Bùi Vĩnh Phúc
I. Giới thiệu vấn đề
Văn học miền Nam, từ 1954 đến 1975, là một đóng góp và một thành tựu của văn học Việt Nam, trong một giai đoạn thuộc nửa sau thế kỷ XX. Nó chỉ tồn tại trong vòng 20 năm, nhưng nó đã là một tồn tại quan trọng và không thể thiếu của giai đoạn này. Nói một cách thẳng thắn, nền văn học này nối kết Việt Nam với thế giới, với nhân loại, trong những khía cạnh hiện-hữu-người một cách vừa bao quát vừa thâm sâu nhất. Nó chia sẻ và phản ánh thân phận và những tình cảm của con người ở những độ rung, những bảng mầu gần gũi với các nền văn học hiện đại của thế giới, dĩ nhiên với những âm vang và sắc độ riêng của đời sống xã hội và tinh thần của người Việt.
Cũng trong thời gian ấy, miền Bắc Việt Nam có một nền văn học khác. Trong một cái khung xã hội và văn học riêng, nó cũng có những giá trị riêng của nó. Chắc chắn là thế. Dù sao, một điều chắc chắn hơn là, nền văn học ấy, với cái khung xã hội và văn học riêng của mình, một xã hội mà mọi người dân đều bị kiểm soát về mọi mặt, đặc biệt là về mặt tư tưởng, một nền văn học mà chủ trương của nó, vô tình hay hữu ý, đã đưa đến sự minh hoạ, đồng phục trong thể hiện, và mang tính sử thi, tô hồng cuộc chiến trong âm hưởng, giọng điệu, đã gần như chặt đứt nó với những nhịp cầu giao tiếp của nhân loại. Điều đó là một sự đáng tiếc.
Nhưng điều cần phải nói ở đây là tại Việt Nam, ngay cho đến bây giờ, gần 40 năm sau cuộc chiến, đa số những người cầm trịch văn học cả nước, một cách vô thức hay hữu thức, hình như vẫn chỉ cảm nhận rằng, về mặt âm thanh, Việt Nam, trong giai đoạn đó, chủ yếu chỉ có hơi thở và những tiếng nói, tiếng trống trận, tiếng thúc quân và tiếng kèn của miền Bắc, và về mặt hình ảnh, chủ yếu chỉ có những bộ đồng phục và những hình ảnh mang tính minh hoạ về một tiếng hát chung, màu đỏ. Trong các tài liệu nghiên cứu và các sách viết về lịch sử văn học được dùng trong nhà trường, trong các tài liệu sư phạm, chỉ có văn học miền Bắc là hiện diện trong giai đoạn ấy. Người ta đã không thấy hay lờ đi sự có mặt hết sức đa dạng và tầm vóc của văn học miền Nam. Nếu có nhắc đến đâu đó thì chỉ là để phê phán hoặc mang tính cách chiếu lệ, “hạ cố”. Tâm tình của con người thì ở đâu cũng như nhau, trong hoà bình hay trong chiến tranh. Nhưng con người sống tại miền Bắc, lúc ấy, đã không được cất lên tiếng nói khát khao trung thực của mình. Tiếng nói của Nhân Văn Giai Phẩm đã bị bóp nghẹt. Cũng thế là những tiếng nói của bất cứ một đoàn nhóm hay cá nhân nào có cái khao khát đi tìm một hơi thở ở bên ngoài dàn đồng ca. Cái hơi thở, cái tiếng nói đưa dẫn con người đến gần lương tâm, gần trái tim của nhân loại.
Dù có như thế, để lặp lại, văn học miền Bắc trong giai đoạn ấy cũng có những đường nét riêng của nó. Nó phản ánh một gương mặt của chiến tranh. Và gương mặt ấy có thật. Ở một mức độ nào đó, và trong những góc nhìn nào đó, dù bị chỉ đạo, nền văn học ấy, ngoài âm vọng sử thi, ngoài những tấu tụng về chiến công, về vinh quang, nhiều khi được tô mầu một cách khá thô sơ, vụng về, cũng nói lên được cái đời sống, cả tinh thần lẫn vật chất, của cả một xã hội, của những con người, với những tâm trạng, những hy sinh và những đớn đau riêng. Và, như thế, nó cũng đã đóng góp những đường nét của mình để vẽ nên khuôn mặt chung của văn học Việt Nam giai đoạn ấy. Khuôn mặt của văn học Việt Nam thời chiến.
Dù sao, chúng ta không bàn về những điều ấy ở đây. Nó không phải là chủ đề của bài viết này.
Ở đây, chúng ta sẽ nói về văn học miền Nam.
Lý do là, để lặp lại, đã gần 40 năm trôi qua kể từ khi chiến tranh Việt Nam kết thúc, nhưng đa số những người cầm trịch văn học miền Bắc vẫn có thái độ, và cả chủ trương nữa, là không nhìn đến văn học miền Nam trong giai đoạn 20 năm ấy. Họ biết rõ những điểm mạnh, những điểm đặc sắc của nền văn học này. Biết rõ là văn học miền Nam, trong giai đoạn ấy, đã là nhịp cầu nối liền Việt Nam với thế giới, với con người, với nhân loại. Nhưng họ vẫn không chịu chấp nhận là nền văn học ấy đã mọc từ rễ cây dân tộc, lớn mạnh và nối kết dân tộc Việt với con người trên khắp thế giới, nối kết Việt Nam với nhân loại. Thái độ gạt bỏ, thậm chí trù dập ấy, tôi nghĩ, có cái gốc rễ tâm lý của nó. Dù là tự ti hay tự tôn thì cái tâm lý ấy, cái mặc cảm/phức cảm ấy (vừa không nói ra, vừa rất phức tạp), cũng không xứng đáng và không tốt cho văn học Việt. Nhiều trí thức, học giả, và những người có hiểu biết, có tâm, có tầm và có tài trong nước, đã nhìn ra điều cần thiết trong việc nhận diện và nhu cầu kết hợp văn học miền Nam vào văn học của cả nước trong giai đoạn này. Tôi mong con số những người ấy càng ngày càng lớn, vì nguyên khí quốc gia không thể bị đè bẹp. Nó cần và phải được phát triển.
Nói về phẩm tính là nói về những điểm tốt đẹp, những giá trị đạt được trong việc thẩm định, đánh giá. Để trình bày ý nghĩa của dòng văn học miền Nam trong giai đoạn 1954-1975, đặt trong bối cảnh của văn học Việt Nam nói riêng, và văn học hiện đại nói chung, người ta phải nêu ra được những “phẩm hạnh”, phẩm chất của nó. Cũng thế, khi nói về phẩm tính của dòng văn học này, ta cũng sẽ thấy được những ý nghĩa, những giá trị mà nó cưu mang, cho dù là nó đã cưu mang những điều ấy trong tiếng đạn bom gào xé và trong những vùng đớn đau, đen tối của phận người.
II. Bàn về các phẩm tính
Trước hết, văn học miền Nam là một nền văn học tự do, cho dù, ở một số trường hợp, cũng có một vài sự kiểm duyệt nhỏ, và, cho dù, chính cái tự do ấy cũng có những lúc tạo vấn đề cho nó. Tuy nhiên, chủ yếu, đó vẫn là một nền văn học tự do, trong đó con người, qua văn học, có thể nói lên những suy nghĩ, ưu tư, trăn trở và tình cảm của mình. Cái tự do này mang tính chủ yếu, thẩm thấu và phản ánh trong và qua tất cả các sinh hoạt trí thức của con người miền Nam, liên hệ đến văn học. Từ đó, trong một cái nhìn thâu tóm, người ta có thể nhìn ra bốn tính chất căn bản của nền văn học này. Có thể xem đó là bốn phẩm tính cốt lõi của văn học miền Nam 1954-1975. Những phẩm tính đó có thể được kể: một, đó là một nền văn học phát triển và mang tính liên tục (bắt nguồn từ văn học tiền chiến); hai, đó là một nền văn học hiện đại, tiếp cận và liên thông với văn học thế giới; ba, đó là một nền văn học mang đậm tính nhân bản và nhân văn; và bốn, đó là một nền văn học khai phóng, đa sắc, và đa dạng.
Sau đây, ta sẽ lần lượt xét từng thuộc tính quan trọng ấy.
1. Một nền văn học phát triển và mang tính liên tục, từ truyền thống:
Văn học miền Nam 1954-1975 là một dòng chảy liên tục, nhất quán, nối tiếp và phát triển từ văn học tiền chiến, kháng chiến (Nam bộ, 1945-1954), sang đổi mới, hiện đại. Trong khi tại miền Bắc, dòng văn học có thể nói là bị ngắt quãng giữa văn học tiền chiến và văn học kháng chiến. Thật sự, văn học tiền chiến, tại miền Bắc, ở một mức độ nào đó, trong giai đoạn đầu, vẫn có đấy, nhưng sau đó nó đã bị lấn ép bởi nền văn học kháng chiến. Là một chủ trương, đường lối được chỉ đạo, văn học miền Bắc đã đi vào con đường gạt bỏ văn học tiền chiến để dấn mình vào văn học kháng chiến. Có một sự đứt gẫy, nếu không muốn nói là một sự chặt đứt, từ tiền chiến sang kháng chiến ở đây. Người ta muốn nối liền mạch văn học dân gian và văn học kháng chiến, mà tháo gỡ, hay cắt bỏ, văn học tiền chiến. Người ta xem nó là một thứ lãng mạn tiểu tư sản. Là viễn mơ và không tiến bộ. Thậm chí, là truỵ lạc. Các nhà văn nổi tiếng thời tiền chiến, còn sống tại miền Bắc trong giai đoạn ấy, đã bị bắt buộc lên tiếng chối bỏ tác phẩm của mình. Xem đó là một giai đoạn ấu trĩ, chưa trưởng thành. Hơn nữa, một giai đoạn lầm lạc. Của chính mình. Nhân Văn Giai Phẩm, dù sao, đã ra đời, cất lên tiếng nói trung thực của lương tâm, của con người trước số phận của nền văn học dân tộc, của đất nước. Những người chủ trương Nhân Văn Giai Phẩm, ngoài việc lên tiếng cho Sự Thật, cho tự do tư tưởng, có lẽ họ còn muốn cứu vãn Cái Đẹp, Cái Lành, Cái Thiện, Cái Yêu Thương và Cái Mới trong văn học, trong sáng tạo của nhà thơ, nhà văn. Nhưng họ đã bị bịt miệng. Và tiếng nói của họ đã bị giam trong tù ngục trong suốt ba mươi năm.
Văn học miền Nam chính là nơi đã nuôi dưỡng và gìn giữ những tinh hoa của văn chương tiền chiến. Trong sách báo cũng như trong chương trình học tập tại trường học. Cũng chính miền Nam đã lưu truyền và phổ biến tiếng nói và tâm tình của những nghệ sĩ như Hoàng Cầm, Trần Dần, Lê Đạt, và những nhà văn, nhà thơ khác trong nhóm Nhân Văn Giai Phẩm. Tuy sau này, những nhóm và những tạp chí văn học tại miền Nam, đặc biệt kể từ Sáng Tạo, đã phổ biến những tâm tình của trí thức và nghệ sĩ miền Nam, trong những thể điệu mới mẻ khác, đi vào con đường hiện đại, cái mầm hạt tốt tươi và mạnh mẽ của văn chương tiền chiến vẫn đã để lại dấu ấn của nó trong tiến trình phát triển của văn học miền Nam.
Nói tóm lại, trong văn học miền Nam, có một sự liên tục tiếp nối của những chặng đường văn học, những truyền thống văn chương. Cái đài hoa tốt đẹp kia đã không hề bị đứt cuống. Sau khi chia tay tiền chiến để bước vào hiện đại, văn học miền Nam vẫn giữ được trong nó những giá trị tốt đẹp của văn chương tiền chiến. Cái giá trị ấy giống như một cây cầu nối, giúp cho văn học miền Nam thực hiện được một bước chuyển đẹp đẽ.
2. Một nền văn học hiện đại, tiếp cận rộng rãi với văn học thế giới
Không bị cô lập và bóp bẹp trong tư duy, suy nghĩ một chiều, văn học miền Nam mở rộng cửa chào đón nhiều luồng tư tưởng đến từ khắp nơi trên thế giới, đặc biệt từ châu Âu. Các trào lưu, lý thuyết văn học được tự do giới thiệu, phát triển tại miền Nam. Chúng ta có thể tạm kể đến chủ thuyết hiện sinh, với S. Kiekegaard, F. Nietzsche, K. Jaspers, M. Heidegger, J.-P. Sartre, v.v.; đặc biệt trong sáng tác và kịch bản văn học của Sartre, Camus, S. de Beauvoir, F. Sagan. Rồi hiện tượng luận với Husserl, Merleau-Ponty, Gabriel Marcel, Heidegger, Karl Jaspers, Paul Ricoeur, Emmanuel Lévinas và Mikel Dufrenne. Thuyết cấu trúc, đi từ lĩnh vực ngôn ngữ học của F. de Saussure đến nhân chủng học và văn học với Claude-Levi Strauss, Roland Barthes, v.v… Và phân tâm học (hay nói cho chính xác hơn là “tâm phân học”) của Freud, và, sau đó, của Jung, của Adler, và của những nhà tâm lý khác. Phương pháp “dòng ý thức” (“stream of consciousness”) trong sáng tạo văn học của những tác giả như Hemingway, Faulkner, James Joyce… cũng được giới thiệu và áp dụng trong các tác phẩm văn chương của các nhà văn miền Nam. Rồi chủ nghĩa siêu thực của nhóm André Breton cùng quan niệm của nhóm Dada. Trào lưu tiểu thuyết mới của những tác giả như Claude Simon, Alain Robbe-Grillet, Nathalie Sarraute, v.v… Người ta đọc và thảo luận về Socrate, Platon, Descartes, Kant. Viết và nói về Hegel, Marx, Lenin, Althusser. Không chỉ thế, người ta còn tìm hiểu, nghiên cứu và thảo luận về các nền triết học cổ đại và trung đại, về biện chứng pháp của Platon, Hegel và Marx; từ đó, có người, như Nghiêm Xuân Hồng, đã tìm hiểu về “Biện Chứng Giải Thoát trong Tư Tưởng Ấn Độ”, hoặc “Biện Chứng Giải Thoát trong Giáo Lý Trung Hoa”, v.v…
Chính cái tự do tại miền Nam đã cho phép các lý thuyết, trào lưu văn học này được giới thiệu và phát triển ở đây, thậm chí với những khuynh hướng trái chiều nhau. Cụ thể là về lý thuyết và chủ nghĩa hiện sinh. Việc giảng dạy, phổ biến và đưa vào trong sáng tác văn học đã được tiến hành khá đồng bộ. “Hiện sinh vô thần” với Nietzsche và Sartre, chẳng hạn, có thể cùng đi song song với “hiện sinh hữu thần” của K. Jaspers và Gabriel Marcel. Chủ nghĩa hiện sinh không chỉ được phổ biến trong khung cảnh đại học, mà nó còn xuất hiện trong sách báo, đi vào tâm tư người đọc. Hơn nữa, nó còn thể hiện trong thái độ sống của những người trẻ trong giai đoạn này. Tiêu cực thì là lối sống mệt mỏi, buông thả và hưởng thụ, trước một cuộc chiến kéo dài với bao nhiêu đổ vỡ, mất mát. Tích cực thì là thái độ dấn thân, nhập cuộc, “lên đường” hay “xuống tàu” của một lớp tuổi trẻ đầy nhiệt huyết, muốn cụ thể làm một cái gì tích cực cho xã hội, cho đất nước, quê hương trước một guồng máy đang tan rã.
Tất cả những điều đó, cả những điều tích cực và một số thái độ tiêu cực, trong việc tiếp nhận và phổ biến các trào lưu, lý thuyết văn học tại miền Nam, đã chỉ có thể được thực hiện trên mảnh đất của tự do. Nó cho phép con người ta tiếp cận với những cái mới, cái đang hiện ra, nóng hổi, cái đang được theo dõi và tranh luận, với nhiều góc cạnh, ảnh hưởng của chúng. Tất cả những điều ấy làm cho tâm hồn, trí tưởng của con người như một căn phòng mở cửa để đón gió lộng bốn phương. Có thể những luồng gió có lúc đã làm xáo trộn phần nào mọi thứ được bày biện trong phòng, nhưng chính những ngọn gió ấy đã làm cho người ngồi trong phòng hít thở được những nguồn hương lạ, dạt dào. Cửa sổ nhìn ra từ căn phòng ấy đã giúp cho chủ nhân của nó nhìn ngắm được những hình ảnh, phong cảnh tươi mới, đầy mầu sắc của cuộc đời. Từ đó, chúng tạo cho con người những cái nhìn, những viễn tượng mới, đưa tâm hồn con người đi xa vào nhiên giới bên ngoài, cũng như đi sâu hơn vào nội giới bên trong nó, để, từ đó, nhận biết chính con người mình và cuộc đời hơn. Nhận biết rằng người ta đang hiện hữu trước cuộc đời. Người ta đang sống. Và sống với tất cả những tiềm thể, những khả thể có thể tìm thấy trong chính con người.
Về phẩm tính “hiện đại” của văn học miền Nam, một điều chúng ta cũng nên để ý đến ở đây là khía cạnh thi pháp.
Thi pháp mà tôi muốn nói đến ở đây là cách thể hiện tác phẩm văn học. Là cái hình thức, cái kết cấu, cái nguyên tắc nghệ thuật đã sáng tạo ra tác phẩm văn học. Nó cũng có thể là cái cách viết, cách diễn ý, dùng từ, dùng hình ảnh để tạo hiệu ứng cần thiết cho những gì mà nhà văn, nhà thơ muốn diễn tả. Ngày xưa, thơ văn là để nói cái đạo, cái chí (như trong “Văn dĩ tải đạo” và “thi ngôn chí”). Lúc đó, người ta hầu như chỉ quan tâm đến cái ý, cái chí, cái “đạo”, cái nội dung mà nhà thơ, nhà văn muốn chuyển đạt. Về sau, đặc biệt từ thời hiện đại, người ta nhận thấy rõ rằng cái hình thức (mà ngày xưa người ta xem thường, chỉ coi như cái “vỏ” bên ngoài) cũng chính là cái nội dung, cái bên trong. Cái bên ngoài, cái dùng để thể hiện, cũng chính là cái bên trong, cái phần ruột thịt của tác phẩm. Bởi lẽ, hình thức chính là cái mà nhà thơ, nhà văn chọn lựa, như cách thể hiện thích đáng, đúng đắn nhất, để nói lên những suy nghĩ và tư tưởng của mình. Nói lên những gì mình muốn diễn đạt, trao gửi.
Thi pháp của một dòng văn học sẽ cho thấy, hoặc không cho thấy, tính đồng bộ, song song, cùng nhip của nó, sự bắt kịp của nó với những cung cách, thể điệu, lối viết, được diễn tả trên thế giới, trong một khung thời gian nào đó.
Miền Nam chính là vùng đất tốt đẹp và màu mỡ để những đường nét, hình thức mới, những thể điệu, cung cách mới, lối dùng từ ngữ, ý tưởng, hình ảnh mới mẻ trong thơ văn được phô diễn và phát triển. Những điều đó trong các tác phẩm của miền Nam đã cho thấy sự nhịp nhàng và đồng bộ của nó với văn học thế giới.
Trước hết, hãy nhìn về Thơ.
Chúng ta hãy thử đọc những câu sau:
Anh yêu em, yêu em vì em biết nói
Ðã biết thưa: Thưa Anh ! Em còn biết gọi
Sáng trời mưa, khiến cho anh nhớ em
Bây giờ nắng, anh nhớ em nhiều.
Ngồi xuống đây, nghe chim là chim ca hót
Ðồng cỏ như bàn tay, trời như mắt say
Ta ngó nhau, ôi còn biết nói gì
Hai đứa ngồi, ngồi đó như hai hòn bi
Có cành hoa đẹp anh hái cho em
Em không thèm nhận anh chết cho xem
Và anh sẽ khóc miên man suốt ngày
Ôi chả bao giờ buồn như bữa nay …
Đây là bài hát “Mùa Xuân Yêu Em” do Phạm Duy phổ bài thơ “Chuyện Tình” (1) của Đỗ Quý Toàn, viết vào khoảng năm 1959. Tôi tạm trích lời bài hát của Phạm Duy, ở đây, mà không trích nguyên văn bài thơ của Đỗ Quý Toàn vì bài của Phạm Duy hầu như đã dùng lại nguyên văn những câu thơ của thi sĩ, chỉ thay đổi chút ít cho hợp âm điệu của dòng nhạc. Lời của anh con trai nói với người con gái, ắt hẳn là người yêu của anh. Nó nghe như ngô nghê và không “thơ mộng” hay “triết lý” gì cả. Có lẽ đúng như thế, vì nó chỉ là tiếng của hạnh phúc thốt ra thành lời. Cách nói như một dạng “baby talk” của những kẻ đang yêu nhau. Nói với nhau như những con chim. Gù gù. Luýt chuýt.
Nhưng nó đã trở thành thơ. Nó mang xúc cảm và nó chuyên chở cái hơi thở và hình ảnh của cuộc đời. Về mặt văn học, nó cũng là một sự thử nghiệm. Thử nghiệm với tiếng nói, với cái tình cảm sơ nguyên của con người. Không màu mè, làm dáng, nó nói thẳng cái tiếng nói của cảm xúc, của tình yêu con người giữa thiên nhiên và tạo vật. Nó là thơ ở miền Nam.
Bài thơ này của Đỗ Quý Toàn làm tôi nghĩ đến hội hoạ của Henri Julien Félix Rousseau, một hoạ sĩ Pháp trong dòng Hậu-Ấn Tượng (Post-Impressionism) theo cung cách Ngây Thơ, Sơ Thuỷ (Naive, Primitive manner), nhưng đầy chất nghệ thuật.
Hay là cái cách “nói thơ” sau đây:
Hôm nay Nga buồn như con chó ốm
Như con mèo ngái ngủ trên tay anh
Đôi mắt cá ươn như sắp sửa se mình
Để anh giận sao chả là nước biển…
Đó là những câu mở đầu của bài thơ “Nga” của Nguyên Sa, một thi sĩ, trong giai đoạn đó, mới từ Pháp về. Nói về người yêu mà nói như thế! Nhưng miền Nam, trước hết, đã cho phép anh làm thơ để chỉ nói về những điều nhỏ bé như vậy, về những tình cảm rất cá nhân, nhưng cũng rất con người. Sau đó, vùng đất và cái văn học của vùng đất này cũng đã cho phép anh thử nghiệm những giọng điệu khác nhau để nói lên những cung bậc tình yêu khác nhau của con người. Anh sống ở đây và anh có tự do. Anh có quyền thở và thở theo cái nhịp riêng của mình. Đặc biệt, không ai nhòm ngó và can thiệp vào tình yêu của anh. Nếu nó buồn cười, dị hợm, và anh công bố nó ra trước thiên hạ, anh phải chịu trách nhiệm về lời công bố của mình. Nếu nó có vẻ buồn cười, nhưng lại duyên dáng và đánh được vào những sợi dây đàn cảm xúc của người đón nhận, anh được khen là thi sĩ. Và được người đọc yêu mến. Thậm chí bắt chước. Ở đây, anh được tự do. Nói hay không, và nói thế nào, hoàn toàn là quyền của anh. Sẽ không có người đòi kiểm duyệt và yêu cầu anh phải nói năng cho phải phép. Hoặc là cấm anh không được nói những điều cỏn con, đầy tính “cá nhân chủ nghĩa”, và đi ngược dòng với “tiếng hát chung” như thế. Mà phải lên tiếng về những gì vĩ đại hay cao cả hơn.
Ở miền Nam, anh có quyền nói ra những câu thơ như thế.
Hoặc những cách nói bâng quơ mà rất duyên dáng sau đây của Bùi Giáng:
Thưa em phố Huế bây giờ
Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương
hay:
Chấm ngòi bút sắt se vào mực
Viết ra câu thúc giục sương mù
Hay, nói bâng quơ mà người nghe cảm nhận được như có gì triết lý ở phía sau lời nói:
Xin chào nhau giữa con đường
Mùa Xuân phía trước, miên trường phía sau
Thi sĩ miền Nam có quyền bày tỏ tâm ý mình theo đúng cách mình nghĩ và mình thích. Tiếng nói của anh sẽ không bị mổ xẻ, hoặc bị đem ra “đấu tố” trong những buổi họp ban này hay ban khác. Hơi thở riêng của anh sẽ không bị “đấu tố”. Đó là hạnh phúc và là cái quyền mà người cầm bút miền Nam được trao tặng.
Bây giờ, hãy đọc những câu thơ này:
Đến anh thì đến hôm nay
Lỡ mai tuyết lạnh bảy ngày sẽ qua
Đến anh thân thể lụa là
Dài đuôi con mắt ngắn tà váy kiêu
Đến anh mở sẵn môi điều
Cho anh hôn xuống trăm chiều ái ân
Đến anh gót chớ phân vân
Để mai sau có trăm lần đến anh
Chờ em anh để râu xanh
Lòng xây bốn bức tường thành giam em. (2)
Đây là bài thơ có tựa đề là “Râu Xanh” của Cung Trầm Tưởng, làm vào năm 1965. Ý và tứ, cũng như hình ảnh, rất mới lạ. Cho dù nó đi theo thể lục bát. “Thân phận tình yêu” của người con gái được nhà thơ yêu sẽ ra sao khi phải đối diện với tình yêu “râu xanh” của người thơ? Lấy hình ảnh chuyện “con yêu râu xanh” của Charles Perrault, Cung Trầm Tưởng đã thử nghiệm với cách nói mới về tình yêu. Thử nghiệm với chính cái hơi thở của mình. Và bài thơ của người thi sĩ đã không bị lạc mất trong cách nói đồng phục của những người khác.
Cũng trong cách tìm tòi ý và tứ mới như thế, ta có thể để ý đến Trần Dạ Từ:
Hoa và trái một đêm nào thức dậy
Nghe mộng đời xao xuyến giấc xuân xanh
Con đường đó một đêm nào trở lại
Với gió mưa phùn trên cánh tay anh
Hoa bỗng nở và trái sầu bỗng chín
Tim xa xưa còn đó chút trông chờ
Máu thơ dại vẫn tươi mầu kỷ niệm
Bóng cây nào che mãi mắt hư vô…
Đây là hai đoạn đầu trong bài “Một Tháng Giêng” (còn có tên gọi khác là “Mộng Đời”) của ông. Ông dùng những ẩn dụ “hoa” và “trái” một cách mơ hồ nhưng đầy tính bí ẩn, thu hút để bắt đầu bài thơ. Người ta có thể để ý đến việc để nói về tình yêu, nhà thơ đã dùng những hình ảnh như “hoa” và “trái”. Rồi “đêm”. Rồi “mộng”. Vân vân. Nhưng còn “máu thơ dại” và “mắt hư vô” nữa. Có âm hưởng gì của thuyết hiện sinh ở đây không? Hay đó chỉ là những tiếng vọng của một bầu khí quyển bao trùm lấy con người trong cuộc. Hình ảnh và chữ nghĩa trong bài thơ, trong cái nhìn của riêng tôi, đã cho thấy ít nhiều những vọng âm của thời đại. Của thuyết hiện sinh với những khái niệm “hư vô”, “xao xuyến”. Của tâm phân học Freud với những ẩn dụ mang tính ức chế, libido, trong hình ảnh của những “hoa” và “trái”, “gió” và “mưa” và “mộng”. Và cũng có thể của tâm phân học Jung với những khía cạnh mang nét tâm lý miền sâu trong những kết hợp của “đêm” và “máu”, “thơ dại” và “mộng”. Và cả “máu thơ dại” nữa. Tất cả những điều ấy ánh xạ những hồi quang và vọng âm của cả một thời đại.
Cũng thế, đây có thể là một hơi thở thời đại khác trong thơ Trần Dạ Từ:
Thuở làm thơ yêu em
Trời mưa chưa ướt áo
Hoa cúc vàng bên thềm
Gió may lưng bờ dậu
Chiều sương dầy bốn phía
Lòng anh mấy ngã ba
Tiếng đời đi rất nhẹ
Nhịp sầu lên thiết tha
Thuở làm thơ yêu em
Cả dòng sông thương nhớ
Cả vai cầu tay nghiêng
Tương tư trời thành phố (…)
Đây là bài “Thuở làm thơ yêu em”, viết năm 1962, của Trần Dạ Từ. Tôi đã có cơ hội phân tích khá kỹ và đưa ra một vài nhận xét cũng như… rung động có tính hơi “vũ đoán” của mình (3) về nó. Ở đây, tôi muốn đặc biệt nhắc lại về bốn câu cuối cùng trong phần trích đoạn này. Nó làm tôi chợt nhớ xa gần về những câu thơ cũng rất đẹp của Apollinaire trong bài “Le Pont Mirabeau”, với hình ảnh của hai người yêu nhau. Thi sĩ Pháp đã tả hai người nam và nữ, hai kẻ yêu nhau, trong một tư thế thật đẹp, giống như trong một số bức tranh vẽ tình nhân của Chagall:
Les mains dans les mains restons face à face
Tandis que sous
Le pont de nos bras passe
Des éternels regards l’onde si lasse
Vienne la nuit sonne l’heure
Les jours s’en vont je demeure
Hoàng Hưng, một thi sĩ Việt Nam khác, sau này đã dịch khá đẹp là:
Cứ mặt nhìn mặt, cứ tay cầm tay
Cánh tay mình kết cầu này
Cho làn nước dưới kia chạy trốn
Những ánh nhìn muôn thuở chán chường thay
Cho đêm cứ về, cho giờ cứ điểm
Tháng ngày đi anh vẫn còn đây (4)
Hình ảnh cây cầu dịu dàng làm bằng vòng tay âu yếm của hai người yêu nhau trong thơ của Trần Dạ Từ và Apollinaire có thể là trùng hợp. Cũng có thể là những liên tưởng “liên văn bản”. Từ thi sĩ Việt Nam, hay từ một người đọc Việt nam. Vấn đề “liên văn bản” (5) là một vấn đề thú vị, cho thấy văn bản nào của bất cứ một tác giả nào cũng là một “liên văn bản”, bởi lẽ “viết”, trong những cái nhìn khác nhau của các lý thuyết hiện đại liên hệ đến “liên văn bản”, luôn luôn là “viết lại”. Viết lại một điều gì đó đã được một ai đó viết ra từ trước. Dĩ nhiên là với dấu ấn riêng của mình. Viết lại, với ý thức, và, trên hết, với vô thức, sau khi người viết đã đọc, đã thẩm thấu bao nhiêu là câu chuyện, lời thơ, văn bản khác nhau mà mình đã được đọc hay nghe trong đời. Tất cả chữ viết của con người, kết hợp lại, là một liên văn bản bất tận. Trong trường hợp “cây cầu” ở đây (như tất cả những hình ảnh khác mà ta có thể đưa ra phân tích trong bất kỳ một văn bản văn học nào), có thể là có một sự trùng hợp bất ngờ. Và, để lặp lại, cũng có thể đây là một hiện tượng “liên văn bản”, xảy ra với sự làm việc của vô thức nhà thơ. Nhưng ngay cả trong trường hợp đó, chỉ có thể sống ở miền Nam, nhà thơ Trần Dạ Từ mới dễ dàng có cơ hội tiếp cận, trong cái đọc của mình, với những hình ảnh và ý tưởng mới lạ, đang hiện diện trong văn bản của đủ loại người viết khắp nơi trên thế giới.
Dù sao, tôi cũng nghĩ, có khi, cách dùng từ “vai cầu” trong câu thơ này của Trần Dạ Từ chỉ là một cách dùng đặc biệt theo lối người miền Trung, đặc biệt người xứ Huế; nhất là khi người con gái ông yêu lại là người của đất Thần Kinh văn vật. “Vai cầu”, khi ấy, sẽ là hình ảnh mang tính hoán dụ của cây cầu Trường Tiền. Lấy một “vai cầu” để nói về cả cây cầu. Thi sĩ so sánh cây cầu như một cánh tay dịu dàng bắc ngang qua thành phố Huế. Và đó là thành phố của tình yêu, nói chung, thành phố của kỷ niệm yêu đương của nhà thơ, nói riêng. Đó cũng là một cái nhìn ẩn dụ. Và như thế, so với hình ảnh thuần ẩn dụ mà ta từng nhìn thấy trong cách phân tích trước, là cánh tay của hai người con trai con gái bắc qua vai nhau làm thành cây cầu dịu dàng yêu thương kia, hình ảnh hoán dụ pha lẫn ẩn dụ trong phân tích sau cũng có cái đẹp mềm mại và đáng yêu riêng của nó.
Nhìn thế nào đi nữa, tất cả cái đọc, cái suy nghĩ, cái tu dưỡng ngày này qua ngày khác, cộng với một tài năng riêng của mình, nhà thơ mới tạo được những câu thơ đẹp, trong một nhịp điệu đáng yêu như thế. Và tất cả những điều đó, những cái nghe, cái đọc, cái suy nghĩ, tu dưỡng ấy, phải nằm trong một vùng khí quyển nào đó. Người nghệ sĩ phải có cơ hội sống trong nó, thở hít cái vùng dưỡng khí ấy, cái vùng dưỡng khí tự do, mở rộng ra khắp bốn phương trời, thì mới có thể viết ra những ý, những lời như thế. Cái vùng dưỡng khí ở đây chính là cái khí quyển miền Nam mà ta đang nói đến.
Thi pháp, dù sao, có lẽ sẽ được nhìn thấy rõ nét nhất trong hình thức của câu văn. Ở thơ, hãy thử chỉ nói về thể lục bát. Cách ngắt nhịp thông thường và cổ điển nhất là ngắt nhịp chẵn.
Chẳng hạn, Nguyễn Du, với những bức tranh trong truyện Kiều:
Đầy vườn cỏ mọc / lau thưa
Song trăng quạnh quẽ / vách mưa rã rời
Trước sau / nào thấy bóng người
Hoa đào năm ngoái / còn cười gió đông
Xập xè / én liệng lầu không
Cỏ lan mặt đất / rêu phong dấu giày.
hoặc:
Người về / chiếc bóng năm canh
Kẻ đi / muôn dặm một mình / xa xôi
Vầng trăng / ai xẻ làm đôi
Nửa in gối chiếc / nửa soi dặm trường.
Bây giờ, hãy thử đọc bài thơ sau đây của một thi sĩ trẻ miền Nam:
Đò qua sông / chuyến đầu ngày
Người qua sông / mặc áo dài suông eo
Sông hiền / sóng lạ lùng reo
Trời bao la / cũng nhìn theo… / ái tình
Người qua sông / qua một mình
Nắng trên sông / nắng vàng hanh mái đầu
Xin em vài sợi tóc nhầu
Trói thân ta / với nghìn sầu / chung nơi
Mong em gìn lấy ơn trời
Thấy quanh năm / thấy ta đời tai ương!
Người qua sông / mặc áo hường
Nắng dương gian / nắng buồn hơn trước nhiều.
Người thi sĩ trẻ mà tôi nói ở đây là Nguyễn Tất Nhiên. Và bài thơ là bài “Chuyến Đò Cửu Long”. Người thi sĩ trẻ, vào lúc anh làm bài thơ này, năm 1972, đã thường xuyên phá đổ cái nhịp chẵn cổ điển của lục bát trong bài thơ của mình. Bài thơ của anh, phần nhiều đi nhịp lẻ, từ đó, cho thấy cái nét chênh chao, uốn lượn dập dờn của những con sóng. Sóng trên sông quê hương, và sóng trong lòng người. Sóng trong lòng anh.
Nhịp của bài thơ không có cái mượt mà, suôn sẻ của một tâm trạng hạnh phúc. Nó chập chờn, như do dự, như thiết tha, nhưng là cái thiết tha của một thứ “tình không/chưa dám ngỏ”. Nó quẩn quanh và nó phả ra một giọng buồn xa vắng. Như cái buồn của nắng trên dương gian. Hết cuộc đò, hay ở cuối chuyến đò, nhà thơ trẻ chỉ còn thấy rơi lại một mầu nắng. Từ “dương gian” trong câu thơ cuối này làm người ta liên tưởng đến một điều gì không mấy hạnh phúc. Như hình ảnh một linh hồn trở về nhìn lại dòng sông và chuyến đò, và cuộc tình (có lẽ là “một chiều”), đã chớm nở trong lòng mình một ngày trên cái “cõi dương” cũ kỹ. Tôi nghĩ cái nhịp thơ và, cũng có nữa, những chữ dùng trong thơ đã khiến tôi, như một người đọc, xúc cảm với bài thơ như thế.
Một thí dụ khác về cách phá nhịp lẻ của lục bát:
Hồn tôi / cái đĩa thâu thanh
Tròn nguyên nét nhạc / trung thành ý ca
Do / ré / mi / fa / sol / la
Ngẫm từng âm điệu / nghe ra chiều buồn
(“Chiều” của Cung Trầm Tưởng)
Câu thứ ba, như thế, đã được nhà thơ ngắt nhịp lẻ, một cách đầy sáng tạo, thành 1/1/1/1/1/1.
Về thơ, văn học miền Nam còn nhiều con người tài tuấn khác. Như Viên Linh hay Du Tử Lê. Như Nguyễn Đức Sơn, Phạm Thiên Thư, hay Tô Thuỳ Yên. Họ, cùng với nhiều nhà thơ khác, đã để lại dấu ấn của mình trong lòng người đọc. Và, đặc biệt, là Thanh Tâm Tuyền. Người đã, từ cái cội nguồn thơ tự do của Xuân Thu Nhã Tập và thơ thời kháng chiến, mở rộng cái biên độ của thơ tự do đến những cõi miền mới. (6)
Đã nói về thơ thì chúng ta cũng phải bàn về Văn.
Người đã có những đột phá rõ nét nhất trong việc làm mới câu văn, trong giai đoạn hai mươi năm văn học miền Nam, là Mai Thảo. Ngoài tài sử dụng chữ nghĩa một cách “diệu thủ”, ông cũng là người tiên phong trong việc làm mới câu văn Việt. Ông viết nhiều câu văn dài, gồm nhiều câu phức, liên kết, lồng ghép vào nhau, mà ý tứ vẫn rõ ràng và đẹp. Hoặc kiểu câu dài, nối kết nhau để diễn tả một dòng ý thức, như đoạn văn dưới đây. Đó là một dòng chảy và cháy không ngừng. Để ý, cả đoạn này chỉ là một câu được phát triển với những giới ngữ (prepositional phrases) dùng làm trạng từ chỉ thời gian.
Tôi muốn bảo Luân, anh nhớ đến em trong tiếng súng ban đêm, những vệt lửa dài cháy vào bóng tối, lúc bò núi sau lưng cái hình ảnh xót thương còn mang hình trái núi, lúc xuống đồng bằng trước mặt cái hình ảnh xót thương đã mang hình những ngọn lửa dài, lúc anh muốn chết, lúc anh muốn sống, lúc tuyệt vọng tối đen vực thẳm, khi tin yêu sáng chói mặt trời, lúc nhìn xa cái hình ảnh lớn theo ngút mắt, lúc tưởng gần cái hình ảnh thu cũng nhỏ vào một góc trái tim như một tấm hình kỷ niệm.
Đây là một đoạn văn trong truyện ngắn “Luân” của Mai Thảo. Trong đoạn kết của truyện này, Mai Thảo dùng những câu thật ngắn và gọn. Hai câu cuối cùng được tách ra thành một đoạn riêng. Tính chất ngắn, gọn của các câu văn ở đây khác hẳn tính chất đan kết, liên tục, mở rộng của những ý nghĩ reo vui như những bọt sóng trong một đoạn khác nói về tiếng nói của người con gái tên Luân; của những yêu thương bùng cháy không dứt như một vệt lửa cháy mãi trong đêm tối. Cái ngắn, gọn ở đây mang tính tragic pha với pathos. Nó nằm trong cái biểu tượng của con bướm chết. Một cái đẹp mong manh, tàn lụi trong cái vô nghĩa và vô tình của cuộc đời.
Sáng hôm sau, tôi xuống núi thật sớm. Như người đi trốn. Tôi không có can đảm ở lại để nhìn thấy cái hình ảnh lam lũ của Luân đẩy lưỡi cày trên nền đất rừng cằn cỗi. Trời đã sáng nhưng hai bên núi rừng còn yên lặng ngủ. Gần tới đường lớn tôi trông thấy một con bướm. Nó đậu trên một bụi cây thấp. Mình nó vàng ánh với những chấm đen ở hai đầu cánh. Tôi bắt lấy con bướm và bỏ đi không nhìn trở lại.
Suốt dọc đường tôi nghĩ đến Luân, đến Phạm, đến Trương, đến tôi. Lúc nhìn xuống, con bướm tự lúc nào đã chết nát trong lòng bàn tay.
Mai Thảo, trong cung cách làm mới câu văn, chữ nghĩa của mình, còn đặc thù ở chỗ viết những câu văn được cắt thật ngắn, gọn. Những câu văn có khi mềm, có khi sắc. Nhưng luôn luôn đẹp. Chẳng hạn:
(…) Mùa thu. Moderato, trong nhạc dân gian Phạm Duy. Lá vàng mùa thu. Doloroso, trong nhạc trữ tình Cung Tiến.
(…) Thơ tiền chiến về mưa thu, nắng thu lấp lánh thật nhiều châu báu, kim cương nơi thể thơ như một bình ngọc riêng được đúc ra để đựng hết mùa thu ngây ngất là thể thơ lục bát. Câu sáu đội mưa thu bay. Câu tám nhặt ngô đồng rụng.
(Văn số 40, 10/1985)
(…) Đích thực mưa xuân. Phơi phới, nghiêng nghiêng. Và lục bát trên những mái nhà. Và tứ tuyệt trên những đường phố. Và song thất ở những ngã tư. (…) Đêm qua thức giấc, thoáng nghe thấy, thật xa, những tiếng mưa trên những cảnh ngộ, những thân thế quê nhà. Tiếng mưa dài như một cuộc đời buồn. Những tiếng mưa tăm tối.
(Văn số 57, 3/1987) (7)
Một nhà văn khác của miền Nam cũng đã có những cách tân trong việc làm mới câu văn, tạo hình ảnh và nhịp điệu lạ lẫm cho riêng nó, là Nguyễn Đình Toàn. Nhiều câu văn của ông được kéo dài ra gần như một đoạn văn, với nhiều câu văn nhỏ được dính kết, lồng ghép hoặc xếp kề cận bên nhau, như từng mảnh rừng nhỏ. Rậm rạp. Và thơm. Và Nguyễn Đình Toàn đã đưa vào trong những câu văn mình cái khí hậu rất riêng do ông tạo ra. Một khí hậu đầy ắp sương mù. Quấn quyện. Lan toả. Và ôm lấy người đọc trong cái sinh quyển riêng của nó. Như một “câu văn” dài có tính điển hình sau đây trong tiểu thuyết “Áo Mơ Phai” của ông:
Cái lạnh, hơi nước, và đất ẩm quanh hồ, bám cả trên hai người, nhất là Lan dù đã lên đến bờ cứ còn chần chờ mãi chưa chịu đi về ngay, thành thử lắm lúc nàng làm cho Quang có cảm tưởng rờn rợn như là nàng bị ma quỷ của khu hồ nhập vào người, tiếng cười của Lan nghe lanh lảnh, hoặc có khi nàng lặng lẽ xếp lại những đồ dùng, quần áo tắm, gió từ dưới hồ thổi lên vẫn không ngớt làm cho quần áo đầu tóc nàng bay tung, những trận gió mang theo các đám sương nặng trĩu từ rừng cây xanh đặc bên vườn Bách Thảo vẽ những đường răn reo trên mặt sóng, mùi bèo nước, mùi rễ cây thối và xa hơn nữa, hương thơm của những vườn hoa trong khu Ngũ Xã trộn lẫn với nhau, lẩn khuất trong đám sương quần tụ trên mặt hồ, những đám sương dầy đặc đến nỗi dường vây kín lấy những dư âm hồi chuông của đền Quan Thánh vừa đổ xuống, làm cho không tan biến đi được, và khi dư âm của những tiếng chuông đó còn vương vất trên mặt sóng, trong trí tưởng bị huyễn hoặc, và ngay trên mặt da đã nổi gai vì lạnh, vì bị những ảo giác làm cho tê điếng, những tiếng chuông nhỏ hơn, nhưng gần hơn của chùa Trấn Quốc phía bên kia con đường, bên kia những hàng cây, khuất sau con dốc cao giống như một con đê nhỏ, lại chậm rãi gõ vào cái vắng lặng mênh mông đã vây quanh bốn phía, đó là lúc bóng tối đã xoá hết riềm cây xanh mờ của phía bờ hồ xa tít tắp, những âm hưởng cũ còn chưa tan hết, những âm thanh mới đã dội tới ép vào hai bên thái dương, cùng một lúc với mùi trầm hương phảng phất, trông Lan lúc đó chỉ còn là một cái bóng mơ hồ, nàng cử động, đi lại, cười nói như trong một giấc mơ (…)
Câu văn trên không có một dấu chấm; nhưng, thật sự, nó vẫn chưa chấm dứt. Tôi tạm chỉ ghi lại khoảng ba phần tư của nó. Đó là một câu văn dài với kỹ thuật ghép nối, thắt bện theo lối liên hoàn mà tôi đã thử ghi nhận ở trên. Cái đáng nói ở đây là, trong một câu văn như thế, Nguyễn Đình Toàn đã collapse (“dồn đẩy”), trong một số trường hợp, những câu văn nhỏ, có thể đứng độc lập, vào nhau. Và, cùng với hình ảnh và chữ nghĩa, cùng với cách lắp và ngắt đoạn, tiết nhịp của các hình ảnh cộng với nhịp điệu bằng trắc của từ ngữ, nhà văn đã tạo được một không khí, hay đúng hơn, một thứ khí hậu đặc thù vây hãm câu văn mình. Làm cho mọi thứ trong ấy như bám quyện vào nhau, có tính cách bội trương, và như được phủ lên bằng một dải sương mù, không dễ tan đi hoặc không vội tan đi. Tất cả tạo thành một vùng “hãm địa” thơ mộng vây kín lấy người đọc. Nhà văn đã đạt được hiệu ứng cần thiết cho câu văn mình. Trong sự làm mới, làm lạ nó. Và trong việc tạo một khí hậu truyện riêng.
Cách viết của Nguyễn Đình Toàn, phần nào, cũng làm cho ta nhớ đến Proust, trong “À la Recherche du Temps Perdu“, người đã viết những câu văn dài cả trang giấy. Với cấu trúc trùng bội (la duplication), kết cấu chính phụ (la subordination), và kỹ thuật phát triển vòng tròn (le développement cyclique), theo Jean Milly (8), những câu văn của Proust đa tầng và rất phức tạp, được phân nhánh chi chít như hình ảnh của một cây cổ thụ vĩ đại, những nhịp điệu, suy nghĩ cùng với các biện pháp chuyển nghĩa đan cài trong đó, khiến chúng được kéo dài ra hay được làm cho thành rậm rạp, “thậm phồn”. Hiệu ứng đạt được, trong cái nhìn của tôi, là một dòng ý thức như chảy tràn lan, vô tận trong những ngõ ngách của hồi tưởng, hoài nhớ.
Từ trái sang, hàng đầu: Lê An Thế (Hoàng Chính Nghĩa), Hoàng Quốc Bảo. Hàng giữa: Bùi Vĩnh Phúc, Nguyễn Đình Toàn. Hàng cuối: Nguyễn Mạnh Trinh
Không phải chỉ riêng Mai Thảo và Nguyễn Đình Toàn có những nỗ lực và thành công trong việc làm mới, làm lạ câu văn mình. Nhiều nhà văn khác của miền Nam cũng đã, trong những mức độ đậm nhạt khác nhau, làm được điều ấy. Ngoài ra, nếu không chú trọng vào việc làm mới câu văn, nhiều nhà văn miền Nam đã thành công trong việc thể hiện tư tưởng, suy nghĩ của mình trong cách thức diễn đạt, trong giọng điệu, hay trong cách xây dựng tâm lý nhân vật, ngôn ngữ nhân vật, ngôn ngữ trần thuật. Võ Phiến, Sơn Nam, Bình Nguyên Lộc, Võ Hồng, Doãn Quốc Sỹ, Nguyễn Mạnh Côn, Duyên Anh, Nhật Tiến, Viên Linh, Cung Tích Biền, Thế Uyên, Duy Lam, Nguyễn Thuỵ Long, Thảo Trường, Văn Quang, Nguyễn Xuân Hoàng, Nguyễn Mộng Giác, Tuý Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Nhã Ca, Trùng Dương, Trần Thị NgH., Lê Xuyên, An Khê, v.v…, đã là những nhà văn như thế. Ngoài những người này, miền Nam cũng còn nhiều nhà văn khác nữa mà ta không thể kể hết tên ở đây.
Thi pháp trong các tác phẩm cả thơ lẫn văn của văn học miền Nam, như đã nói, chính là cái cho ta thấy sự bắt nhịp, tính song song, nét hoà quyện với thế giới của nó. Trong cung cách thể hiện, trong việc “lập trình” tác phẩm. Không khí tự do, cởi mở và sự tiếp cận rộng rãi với thế giới của miền Nam đã tạo điều kiện cho các nhà văn của nó bước đi trên những con đường đầy mầu sắc ấy.
3. Một nền văn học đậm tính nhân bản, nhân văn
So sánh với văn học miền Bắc, vốn là một nền văn học mà âm hưởng, giọng điệu của nó phản ánh tính sử thi, thiên về việc thúc giục con người bước vào trận chiến, ca tụng chiến công, thậm chí tô mầu cho cuộc chiến (và miền Bắc có những lý do để theo đuổi con đường đó), văn học miền Nam phản ánh cái đau thương, mất mát của con người trong cuộc chiến nhiều hơn. Nó đi gần với những trạng thái nhân thế, những gập ghềnh, chao đảo trên nẻo nhân sinh của con người hơn. Có nghĩa là, trong văn học miền Nam, người ta có thể nhìn thấy những rung động, những tình cảm phản ánh toàn bộ những cung bậc sống của con người trong cuộc chiến. Đau thương, bi phẫn, khốn khổ, cay đắng, tuyệt vọng, lên án cuộc chiến. Lồng vào những xúc cảm đớn đau nhưng hết sức con người ấy, đâu đó, người ta cũng thấy có những niềm vui, những hạnh phúc nho nhỏ, cỏn con trong đời thường, những hãnh diện, tự hào vì vai trò của mình trong việc bảo vệ quê hương.
Nếu bức tranh của đời sống có thể bao gồm đủ mọi sắc độ cuộc đời, thì, không kể những niềm vui, những tiếng cười, những nét thắm tươi mà người ta vẫn có thể tìm thấy trong đời sống văn học miền Nam trong giai đoạn hai mươi năm này, những cung bậc đau thương nhất trong bản bi ca của con người cũng có thể được tìm thấy ở đây. Tôi gọi đó là những nét nhân văn. Những nét đẹp của con người. Văn là vẻ đẹp. Nhưng cái-đẹp-người cũng có nhiều khuôn mặt. Có khuôn mặt của hạnh phúc. Và có khuôn mặt của khổ đau. Tôi nghĩ những bức tranh đời trong các tác phẩm của Dostoievsky, những bức tranh đi gần với sự xót xa, đau khổ, dằn vặt của kiếp người, thật sự rất nhân văn. Nhà văn này đã nói, “Cái đẹp sẽ cứu chuộc thế giới”. Và cái đẹp của ông là gì? Chắc chắn là nó có bao gồm những điều muốn xé toạc thế giới, xé toạc trái tim con người, nhưng chính những điều ấy, cùng với sự hy sinh và kiên nhẫn của chính con người để chịu đựng chúng, từ đó vươn lên và chiến thắng, đã tạo nên cả khuôn mặt lẫn trái tim con người. Một nền văn học đi gần với những điều ấy, tôi gọi đó là một nền văn học mang tính nhân bản. Hơn nữa, nó phản ánh cái khuôn mặt mang nét nhân văn của nhân loại.
Người ta có thể đọc Dương Nghiễm Mậu hay Phan Nhật Nam để nhìn thấy rõ điều đó. Dù sống trong thành phố hay ở ngoài mặt trận, những con người cầm bút này đã trung thực viết nên những trang văn phản ánh cuộc sống chung quanh và trong trái tim mình. Họ đã đi dọc quê hương và đi dọc tâm hồn người để nhìn ra những điều đớn đau, xót xa và bi đát của thân phận con người trong cuộc chiến. Một cuộc chiến tàn khốc mà nhiều người viết miền Nam, kể cả những nhà văn này, đã vừa sống với vai trò của mình như một công dân, vừa sống với trái tim mình như một con người, để viết lên những trang văn thấm đẫm sự khổ đau, bi phẫn với một thái độ trung thực nhất.
Mà không phải chỉ có Phan Nhật Nam và Dương Nghiễm Mậu. Còn biết bao nhà văn, nhà thơ khác của miền Nam như Thảo Trường, Y Uyên, Nhật Tiến, Thế Uyên, Nhã Ca, Võ Phiến, Thanh Tâm Tuyền, Tô Thuỳ Yên, Tuý Hồng, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, cùng với bao nhiêu khuôn mặt, cây bút khác nữa, đã nói lên tất cả những trạng thái con người của cả một nửa dân tộc trong cuộc chiến. Họ thẳng thắn nhìn nhận những nỗi đau của con người, thân phận của nó, với những tân toan cay đắng cũng như ngọt bùi hạnh phúc, trong những nhát cắt, giống như những vết chém, những tia sét, của một cuộc chiến tàn khốc và vô lý. Họ nhìn thẳng vào những góc cạnh tan nát của gương mặt quê hương. Đôi khi, họ cũng lau mồ hôi và nước mắt trên khuôn mặt ấy, nhưng họ đã để cho cái nhân dáng ấy được nguyên là nó. Không tô vẽ. Không giấu giếm. Cho dù họ có xót xa, đau đớn đến mấy chăng nữa.
Mà cũng không phải chỉ mô tả hình ảnh một “quê hương tan rã” (nói theo ngôn ngữ của Chinua Achebe), những nhà văn miền Nam, trong khung cảnh chiến tranh tàn khốc, vẫn không quên theo dõi và mô tả cuộc sống và tâm hồn người như nó vẫn đang tiếp diễn, bất kể tên đạn và lửa cháy vây quanh. Họ mô tả cuộc sống bên trong và bên ngoài con người như nó vẫn đang vận hành, máy động. Tuý Hồng, Nguyễn Thị Hoàng, Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, Trùng Dương, Lệ Hằng, Trần Thị NgH., chẳng hạn, vẫn được phép viết về những thao thức của thân xác người nữ, của những đam mê cháy bỏng bên ngoài hay của những dằn vật, bùng bốc tình dục bên trong. Nguyễn Đình Toàn vẫn được viết về cái hơi nóng âm ỉ, như một hòn than trước khi nguội chết, của một ông già, khao khát một thân thể phái nữ. Nhân vật chính của ông, ở đây, như quán chiếu, nói thầm với chính lòng mình, với cơn khao khát mình, trong một không gian đầy sương mù của lãng quên. Và trong một giọng nói nhuốm đầy “khí hậu” mục rữa của tuổi già.
Hay như Nguyễn Thị Thuỵ Vũ, trong một truyện ngắn, đã viết về cái yếu đuối, tầm thường của một con người. Truyện ngắn “Lòng Trần” kể về cuộc đời của con người ấy. Nửa đầu là đời sống của một cô đào hát bội tài sắc, được bao người yêu chiều, săn đón; nửa sau, lấy chồng, là người đã mê man theo mình, chăm sóc từng chút cho mình trong cuộc đời duổi rong lưu diễn. Rồi chồng chết, cô cắt tóc đi tu, trở thành một sư nữ, sống một cuộc đời khổ hạnh, giữ gìn trai giới rất nghiêm cho tới lúc tuổi già. Thế mà, trước khi chết, trong cơn hấp hối, người nhà bu quanh, mong nghe những lời chỉ giáo cuối cùng, thì vị sư nữ già chỉ khát khao xin được húp một muỗng nước mắm. Và bà, lúc ấy, cũng chẳng còn nhớ mình là một vị sư nữ được bao người trọng vọng, nể vì. Bà chỉ còn nhớ mình là một cô đào hát bội mà thôi. Và người nhà đã từ chối bà muỗng nước mắm mà bà thèm khát ấy, với mong ước giúp bà đi cho trọn đường để thành chánh quả. Bà chết đi trong cơn hành hạ của thể xác vì không được thoả mãn mong ước cuối cùng. Trong một đất nước đang trong cơn binh đao, lửa máu, câu truyện về cái thèm muốn tầm thường, bé nhỏ ấy của con người vẫn được viết ra và được phổ biến tại miền Nam. Cái nhân bản, nhân văn, cái khuôn mặt người của văn học miền Nam, ở một mức độ và góc cạnh nào đó, cũng nằm trong ấy.
Như thế, văn học miền Nam, trong tất cả những sắc thái miêu tả nhân sinh, miêu tả cuộc đời, miêu tả cuộc chiến, và miêu tả tâm hồn con người ấy, đã cho thấy đầy đủ cái quang phổ của cuộc đời. Dù cái quang phổ ấy như thế nào đi chăng nữa, nó đã cho người ta thấy được con người. Và con người miền Nam cũng như tâm hồn của nó đã được chiếu sáng trong cái dải sáng, khi thì chập chờn, lúc lại chói gắt, nhiều mầu sắc ấy. Ở đó, chúng ta thấy một khuôn mặt người. Một khuôn mặt có những khi bị xé nát, dúm dó, đau khổ, quằn quại và đầy thương tích. Nhưng đó là một khuôn mặt người. Nó không phải một tấm mặt nạ.
4. Một nền văn học khai phóng, đa sắc, và đa dạng
Văn học miền Nam là một nền văn học khai phóng. Có thể chưa phải là “khai minh”, vì nó vẫn còn những vùng tối, những giới hạn, do những yếu tố thuộc cả về con người lẫn lịch sử. Nhưng đó là một nền văn học mở. Nó mở ra thế giới, đón nhận nhiều luồng gió mới với tất cả những màu sắc và đường nét của một thứ “hương xa”. Nó liên thông với thế giới, gắn bó mật thiết với tất cả những gì thuộc về con người. Sở dĩ như thế vì, trước hết, yếu tố căn bản của nền văn học này, để nhắc lại lần nữa, là tự do. Khái niệm và vấn đề hành xử quyền tự do ấy có thể được nhìn thấy trong nhiều lĩnh vực khác nhau.
4.1 Lĩnh vực Giáo dục
Trước hết là trong lĩnh vực giáo dục. Đây là một nền giáo dục mở, bắt nguồn từ những quan niệm đúng đắn và khai phóng. Trong giai đoạn đầu, những lớp học theo chương trình Pháp và Pháp-Việt đã đào tạo được một lớp trí thức có cái nhìn rộng và chắc chắn về văn chương và văn học thế giới. Lớp người này đã đóng góp được những cống hiến quý báu cả trong lĩnh vực sáng tác lẫn trong lĩnh vực đào luyện những thế hệ lớp sau, nối gót họ. Giai đoạn sau, khi môi trường giáo dục đã được chuyển hẳn qua chương trình Việt, những nỗ lực trao truyền và phát triển tiếp tục được thực hiện. Chương trình tiếng Việt dần dần được củng cố, cả ở cấp độ trung học và đại học. Và nó trở thành nguồn trao truyền và phát triển kiến thức trên đủ mọi mặt của học sinh, sinh viên Việt Nam.
Ngay tại trình độ trung học, học sinh đã được học tập và hướng dẫn để đón nhận những kiến thức nền, những kiến thức căn bản trong hiểu biết của con người về thế giới nói chung. Ngoài phần khoa học tự nhiên, họ được học hỏi về văn, về sử một cách khách quan, không định kiến. Và họ bắt đầu được làm quen với các khái niệm và những vấn đề căn bản của triết ở năm cuối trung học, trong những lĩnh vực Luận lý, Đạo đức, Tâm lý, và Siêu hình. Khi lên đến Đại học, người sinh viên bước vào một khung cảnh mới mẻ và nhiều tự do hơn nữa. Ở trình độ này, họ càng nhận thức rõ vai trò của người trí thức nơi thái độ độc lập trong suy nghĩ. Nền giáo dục đại học tại miền Nam được phát triển nhờ vào tính tự trị của đại học. Đại học không chịu áp lực hay ảnh hưởng của chính quyền.
Trên phương diện văn học, tại miền Nam, các giáo sư có thể giới thiệu với môn sinh mình đủ các thứ triết thuyết và trào lưu mới trên thế giới. Các giáo sư có thể có những thiên hướng về triết hoặc văn học trái chiều nhau, nhưng họ vẫn được công khai giảng dạy. Thậm chí, họ có thể trình bày và giảng dạy cả các khuynh hướng thiên tả hoặc về chủ nghĩa của Karl Marx mà không có vấn đề gì. Nguyễn Văn Trung, một giáo sư đại học và cũng là một nhà nghiên cứu, phê bình văn học, đã có thể phát biểu: “Cộng Sản, người anh em tôi”, như tựa đề một “nhận định”, một tiểu luận, của ông (Sau này, hình như đổi lại thành “Cộng Sản, người anh em thù địch”). Cũng trong tinh thần khuyến khích phát biểu, trao đổi và dám thẳng thắn trình bày suy nghĩ của mình, ông còn viết các cuốn sách như “Ca Tụng Thân Xác” và “Ngôn Ngữ và Thân Xác”, trong khi chúng ta hiểu rằng, trên căn bản, Việt Nam nói chung, và miền Nam nói riêng, lúc ấy, vẫn là một quốc gia chịu ảnh hưởng Khổng Mạnh. Ngoài ra, trong khung cảnh xã hội miền Nam giai đoạn đó, “thân xác” chưa được lên ngôi, và người ta vẫn dành cho tinh thần một ngôi vị cao quý. Thân xác, trong văn học và trên bề mặt đức lý, của tôn giáo cũng như của đời sống văn học, chỉ là một “vai phụ”, cho dù đôi khi cái “vai phụ” ấy cũng cất tiếng đòi hỏi quyền sống của nó.
Các sinh viên được khuyến khích tham dự tranh luận theo nhiều chiều, mở rộng nhãn quan và tư tưởng mình qua việc tiếp cận với những trào lưu, chủ nghĩa, triết thuyết khác nhau. Và tự do đại học là gần như tuyệt đối. Nguyễn Trọng Văn, một giáo sư Triết trung học và cũng là một người viết tiểu luận văn học trên một số tạp chí giai đoạn thập niên 1970, đã có thể thuyết trình tại đại học Văn Khoa Sàigòn đề tài “Phạm Duy đã chết như thế nào?”. Chúng ta nên nhớ là, trong giai đoạn đó, Phạm Duy vẫn là một nhạc sĩ rất nổi tiếng. Bây giờ, có một độ lùi thời gian để nhìn lại, có thể hiểu rõ hơn về những phức tạp trong nguyên nhân về vụ thuyết trình này, người ta lại càng nhận thấy rõ tinh thần tự do, mở cửa trong phát biểu, trao đổi, tranh luận trong không khí văn học và sinh hoạt học thuật của miền Nam thời ấy.
4.2 Ảnh hưởng của các triết thuyết
Triết cũng là một lĩnh vực quan trọng trong việc khai mở, khuyến khích sự suy nghĩ và đặt vấn đề của con người. Triết khuyến khích, thúc đẩy người ta đặt câu hỏi về vấn đề hiện hữu, hiện hữu với tha nhân, vấn đề sống cùng và sống với người khác, vai trò của tôn giáo, ý nghĩa của cuộc sống, về vấn đề luân lý, đạo đức trong đời sống, vấn đề bản thể của con người, hiểu biết về con người cũng như về những giới hạn của nó, v.v…
Triết khiến cho con người không phải là một thực tại “lù lù có đó”, mà là một thực thể hiện sinh sống động, có hơi thở và máu thịt. Và suy tư. Cogito. Sinh viên được đào tạo để hiểu biết về cả hai nền Triết Đông và Triết Tây, nhờ thế, có được sự quân bình trong hiểu biết, suy nghĩ của mình. Các trào lưu triết học được nghiên cứu và suy ngẫm. Những khuynh hướng khác nhau được bênh vực và chống đối. Và trong những sinh hoạt sôi động, phản ánh tinh thần trao đổi và học hỏi, người sinh viên được tập cho làm quen với những cái mới, cái khác. Và cũng từ đó, tập bao dung hơn với những điều không nằm trong quan điểm, lập trường của mình. Thái độ ấy làm cho con người tỉnh táo và sống một cách “nhân văn” hơn. Con người trí thức, vì thế, tuy được huấn luyện để có một khả năng phán đoán và chọn lựa, để có một “thái độ” và chủ kiến trong những vấn đề của cuộc đời, nhưng họ không được khuyến khích đi đến chỗ cuồng tín và gạt bỏ niềm tin hay sự xác tín, suy nghĩ của người khác.
Một lớp giáo sư, học giả có uy tín thời đó, có thể tạm kể những tên tuổi như Nguyễn Văn Trung, Trần Thái Đỉnh, Trần Văn Toàn, Lê Tôn Nghiêm, Nghiêm Xuân Hồng, Nguyễn Đăng Thục, Nguyễn Duy Cần, và nhiều người khác nữa, đã có những đóng góp về mặt này mặt khác, trong cả hai lĩnh vực Triết Tây và Triết Đông, đã là những đầu tầu đầy năng lực, kéo cái toa tầu triết miền Nam đi đến những vùng suy tưởng của đời sống tinh thần nhân loại.
4.3 Lĩnh vực Dịch thuật và Sáng tác
Nét khai phóng của văn học miền Nam cũng có thể thấy rõ trong lĩnh vực dịch thuật. Các tác phẩm dịch thuật chính là một cây cầu nối rõ rệt nhất đưa con người từ một nền văn hoá này đến một nền/những nền văn hoá khác. Nó làm giàu kinh nghiệm và nhận thức của con người. Qua tác phẩm đến từ những nền văn hoá dị biệt, người đọc miền Nam được tiếp cận với nhiều truyền thống văn học khác nhau, những lối sống, ứng xử, suy nghĩ, mơ mộng… khác với cung cách sống đời của họ. Người đọc miền Nam có dịp thâu thái những hiểu biết về con người, nói chung, trên tất cả các mặt như lịch sử, xã hội, tâm lý, văn hoá từ những ngọn nguồn khác biệt. Tất cả những điều đó làm phong phú thêm cái nhìn và sự cảm nhận của độc giả đối với những hiện tượng con người, những trạng thái nhân thế.
Theo Võ Phiến trong “Văn Học Miền Nam / Tổng Quan”, vào năm 1972, thị phần sách dịch chiếm đến 60% số đầu sách được xuất bản tại miền Nam; và đến năm 1973, nó đã lên đến 80%. Và theo Trần Trọng Đăng Đàn, trong “Văn Hoá, Văn Nghệ Nam Việt Nam 1954-1975”, số dịch phẩm tại miền Nam trong 20 năm đó có thể được chia ra thành: Pháp 499 cuốn, Đài Loan và Hương Cảng 358 cuốn, Mỹ 273 cuốn, Nga 120 cuốn, Anh 97 cuốn, Nhật 71 cuốn, Ý 58 cuốn, Đức 57 cuốn. Các nước khác chiếm 38 cuốn. Như thế, các sách được dịch, bao gồm cả sách nghiên cứu và các sáng tác, nhưng chủ yếu là tiểu thuyết, đến từ cả Âu châu, Mỹ Châu và Á Châu. Chúng chuyên chở suy nghĩ và kinh nghiệm sống của một mẫu dân số rộng lớn và bao quát, gần như bao gộp tư tưởng và đời sống của cả nhân loại. Ta có thể kể tên những dịch giả tài ba của Việt Nam, như Nguyễn Hiến Lê, Vũ Đình Lưu (Cô Liêu), Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Phùng Khánh, Phùng Thăng, Trần Xuân Kiêm, Bửu Ý, Ngọc Thứ Lang, Nguyễn Hữu Hiệu, Đỗ Khánh Hoan, Mặc Đỗ, Phạm Trọng Khôi, Đinh Bá Kha, Vương Đăng, và bao nhiêu dịch giả khác nữa. Tất cả đã kéo thế giới và tâm tình nhân loại về gần với con người Việt.
Cùng thời gian đó, trong lĩnh vực dịch, văn học miền Bắc không phải là không có những đóng góp. Nhưng hầu hết các dịch phẩm được phổ biến là từ Liên Xô và các nước Đông Âu trong quỹ đạo Cộng Sản. Những dịch phẩm này, ở một mặt nào đó, cũng làm giàu cho hiểu biết và sự nhận thức của con người Việt, nhưng, ở một mặt khác, đặc biệt với những sáng tác phẩm được viết trong cái khung của chủ nghĩa Cộng Sản, phản ánh lý luận và suy nghĩ có phần nào đồng phục và một chiều, biên độ nhận thức và những kinh nghiệm con người trong đó không được mở rộng. Chúng có những giá trị riêng về mặt nhân văn, nhưng có những cung bậc và mầu sắc phản ánh chưa đạt được tầm phổ quát của những cái nhìn nhân loại.
Miền Nam, trong lĩnh vực dịch, từ sự giới thiệu các triết lý, chủ thuyết, trào lưu văn học, đến các sáng tác của bao nhà văn nhà thơ tài ba khắp nơi trên thế giới, đã bơm vào một dòng máu mới cho sự nhận thức và mở rộng biên độ xúc cảm của người đọc. Nó gắn bó người đọc Việt với nhịp đập chung của con tim, của tâm tình nhân loại. Nó làm phong phú thêm cho người đọc, nhất là cho người viết miền Nam, sự hiểu biết về những kinh nghiệm con người. Nó đẩy họ đến việc khám phá chính trong đời sống và tâm hồn mình những vùng đất lạ, vốn, trước đó, đã có mặt, nhưng chưa từng được khai hoang. Thế nên, từ đó, sáng tác của các nhà văn, nhà thơ Việt trở nên hết sức phong phú, so với giai đọan trước 1954.
Sáng tác văn học của các nhà văn, nhà thơ Việt, từ đó, mang đủ giọng điệu, đề tài và phong cách. Con người sáng tạo trong nền văn học miền Nam như tìm được cái phần tâm hồn thiếu vắng của mình. Họ đào sâu vào những nhận thức, những rung động mới khám phá, mới tìm được. Và họ đã đem cái hiểu biết, cái kỹ năng mới về mắt nhìn cuộc đời cũng như về những cách thức mới để mô tả nó vào tác phẩm của mình. Con người trong các tác phẩm họ như được cấp cho nhiều chiều hơn. Và hình như nó cũng hạnh phúc và đau khổ hơn trước. Cả cái cay đắng, mệt mỏi, thất vọng, chán chường, lẫn cái ngọt ngào, lấp lánh, thiết tha, hy vọng của cuộc sống đều như ùa vào trong tác phẩm họ.
Bao nhiêu nhà văn, nhà thơ miền Nam đã tự nói, tự viết về mình, cũng như đã nói hộ, viết hộ, cho bao con người miền Nam, những tâm tư, tình cảm mà cuộc sống đã đẩy họ đối mặt với. Những nhà văn tiêu biểu và được người đọc nhận biết nhất đã được chúng ta thử nhận diện trong một phần trước, phần nói về cái hiện đại của văn học miền Nam. Dù sao, đó chỉ là một vài khuôn mặt và nhân dáng nổi bật. Văn học miền Nam trong giai đoạn này, thật sự, đã được làm nên bởi một tập hợp những người viết với những bản sắc khác nhau, những suy nghĩ và cách diễn tả, trình bày khác nhau. Cái quần thể tạo thành bởi tất cả những người viết ấy đã làm nên văn học miền Nam. Và cái văn học ấy, ở một mức độ nào đó, cũng đã làm nên con người miền Nam trong 20 năm của cuộc chiến. Và những con người đó vẫn đang còn sống, tan loãng và dàn trải vào cuộc sống mới mẻ tại quê nhà, cũng như vào cuộc sống mới ở khắp nơi, tại khắp các vùng đất có con người sinh sống trên mặt địa cầu. Và cái văn học ấy đã thấm đượm, tiếp tục làm cho họ sống và thở với những giá trị nhân bản và nhân văn mà họ đã, trong một giai đoạn sống, được tiếp cận trong đời.
4. 4 Sự nở rộ của báo chí, tạp chí văn học và ảnh hưởng của nó nơi người viết, người đọc
Tự do báo chí cũng là một yếu tố góp phần vào việc phát triển văn học miền Nam. Trong cả hai nền đệ nhất và đệ nhị Cộng Hoà tại miền Nam, báo chí đã giống như một vườn hoa muôn sắc, phản ánh tiếng nói, quan điểm và suy tư của cả một xã hội. Kể từ sau di cư 1954, tiếng nói của báo chí miền Nam đã hiện rõ với những tờ báo như Tự Do của nhóm Tam Lang, Mặc Đỗ, Mặc Thu, Như Phong, Nguyễn Hoạt, Vũ Khắc Khoan, Phạm Tăng, Đinh Hùng, và tờ Ngôn Luận của nhóm Hồ Anh. Rồi tiếp đến là những tờ như Người Việt Tự Do của Mặc Thu, Tiếng Miền Nam của Nguyễn Phương Thiệp, Tự Do của Lý Trung Dung (sau đó, thay vào bằng Phạm Việt Tuyền), Chính Luận của Đặng Văn Sung, Tin Văn của Tô Văn, Sống của Chu Tử, Thời Luận của Nghiêm Xuân Thiện, Tiền Tuyến của Lê Đình Thanh, Xây Dựng của Nguyễn Quang Lãm. Rồi Tin Sáng, Dân Chúng, Dân Đen, Chánh Đạo, Dân Chủ, Thời Đại, Dân Tiến, Sống Mới, Chuông Mai, Thần Chung, Điện Tín, Đại Dân tộc, Sóng Thần, Hoà Bình, Công Luận, v.v…
Chúng ta không thể kể hết được tên các tờ báo trong 20 năm văn học miền Nam. Đó là một sự nở rộ của báo chí, thể hiện nhiều lập trường và quan điểm khác biệt. Với những ảnh hưởng cả tích cực lẫn tiêu cực. Nhưng, tất cả những sự nở rộ đó đã cho thấy một không khí nhộn nhịp và náo động, nhưng khá nhiều chất tự do của miền Nam.
Ngoài các tờ báo, ta cũng phải nói đến sự phát triển và ảnh hưởng của các tạp chí văn học. Chúng ta có thể kể đến những tờ như Sáng Tạo của nhóm Trần Thanh Hiệp, Nguyễn Sỹ Tế, Doãn Quốc Sỹ, Thanh Tâm Tuyền, Mai Thảo (với sự cộng tác thường xuyên của nhiều tên tuổi trong giới văn học nghệ thuật thời đó như Quách Thoại, Lữ Hồ, Duy Thanh, Ngọc Dũng, Thái Tuấn, Tô Thuỳ Yên, Nguyên Sa, Bùi Giáng, Cung Trầm Tưởng); Hiện Đại của Nguyên Sa Trần Bích Lan; Bách Khoa của Huỳnh Văn Lang, (và, sau đó, Lê Ngộ Châu, với nhiều cây bút được độc giả theo dõi kỹ như Võ Phiến, Nguyễn Hiến Lê, Võ Hồng, Nguyễn Ngu Í, Vũ Hạnh, Nguyễn Văn Xuân, Đoàn Thêm, Bình Nguyên Lộc, v.v.); Đại Học của linh mục Cao Văn Luận (với những bài viết đầu tiên của Nguyễn Văn Trung, mang theo một luồng gió mới lạ vào tiểu luận, nhận định văn học với hướng phân tích hiện tượng luận theo thể điệu Sartre-Nguyễn Văn Trung); Nghệ Thuật của Mai Thảo, với thư ký toà soạn là Viên Linh; Thế Kỷ 20 với Nguyễn Khắc Hoạch; Quê Hương của Nguyễn Đăng Thục; Vấn Đề của Vũ Khắc Khoan; Văn Học của Phan Kim Thịnh; Văn Nghệ của Lý Hoàng Phong và Dương Nghiễm Mậu; Văn của nhóm Nguyễn Đình Vượng và Trần Phong Giao (và, sau đó, của Mai Thảo); ba tờ tạp chí Hành Trình, Đất Nước, Trình Bày của nhóm Nguyễn Văn Trung, Thế Nguyên, Lý Chánh Trung; Giữ Thơm Quê Mẹ của Nhất Hạnh. Rồi Nghiên Cứu Văn Học (Thanh Lãng), Tư Tưởng và Vạn Hạnh (nhóm Phật giáo thuộc viện Đại học Vạn Hạnh, nổi bật với Phạm Công Thiện, Bùi Giáng, Ngô Trọng Anh, Tuệ Sỹ, Nguyễn Hữu Hiệu), Đối Diện (và, sau đó, là Đồng Dao, ĐD, Đứng Dậy, của nhóm Công Giáo, với các linh mục Chân Tín và Nguyễn Ngọc Lan); Ý Thức (Lữ Kiều, Nguyên Minh), Khởi Hành, và sau đó là Thời Tập (Viên Linh), Thái Độ (Thế Uyên), Đời (Chu Tử) …
Tất cả các tạp chí/nguyệt san này, với những tác giả thuộc đủ mọi nhóm, đoàn, gốc gác địa lý, khuynh hướng xã hội, tôn giáo, hoặc trào lưu văn học, đã thể hiện tiếng nói, tư tưởng học thuật, quan điểm xã hội, lập trường chính trị của mình một cách rõ nét; từ đó, ảnh hưởng đến lối nhận thức, suy nghĩ, nhìn ngắm vấn đề của tầng lớp trí thức, nói riêng, và của người đọc miền Nam, nói chung. Qua những tạp chí văn học, đặc biệt là tờ Văn, người đọc miền Nam đã được giới thiệu để làm quen với những tư tưởng, trào lưu văn học mới nhất trên thế giới. Họ cập nhật được những kiến thức, hiểu biết về văn học, văn chương của thế giới. Và, cũng từ đó, những sáng tác phẩm của nhà văn miền Nam trong giai đoạn này đã bứt thoát khỏi cái ảnh hưởng của trào lưu lãng mạn tiền chiến để bước chân vào những vùng khai phá mới: tiểu thuyết mang mầu sắc hiện sinh, ảnh hưởng của chủ nghĩa cấu trúc, chủ nghĩa siêu thực, dấu ấn của phân tâm học, những sáng tạo theo khuynh hướng tiểu thuyết mới, v.v…
Việc thành công hay thất bại, cũng như nếu thành công thì ở mức độ nào, của những sáng tạo đó không phải là chủ đích của phần viết này. Ở đây, chúng ta chỉ ghi nhận là đã có những chuyển động, trên phương diện văn học, về phía những cái mới, qua sự ảnh hưởng của các tờ tạp chí đó. Thái độ của người dân trước những vấn đề của xã hội, của con người cũng được đào sâu, mở rộng hơn, trên một số khía cạnh. Người ta không sống thờ ơ, cạn cợt như trước được nữa. Trong một khung cảnh xã hội như thế, trước những vấn đề cấp bách, thiết thân với cuộc sống con người được mang ra mổ xẻ, đào xới đến tận gốc rễ như thế, con người, nếu không nhập cuộc, theo một cung cách nào đó, thì cũng đã cảm thấy mình gắn bó hơn với những vấn đề bức thiết của xã hội, với lương tâm của con người, của chính mình, và với hướng đi của đất nước.
III. Tóm Kết
Đặt trong sự phát triển chung của văn học Việt Nam, cũng như của văn học hiện đại thế giới, hai mươi năm văn học miền Nam đã có những đóng góp hết sức đáng kể. Nó cũng phản ánh văn học thế giới trong cuộc sống hiện đại. Dòng văn học ấy không bị cắt rời khỏi những tư tưởng, trào lưu chung của con người, đặc biệt con người hiện đại, với những dằn vặt, suy tư, trăn trở, khủng hoảng, tìm kiếm, và với những hạnh phúc, đớn đau, chán chường, tuyệt vọng, hay những nhận thức, ý thức về bản thể, về hư vô, về vai trò của con người như một khả thể, như một giá trị (một giá trị tự tại trong cuộc sống giữa đời, hay một giá trị siêu hình khi đối mặt với hư vô hay với ý nghĩa đời người). Con người trong các tác phẩm văn học miền Nam không mang tính chất mặc định, đông cứng. Mà nó được trình hiện ở đủ mọi góc độ, gam mầu, và trạng thái nhân gian.
Văn học miền Nam, qua đó, cũng gắn bó với các khám phá về những chiều kích tâm lý, những chiều sâu vô thức của con người. Văn học miền Nam, cùng với văn học thế giới, trong 20 năm đó, qua những hình thức mới, đã góp phần tìm hiểu và phản ánh con người như một thân phận và một giá trị: văn học đã đặt con người trước nhiên giới và nhân giới như những chứng nhân nhìn cuộc hiện sinh bi tráng, hân hoan hạnh phúc cũng như khổ đau hệ luỵ của nó. Nó cũng đặt con người cầm bút Việt Nam nói chung, các nhà văn nhà thơ Việt Nam nói riêng, trước lương tâm nhân loại. Nói như William Faulkner trong phần cuối của bài diễn văn nhận giải Nobel:
“Tôi tin tưởng là con người không chỉ chịu đựng để sống còn: nó còn thắng cả định mệnh của nó. Con người bất tử không phải ở chỗ nó là loài vật duy nhất trong các tạo vật cất lên tiếng nói không mệt mỏi về thân phận của chính mình, nhưng ở chỗ nó có một thần khí, một tâm hồn có khả năng trắc ẩn và hi sinh và chịu đựng. Nhiệm vụ của nhà thơ hay nhà văn là phải viết về những điều ấy. Trọng trách của nhà văn nhà thơ là phải giúp con người chịu đựng để sống còn bằng cách nâng cao tâm hồn con người, bằng cách nhắc nhở con người tới lòng can đảm và danh dự và hy vọng và kiêu hãnh và bác ái và từ bi và hi sinh đã là vinh quang huy hoàng của quá khứ nó. Tiếng nói của nhà thơ không nhất thiết chỉ là để ghi lại dấu chứng của con người, nó còn có thể là một trong những thứ nâng đỡ, những trụ cột giúp cho con người kiên trụ và chiến thắng.“ (9)
Trong hai mươi năm văn học miền Nam, các người cầm bút miền Nam nói chung, và đặc biệt trong quy chiếu giới hạn vào các nhà văn, nhà thơ Việt miền Nam, nói riêng, đã hoàn tất khá tốt đẹp điều đòi hỏi mà Faulkner, như một nhà văn tài năng của thế kỷ XX, và như một biểu tượng cao đẹp của lương tâm nhân loại, lương tâm con người, đã cất tiếng nhắc nhở: Nhà văn, ngoài nhiệm vụ giúp con người chịu đựng để sống còn, ngoài trách nhiệm nhắc nhở con người tới lòng can đảm và danh dự và bác ái và hi sinh đã từng là những điểm sáng soi chiếu vóc dáng nó, các người cầm bút VN, trong hai mươi năm văn học miền Nam, đã làm được công việc cần thiết và cao đẹp ấy: nhắc nhở con người về tính nhân bản mà nhiều khi nó đã bỏ mất, về sức sống và sự chịu đựng mãnh liệt để tồn tại và vươn tới của con người nói chung, con người Việt Nam nói riêng.
Văn học miền Bắc, trong bối cảnh và chủ trương riêng của mình, trong hai mươi năm của cuộc chiến, đã có những nét vẽ riêng, những bảng mầu, những cung bậc, tiếng nói riêng, để, phần nào, định dạng và định tính xã hội và con người miền Bắc. Qua đó, cũng cho thấy một khuôn mặt cần được nhìn ngắm của cuộc chiến, của lịch sử Việt Nam.
Văn học miền Nam, cũng trong giai đoạn khó khăn ấy, không hề rời xa truyền thống, bám rễ chắc chắn vào những giá trị bền vững và tốt đẹp của truyền thống, trong hai mươi năm sống và thể hiện sức sống của mình, nó đã tiếp tục phát triển và liên thông, nắm tay với thế giới, với con người trên khắp cõi đất, để bước chân vào thời hiện đại, với tất cả những nét khai phóng và đa sắc, đa dạng của nó, với tất cả những cung bậc, những gam mầu tuyệt vọng và thăng hoa của nó.
Văn học miền Nam, trong hai mươi năm ấy, đã phản ánh được con người, cái nhân văn của con người, cái tâm tình của con người.
Văn học miền Nam, trong hai mươi năm ấy, đã cho thấy rõ nét: Văn Học là Nhân Học. Nó đi vào cái cốt lõi, vào trái tim của Con Người. Con Người viết hoa nói chung, và con người Việt Nam nói riêng.
Bỏ mất đi phần đóng góp đầy mầu sắc cũng như những phản ảnh cao đẹp và cần thiết đó, văn học Việt Nam, trong giai đoạn phát triển tươi tốt ấy của rừng cây văn học nhân loại, còn lại gì?
Chúng ta, như những Con Người Việt Nam nói chung, còn lại gì?
Bùi Vĩnh Phúc
California, 7-XII-2014
_______________________________________
Chú Thích:
(*) Khai triển từ bài thuyết trình cùng tên của tác giả tại hội thảo về Văn Học Miền Nam 1954-1975 tại Westminster, Nam Califormia, ngày 6 & 7 tháng 12, 2014.
(1) Nguyên văn bài thơ “Chuyện Tình” của Đỗ Quý Toàn:
Ôi anh yêu em vì em biết nói
Em đã biết thưa em còn biết gọi
Buổi sáng trời mưa khiến anh nhớ em
Bây giờ trời nắng anh nhớ em hơn
Ngồi xuống đây đi nghe chim đang hót
Đồng cỏ bàn tay trời cao mắt ướt
Khi ngó nhau thôi còn biết nói gì
Hai đứa ngồi đó như hai hòn bi
Có cành hoa đẹp anh hái cho em
Em không thèm nhận anh chết cho xem
Và anh sẽ khóc miên man suốt ngày
Ôi chả bao giờ buồn như bữa nay
Này em yêu quý em có biết nghe
Trên cánh đồng cỏ có con bò kia
Nó kêu “bò” “bò” và nó ăn cỏ
Trời hôm nay cao, yêu em, hỡi gió
Và trên đỉnh đồi có cây to tướng
Ở một cành ngang có một tổ kiến
Có con đi ra có con đi vào
Trời hôm nay nắng, yêu em xiết bao
Này em yêu dấu em nào có hay
Hồi nãy trên trời có con chim bay
Có con chim nó bay qua trên trời
Trời xanh đến thế đôi mình lứa đôi
(2) Một dị bản khác, dài hơn, có những câu hay hơn, nhưng, trong cái nhìn của tôi, bố cục nói chung lại không chặt như dị bản đã ghi trên kia. Tôi ngờ rằng dị bản dài hơi dưới đây đã được nhà thơ sửa chữa và bổ túc thêm vào dị bản ngắn, đã được viết trước đó:
Đến anh thì đến hôm nay
Lỡ mai gió lật chở đầy mưa qua
Đến anh thân thể lụa là
Dài đuôi con mắt, ngắn tà váy kiêu
Đến anh lưng thắt chiết yêu
Sểnh tâm phá giới con diều ái ân
Gót ngờ rớt chín phân vân
Để sau một hóa mười lần đến anh
Chờ em anh để râu xanh
Lòng xây bốn bức tường thành giam em
Hồn anh em thắp lên xem
Ác như một chiếc lồng đèn kéo quân
Tình anh sương giá đầy sân
Cần em mái phủ cho thân ấm nhờ
Chuyện mình mới nửa trang thơ
Phải hai cùng viết trang thơ vẹn tình
Chờ em anh để râu xanh.
(3) Cũng nên nhắc lại là bất cứ diễn dịch nào, đặc biệt trong lĩnh vực văn chương, ở những mức độ khác nhau, đều có phần “vũ đoán”. Thậm chí, đều cần phải “vũ đoán”. Dĩ nhiên, trên một cơ sở lập luận nào đó. Tất cả mọi diễn dịch văn học đều mang tính chủ quan, và đó là một sự chủ quan mang tính bản thể luận. Xin xem Bùi Vĩnh Phúc, “Về Tính Vũ Đoán trong Viết, Đọc, và Thẩm Thức Văn Chương” (18/8/2009) tại http://damau.org/archives/8179 .
(4) Xem Hoàng Hưng: “Thảo luận về Dịch Thuật: Từ các bản dịch Le Pont Mirabeau, nghĩ về dịch thơ” (27/6/2014) tại http://vanviet.info/thao-luan/thao-luan-ve-dich-thuat-tu-cac-ban-dich-le-pont-mirabeau-nghi-ve-dich-tho/
(5) Liên văn bản nối kết nhiều loại văn bản khác nhau, từ nhiều nguồn, nhiều trung tâm văn hóa khác nhau, để làm thành một “tấm vải” đan kết chằng chịt bởi những trích dẫn khác biệt. Những “tấm vải” này sẽ có hình dáng khác nhau trong sự nhìn ngắm cụ thể của mỗi một người đọc. Với kinh nghiệm, cá tính, cùng tất cả những yếu tố khác tạo nên con người đặc thù của mình, người đọc sẽ nhìn ra trong tác phẩm mình đang đọc dần dần hiện lên hình dáng “tấm vải văn bản” của tác phẩm mà người ấy đang tiếp cận. Từ đó, dẫn đến ý nghĩa của tác phẩm đối với riêng người ấy. Khái niệm “liên văn bản”, như thế, gắn bó chặt chẽ với vai trò và cá tính của người đọc. Từ đó, nó lại liên hệ đến phương pháp phê bình dựa trên sự hồi ứng của người đọc (Reader-Response Criticism). Và, nói rộng hơn, nó liên hệ đến mỹ học tiếp nhận (Reception Theory) phát xuất từ trường phái Konstanz của Đức.
(6) Về Thanh Tâm Tuyền, đã có nhiều nghiên cứu đào sâu vào những gốc rễ tinh thần cũng như những góc cạnh hình thức của thơ ông, nên tôi xin phép miễn bàn thêm ở đây. { Năm 1986, tôi cũng đã viết một bài về thơ tự do của Thanh Tâm Tuyền, xin xem “Thanh Tâm Tuyền, người thi sĩ ấy”, đăng làm hai kỳ, tại http://www.talawas.org/talaDB/suche.php?res=5335. Năm 2006, khi nhà thơ qua đời, tôi cũng đã có bài về thơ Thanh Tâm Tuyền ở giai đoạn sau; xin xem “Biệt khúc cho Thanh Tâm Tuyền (Đọc lại Thơ Ở Đâu Xa)”, Talawas 21/4/2006, http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=6997&rb=0101, và tại Văn (California, Hoa Kỳ) số tưởng niệm Thanh Tâm Tuyền, số đôi 113 & 114, tháng 5 & 6, 2006.} Trong phần trình bày này, chỉ nên nói thêm rằng cái tài thơ ấy đã may mắn được nuôi dưỡng và phát triển trong một vùng đất tốt. Nó không bị còi cọc vì đã không bị kìm hãm, đè nén hay bứng gốc. Và nó đã cho ra những hoa trái tốt đẹp, như ta đã thấy.
Về thơ Tô Thuỳ Yên, trong khoảng trên dưới 15 năm trở lại đây, cũng có một số bài viết về thơ ông. Nhiều năm trước, trong giai đoạn 1992-1994, tôi cũng đã có một bài viết khá kỹ, sau đăng làm nhiều kỳ (xin xem “Tô Thuỳ Yên: Thơ, như một vinh dự lầm than của kiếp người”) tại http://www.talawas.org/talaDB/showFile.php?res=5411&rb=0102), nên cũng xin không nói thêm ở đây.
Viên Linh và Du Tử Lê cũng là những tài thơ đặc biệt của miền Nam. Về thơ Viên Linh trước 1975, bài tôi nhớ và có nhiều sự thích thú là bài “Đêm Trường”, với phong cách nửa lãng mạn, tiền chiến Hà Nội, nửa hiện đại, sáng tạo Sàigòn. Với cách dùng chữ tài hoa và hình ảnh độc đáo, tác giả đã tạo được một khí hậu đặc biệt cho bài thơ của mình:
Nhớ em rồi Cúc Hoa xưa
Đêm nay dưới ngói trời mưa tầm tầm
Nhớ em vèo cái thu âm
Hồn theo bóng ngoại
phân thân chín từng.
Nhớ em ly rượu còn lưng
So đôi đũa mộc cười bừng cơn say
Phải anh rồi phải anh đây
Bữa cơm hai bóng
một ngày phần dương.
Nhớ anh chưa Cúc mắt vàng
Cúc xanh mi Cúc biếc hường trái tim
Cúc đen đâu đó Cúc mềm
Vùi anh trong bụng
Cúc hiền như dao.
Năm năm đời trú mái sầu
Thời gian phai nhạt những mầu yêu đương
Nhớ em lần lữa chiếu giường
Đêm nay lại một đêm trường như xưa.
Còn thơ Du Tử Lê trước 1975, có lẽ một trong những bài tôi thích nhất là bài “Khi Người Về“:
Người về đâu không người không về đâu
Chiều chưa mưa nên chiều chưa thay màu
Tôi cây me đứng run từng lá
Lá đã vàng rồi tôi đã vàng theo
Tình người say không tình người không say
Đêm sắp sang nên đêm sắp ùa đầy
Hồn tôi ngủ sớm trong tay áo
Tay áo người bay hương ngất ngây (…)
Những câu thơ với những hình ảnh ẩn dụ, đẹp, mềm, và đầy thiên nhiên. Nhưng cái nhịp điệu của những câu thơ thì lại tạo ấn tượng quẩn quanh, buồn bã. Và như có chút gì ẩm mục. Ẩm mục, có lẽ, ngay cả cái mùi “hương ngất ngây” kia. Cái mùi hương ẩm mục của tình yêu mà những kẻ yêu nhau không ai lại muốn rời bỏ.
Đặc biệt hai tài thơ này, khi ra ngoài nước, lại ngày càng khởi sắc. Tôi nhớ Viên Linh với tập thơ “Thuỷ Mộ Quan”, và, đặc biệt, một đoạn trong bài “Ẩn Mật”:
Ba sinh hương lửa có gần
Gửi em đầy đủ
Thân
Tâm
Ý
Lời.
Gửi em tiếng khóc câu cười
Văn Chương, Hạnh Phúc, Cuộc Đời, v.v…
Hãy để ý đến từ “v.v…” viết tắt kia. Nó chui được vào thơ mới lạ. Và thần tình nữa.
Còn Du Tử Lê thì luôn có những nỗ lực làm mới ngôn ngữ. Ông cũng thường tạo ra những phân cảnh trong thơ. Như trong kỹ thuật của cinéma. Những phân cảnh lóng lánh và đầy thần sắc. Chẳng hạn:
mưa ủ bệnh: những con đường cớm nắng / tiếng hát còn ủ bệnh những chia, ly / tôi ủ bệnh: những ngày em nhập viện / cây góc vườn ôm ngực ốm o, ho.
lá ủ bệnh: những mùa hò hẹn, lỡ / môi-khuyết-trăng ủ bệnh nhớ thơ, nàng / chim ủ bệnh: giữa đường bay thất lạc. / tôi ủ tình: người trả lại. trăm năm.
áo ủ bệnh: dệt, thêu hương tóc bạn. / vá nụ cười lên vết rách chênh, chao / tôi ủ bệnh: những ngón tay nhiễm tội / trên thân người. ký ức nhịu chân đi.
ghế ủ bệnh: chỗ ngồi ai sớm bỏ / tội ngọn đèn tự chít lấy khăn tang / tôi tự quấn quanh đầu mưa, nắng, mới / biết người còn ủ giữ nụ hôn, đêm?
đời nhớ nhé: nhân gian kia hớn hở!?! / riêng tôi về ủ bệnh giữa hư vô.
(Ủ bệnh giữa hư vô, Du Tử Lê )
(7) Phần viết ngắn này về Mai Thảo cùng đoạn trích văn ở đây được lấy lại từ bài viết về Mai Thảo, của tôi. Xin xem “Văn chương Mai Thảo: biên địa của cảm xúc và cái đẹp, giao thoa với ý thức về đời sống“, trong Bùi Vĩnh Phúc, Lý Luận và Phê Bình/ Hai Mươi Năm Văn Học Việt Ngoài Nước (1975-1995). Westminster, California: Văn Nghệ, 1996.
(8) Theo Jean Milly, La phrase de Proust: Des phrases de Bergotte aux phrases de Vinteuil, Paris: Larousse, 1975.
(9) Nguyên văn của Faulkner: “ (…) I believe that man will not merely endure: he will prevail. He is immortal, not because he alone among creatures has an inexhaustible voice, but because he has a soul, a spirit capable of compassion and sacrifice and endurance. The poet’s, the writer’s, duty is to write about these things. It is his privilege to help man endure by lifting his heart, by reminding him of the courage and honor and hope and pride and compassion and pity and sacrifice which have been the glory of his past. The poet’s voice need not merely be the record of man, it can be one of the props, the pillars to help him endure and prevail.” (Trích từ Diễn văn nhận giải Nobel, 10 tháng 12, 1950)