tải vô tận thì vút, và cạch! Chiếc nắp khác đã bắn tới từ khoảng sâu, sẵn sàng được trượt nhanh vào một chiếc chai khác nữa, chiếc tiếp theo trong cuộc diễu hành chậm chạp và vô tận của băng tải.

Các sinh viên trẻ đứng bên cạnh những công nhân đóng chai. Băng tải diễu qua, lần lượt từng trứng một được chuyển từ các ống nghiệm đến những đồ chứa to hơn, màng bụng được xẻ ra khéo léo, phôi dâu được rơi vào vị trí, dung dịch muối được rót vào ..và chai đi qua, đến lượt dán nhãn. Tính di truyền, ngày tháng thụ tinh, thành viên của Nhóm Bokanovsky – những chi tiết được chuyển từ ống nghiệm sang chai. Không còn vô danh, mà đã được đặt tên, được nhận dạng, quá trình tiếp tục diễu qua chầm chậm; qua một lỗ mở trên tường, chầm chậm đi vào Phòng Phòng Tiền định Vận mệnh Xã hội.

“Tám mươi tám mét khối danh mục” Foster hào hứng nói, khi họ đi vào.

“Chứa tất cả mọi thông tin thích hợp”, Giám đốc thêm.

“Được cập nhật mỗi buổi sáng”.

“Và được phối hợp mỗi buổi chiều”

“Trên cơ sở của nó họ làm các phép tính”.

“Rất nhiều cá nhân, với những phẩm chất như thế, như thế”. Foster nói.

“Được phân bố theo những số lượng như thế, như thế”.

“Tốc độ Gạn tối ưu tại thời điểm bất kì cho trước”.

“Những lượng hao phí không tính trước nhanh chóng tỏ ra hữu ích”.

“Nhanh chóng”, Foster nhắc lại “Nếu ông biết số giờ làm thêm mà tôi phải đưa vào sau cuộc động đất vừa rồi ở Nhật Bản”. Anh cười vui vẻ và lắc đầu.

“Những Người Quyết Định Vận Mệnh gửi những con số của họ đến Những người Thụ tinh”

“Những người này chuyển cho họ những bào thai mà họ yêu cầu”.

“Và các chai đưa đến đây được quyết định vận mệnh một cách chi tiết”.

“Sau đó chúng được đưa đến Kho Phôi”

“Nơi bây giờ chúng ta đang tiến đến”.

Và mở một cánh cửa, Foster dẫn đường xuống tầng hầm.

Nhiệt độ vẫn còn nhiệt đới. Họ đi xuống một ánh sáng dày đặc. Hai cửa và một lối đi với một chỗ ngoặt kép bảo hiểm tầng hầm khỏi sự xâm nhập của ánh sáng ban ngày.

“Những bào thai giống như phim ảnh”, Foster dí dỏm, khi anh đẩy mở một cánh cửa thứ hai. “Chúng chỉ có thể chịu được ánh sáng màu đỏ”. Và dưới tác động của bóng tối ngột ngạt mà đám sinh viên theo anh ta vào, lúc này có thể thấy được và màu đỏ thẫm, giống như bóng tối khi ta nhắm mắt vào một buổi chiều hè. Những cạnh sườn phồng lên của những chai hàng nối hàng, tầng trên tầng lóe lên với vô vàn viên hồng ngọc và giữa những viên hồng ngọc lờ mờ di chuyển những bóng ma đàn ông đàn bà màu đỏ với những đôi mắt màu tía và mọi triệu chứng của bệnh ban đỏ. Những tiếng rì rầm và lách cách của máy móc khuấy động không khí một cách uể oải.

“Cho họ một vài con số, Foster”. Giám đốc nói, ông đã chán nói rồi.

Foster hết sức vui vẻ cho họ một vài con số.

Hai trăm hai mươi mét dài, hai trăm mét rộng, mười cao. Anh chỉ lên trên. Giống như gà con uống nước, lũ sinh viên ngước lên nhìn trần nhà.

Ba tầng giá: ngang mặt đất, đường hầm thứ nhất, đường hầm thứ hai. Những khung thép nghều ngào của tầng hầm trên tầng hầm nhạt màu chìm vào bóng tối. Gần chúng ba bóng ma màu đỏ đang bận rộn rỡ những chai rượu cổ hẹp khỏi một cầu thang di động.

Thang máy Phòng Phòng Tiền định Xã hội

Mỗi chai có thể được đặt vào một trong mười lăm chiếc giá, mỗi chiếc mặc dầu không thể nhìn thấy, là một băng chuyền di chuyển với tốc độ ba mươi ba và một phần ba centimet một giờ. Hai trăm sáu mươi bảy ngày ở tốc độ tám mét một ngày. Hai nghìn một trăm ba mươi sáu mét tất cả. Một mạch của tầng hầm ngang mặt đất, một ở đường hầm thứ nhất, một ở đường hầm thứ hai. Và trong hai trăm sáu mươi bảy buổi sáng, có ánh sáng ngày trong Phòng Gạn. Tồn tại gọi là độc lập. “Nhưng trong khoảng thời gian ấy”, Foster kết luận, “Chúng tôi cố gắng làm thật nhiều. Ồ, thật nhiều”. Anh ta cười vẻ hiểu biết và đắc thắng.

“Tôi thích cái tinh thần của anh” Giám đốc nhắc lại lần nữa. “Chúng ta hãy đi một vòng. Anh hãy kể cho họ về mọi thứ, Foster ạ”.

Foster đã kể một cách đầy đủ.

Anh đã kể về việc nuôi bào thai trong ổ bụng. Cho họ nếm thử chất thay thế máu nuôi bào thai. Giải thích tại sao phải kích thích nó bằng placentin và thyroxin. Nói với họ về việc chiết xuất thể vàng (corpus luteum ). Chỉ cho họ xem những tia cứ một phần mười hai mét từ zero đến 2040 lại tự động bắn ra. Nói về những liều lượng tăng dần của tuyến yên được quản lý trong chín mươi sáu mét cuối cùng của đợt. Mô tả tuần hoàn của mẹ nhân tạo được lập trong mỗi chai tại vị trí 112 mét; cho họ xem bể chứa chất giả-máu (chất lỏng thay thế máu), bơm ly tâm giữ cho chất lỏng chuyển động trên nhau và đẩy nó qua lá phổi nhân tạo và bộ lọc phế thải. Nhắc đến khuynh hướng rắc rối về thiếu máu của bào thai, đến những liều lượng khổng lồ cần cung cấp cho nó chiết từ dạ dày lợn và gan bào thai lừa. Chỉ cho họ thấy cơ cấu đơn giản trong hai mét cuối cùng của mỗi tám mét, dùng để lắc đồng loạt tất cả các bào thai cho quen với chuyển động. Gợi đến tính nghiêm trọng của cái gọi là “cú sốc gạn” và liệt kê những biện pháp phòng ngừa để giảm thiểu cú sốc nguy hiểm đó, bằng một tập dượt thích hợp cho bào thai đóng chai. Kể với họ về trắc nghiệm giới tính được tiến hành trong khu vực 200 Met. Giải thích hệ thống được ghi nhãn màu đen trên nền trắng, bằng một chữ T cho giống đực, một vòng tròn cho giống cái, và một dấu hỏi cho những bào thai sẽ trở thành không có khả năng sinh sản. “Vì tất nhiên”, Foster nói, “trong đại đa số trường hợp, khả năng sinh sản chỉ gây rắc rối. Một buồng trứng có khả năng sinh sản trong một ngàn hai trăm thật sự đã hoàn toàn đủ cho mục đích của chúng tôi. Nhưng chúng tôi muốn cỏ một lựa chọn tốt. Và dĩ nhiên phải là một lựa chọn có hệ số an toàn cực lớn. Do đó chúng tôi cho phép đến ba mươi phần trăm bào thai giống cái phát triển bình thường. Những bào thai khác cứ hai mươi bốn mét trong phần còn lại của đợt sẽ được tiêm hormone nam tính. Kết quả: chúng bị gạn lọc như những bào thai có cấu trúc vô sinh hoàn toàn bình thường (“ngoại trừ, anh ta phải thừa nhận, “chắc chắn chúng có một khuynh hướng mọc râu”, nhưng vô sinh. Đảm bảo vô sinh. “Điều này rốt cuộc”, Foster tiếp tục, “đưa chúng ta ra khỏi vương quốc bắt chước mù quáng của tự nhiên, đi vào thế giới thú vị hơn nhiều của sự sáng tạo con người”).

Anh ta xoa tay. Vì tất nhiên, họ không vừa lòng với việc chỉ nuôi lớn những bào thai: con bò cái nào cũng có thể làm việc đó. “Chúng tôi còn định trước số mệnh và thân phận cho chúng. Chúng tôi gạn lọc những trẻ sơ sinh của chúng tôi như những con người xã hội hóa, như những Alpha hay những Epsilon, như những thợ nạo cống tương lai hay những .”. anh ta định nói “những nhà Kiểm soát Thế giới tương lai”, nhưng lại sửa thành “Những Giám đốc Lò Âp tương lai”. GĐTT ghi nhận lời ngợi ca với một nụ cười. Họ đang đi qua Mét 320 trên Giá 11. Một thợ máy Beta-Trừ đang bận rộn dùng tournevis và clef trên chiếc bơm máu giả của một chiếc chai đi qua. Tiếng vo vo của động cơ điện nghe trầm sâu do tiếng ken két khi anh ta vặn écrou. Xuống, xuống này..Một nhát vặn cuối cùng, liếc nhìn máy đếm vòng, và anh ta làm xong. Anh ta bước hai bước xuôi theo dây chuyền và bắt đầu lặp lại thao tác đó với chiếc bơm kế tiếp. “Giảm số vòng quay trong một phút”, Foster giải thích.

“Chất giả-máu lưu thông chậm hơn, do đó nó đi qua phổi với khoảng thời gian dài hơn, do đó cung cấp cho bào thai ít ô xy hơn. Để giữ cho bào thai dưới mức trung bình thì không có gì hơn là thiếu ô xy”. Anh ta lại xoa tay.

“Nhưng tại sao các ông lại muốn giữ cho bào thai dưới mức trung bình?” Một sinh viên ngây thơ hỏi.

“Đồ con lừa!” Giám đốc nói phá vỡ sự im lặng kéo dài. “Chẳng lẽ cậu không thấy một bào thai Epsilon phải có một môi trường Epsilon và một đặc tính di truyền Epsilon hay sao?”

Rõ ràng cậu ta chưa thấy điều đó. Cậu vẫn chìm trong bối rối. “Đẳng cấp càng thấp, ô xy càng thiếu”. Foster nói. Cơ quan đầu tiên chịu tổn thương là bộ não. Rồi đến bộ xương. Ở mức bảy mươi phần trăm ô xy bình thường, sẽ thành người lùn. Dưới bảy mươi phần trăm – thành quái thai không mắt.

“Tức là một kẻ vô dụng hoàn toàn”, Foster kết luận.

Trong khi đó (giọng anh ta trở nên thân mật và sôi nổi) nếu người ta có thể phát minh ra một kỹ thuật để rút ngắn thời kì chín, thì sẽ là một đại thắng lợi, một ích lợi cho Xã hội biết bao!

“Hãy xem con ngựa”.

Trưởng thành khi sáu tuổi. Voi, mười tuổi. Trong khi đến mười ba tuổi, một người đàn ông chưa trưởng thành về sinh dục, và chỉ tưởng thành đầy đủ ở tuổi hai mươi. Từ đó, tất nhiên, kết quả của sự phát triển trễ, là trí thông minh của con người. “Nhưng ở các Epsilon”, Foster nói rất nghiêm chỉnh, “chúng ta không cần trí thông minh con người”.

Không cần và không đạt được nó. Nhưng dù sao trí tuệ của Epsilon cũng chín muồi ở tuổi lên mười, và cơ thể Epsilon không thích hợp để làm việc cho đến tuổi mười tám. Những năm dài non nớt vô dụng uổng phí. Nếu sự phát triển thể chất được thúc nhanh như, nói ví dụ, một con bò, thì tiết kiệm cho Cộng đồng một khoản khổng lồ!

“Khổng lồ!” lũ sinh viên rì rầm họa theo. Nhiệt tình của Foster đã truyền cả sang họ.

Anh ta chuyển sang nói sâu về kỹ thuật, về sự phối hợp nội tiết không bình thường khiến cho đàn ông chậm lớn như vậy, đòi hỏi một sự đột biến ở bào thai để giải thích. Có thể gỡ bỏ những tác động của đột biến ở bào thai không? Cá thể bào thai Epsilon có thể, nhờ một kỹ thuật thích hợp, quay trở lại trạng thái bình thường của những con chó, những con bò không? Đó là cả một vấn đề. Và nó gần như đã được giải quyết.

Pilkington, ở Mombasa, đã tạo ra được những cá thể chín muồi về sinh dục ở bốn tuổi, và trưởng thành đầy đủ vào sáu tuổi rưỡi. Một thắng lợi về mặt khoa học! Nhưng vô ích về phương diện xã hội. Đàn ông đàn bà sáu tuổi quá ngu ngốc để có thể làm những công việc thậm chí của Epsilon. Và đó là một quá trình được ăn cả ngã về không; hoặc bạn không thay đổi được gì, hoặc bạn làm thay đổi tất cả.

Họ vẫn đang cố tìm ra một sự dung hòa lý tưởng giữa những người trưởng thành ở tuổi hai mươi, và những người trưởng thành ở tuổi lên sáu. Đến giờ vẫn chưa thành công. Foste thở dài và lắc đầu.

Họ đi tha thẩn xuyên qua ánh chạng vạng màu đỏ thẫm đến khu vực Met 170 trên Giá số 9. Từ điểm này trở đi, Giá số 9 được rào kín và chai tiếp tục đoạn hành tình còn lại của nó vào một đường hầm, lâu lâu lại bị ngắt quãng bơi những lỗ mở rộng hai hoặc ba mét.

“Xử lý nhiệt”, Foster nói.

Những đường hầm nóng được thay bằng những đường hầm mát. Khí mát được kết hợp với sự bất tiện dưới dạng những tia X mạnh. Vào lúc chúng được gạn các bào thai khiếp sợ cái lạnh. Chúng được định trước là sẽ di cư vào vùng có tính nhiệt đới, thành những thợ mỏ, thợ quay tơ và thợ sắt.

Sau đó trí óc của chúng được làm để chấp nhận phán xét của thân thể. “Chúng tôi xử lý để chúng phát triển tốt ở chỗ nóng” Foster kết luận.

“Các đồng nghiệp của chúng tôi ở tầng trên sẽ dạy chúng thích nóng”.

“Và đó”, Giám đốc tham gia vào, vẻ răn dạy, “đó là bí mật của hạnh phúc và cái-giống-như đạo đức những gì mà anh phải làm. Mọi việc xử lý đều nhằm điều đó: làm cho người ta thích cái số phận xã hội không thể thoái thác của họ”. Trong khoảng hở giữa hai đường hầm một nữ y tá đang dùng một xiranh dài và mịn tiêm vào chất gelatin chứa trong một cái chai đi qua. Các sinh viên và hai người hướng dẫn của họ im lặng đứng nhìn cô ta một lúc.

“Nào, Lenina”, Foster nói khi cuối cùng cô đã rút xiranh ra và đứng thẳng người lên.

“Henry!” Nụ cười của cô lóe đỏ – một hàng răng san hô.

“Quyến rũ, quyến rũ quá!” Giám đốc lầm rầm, vỗ nhẹ lên cô hai ba phát, và nhận một nụ cười khá cung kính đáp lại.

“Cô có cái gì cho chúng đấy?” Foster lấy giọng chuyên nghiệp hỏi.
“Ồ, chứng thương hàn thường và bệnh ngủ ấy mà”.

“Các công nhân nhiệt đới bắt đầu được tiêm chủng tại Mét 150″, Foster giải thích cho các sinh viên. “Các phôi vẫn còn là gái. Chúng tôi chủng ngừa giống này tránh những bệnh tật của đàn ông trong tương lai ” Rồi quay lại Lenina,

“Mười đến năm trên nóc, như thường lệ” anh nói.

“Quyến rũ quá”, Giám đốc nói thêm lần nữa, và với một cái phát cuối cùng, quay đi theo những người kia.

Trên giá số 10 hàng những công nhân hóa học của thế hệ kế tiếp đang được rèn luyện để chịu được chì, xút ăn da, hắc ín, clorin. Phôi đầu tiên của một mẻ hai trăm năm mươi phôi kỹ sư máy bay mang tên lửa vừa mới được đưa qua dấu một nghìn một trăm mét trên Giá số 3. Một cơ cấu đặc biệt giữ cho các bình chứa quay đều. “Để cải thiện cảm giác thăng bằng của chúng” Foster giải thích. Tiến hành sửa chữa bên ngoài một tên lửa ở giữa không trung là một công việc cần rất thận trọng. Chúng tôi làm chậm lại tuần hoàn máu của chúng khi chúng ở thế thẳng đứng, khiến cho chúng hơi bị đói và tăng gấp đôi dòng giả-máu khi chúng lộn đầu xuống dưới. Chúng sẽ học cách kết hợp hỗn loạn với thoải mái, thật ra, chúng chỉ thật sự hạnh phúc khi chúng đứng bằng đầu.

“Và đây” Foster tiếp tục, “Tôi muốn giới thiệu với các bạn một xử lý hết sức thú vị đối với các Trí thức Alpha Cộng. Chúng tôi có một mẻ lớn những phôi này ở Giá số 5. Tầng hầm số một”, anh gọi hai cậu trai đang bắt đầu đi xuống tầng mặt đất. “Chúng ở khoảng Mét 900” anh giải thích “Bạn không thể thật sự xử lí trí tuệ hữu ích nào cho đến khi các bào thai rụng đuôi. Hãy theo tôi”.

Nhưng Giám đốc đã xem đồng hồ “Ba giờ kém mười, “ ông ta nói. Tôi nghĩ ta không còn thời gian xem các bào thai trí thức nữa. Chúng ta phải lên phòng trẻ nhỏ trước khi lũ trẻ kết thúc giấc ngủ chiều”. Foster thất vọng. “Ít nhất liếc qua phòng Gạn một tí”, anh đề nghị.

“Thế thì được thôi”. Giám đốc mỉm cười độ lượng. “Chỉ liếc qua một tí thôi nhé”.

(Xem tiếp kỳ sau)

Chú thích

[1] A.F.632: Năm 632 Kỷ nguyên Ford [A.F = Anno Ford]

2 Chữ cái đầu tiên trong bảng chữ cái Hy Lạp. Beta, Gamma, Delta, Epsilon lần lượt là các chữ cái thứ hai, ba, bốn, năm.

3 Quá trình Bokanovsky: quá trình (hư cấu) nhân bản vô tính người, dựa vào tên của Maurice Bokanowsky (1879-1928), luật gia và chính khách cánh tả Pháp, người chủ trương tính hiệu quả của nhà nước và xã hội.


Comments are closed.