Tobi Trần – Giám tuyển Độc lập
Trong thực hành giám tuyển tại châu Âu, triển lãm cá nhân của một nghệ sĩ chưa bao giờ được hiểu như một “sự kiện bán tác phẩm” dù yếu tố thương mại không hề bị phủ nhận. Vấn đề nằm ở trật tự của các giá trị vì triển lãm trước hết là một hành vi công bố, không chỉ công bố tác phẩm mà công bố một trạng thái tư duy, một giai đoạn của thực hành nghệ thuật, một nỗ lực tự đặt mình vào dòng chảy lịch sử hình ảnh và tư tưởng.
Nó là khoảnh khắc nghệ sĩ tự đưa mình ra trước xã hội với tất cả rủi ro của việc bị đọc, bị phản biện, bị hiểu sai hoặc thậm chí bị từ chối. Chính vì vậy, triển lãm cá nhân mang bản chất của một hành động văn hóa xã hội chứ không phải một chiến dịch tiêu thụ.
Trong cấu trúc đó, việc bán tác phẩm nếu có xảy ra thì sẽ luôn diễn ra trong im lặng, như một hệ quả tự nhiên của sự thuyết phục từ chất lượng tác phẩm và tư duy nghệ sĩ chứ không phải là mục tiêu được đặt ra ngay từ đầu. Nhà sưu tập nghiêm túc không đến triển lãm để “mua cho kịp” mà để quan sát xem nghệ sĩ đang đứng ở đâu, đang dịch chuyển theo hướng nào và liệu sự dịch chuyển ấy có đủ nội lực để tồn tại qua thời gian hay không. Họ đầu tư vào một quá trình chứ không phải vào một khoảnh khắc và họ mua giá trị của tác phẩm ở thì tương lai chứ không phải thì hiện tại.
Khi triển lãm bị biến thành một công cụ bán tranh được ngụy trang bằng ngôn ngữ công bố học thuật thì bản chất của nó lập tức bị thay đổi. Không gian trưng bày không còn là nơi đặt câu hỏi mà đã trở thành phòng trình diễn hàng hóa cao cấp. Văn bản triển lãm không còn là sự dẫn nhập tư tưởng mà là một hình thức tiếp thị được viết bằng giọng học thuật giả. Trong bối cảnh đó, nghệ sĩ không còn đối thoại với lịch sử nghệ thuật hay với xã hội mà họ đang đối thoại với thị hiếu tức thời của một nhóm người mua cụ thể. Tác phẩm được sinh ra để phù hợp với khả năng bán chứ không phải để giải quyết một vấn đề nội tại của thực hành nghệ thuật.
Điều đáng lo ngại hơn cả ở đây không nằm ở hành vi thương mại mà ở sự lệch pha về nhận thức. Khi tiêu chí thành công của triển lãm được đo bằng số lượng tác phẩm bán ra, nghệ thuật sẽ bị kéo ra khỏi chiều dài của thời gian và bị nén lại trong khoảnh khắc của giao dịch. Thành công trở thành một chỉ số ngắn hạn, trong khi nghệ thuật vốn vận hành trên logic dài hạn của tích lũy, lặp lại, sai lầm và tự điều chỉnh. Một triển lãm bán tốt có thể mang lại cảm giác an toàn tức thì nhưng đồng thời lại tước đi của nghệ sĩ khả năng sáng tạo mang tính mạo hiểm, thứ vốn là điều kiện cần để một thực hành nghệ thuật có thể phát triển.
Trong bối cảnh nghệ thuật Việt Nam hiện nay thì hiện tượng này không thể tách rời khỏi cấu trúc non trẻ của hệ sinh thái nghệ thuật. Khi thiếu vắng phê bình độc lập, thiếu bảo tàng đương đại vận hành đúng nghĩa, thiếu những không gian triển lãm đặt ưu tiên cho thử nghiệm và nghiên cứu thị trường mặc nhiên chiếm lấy vai trò định hướng. Nhưng thay vì đóng vai trò nâng đỡ thì thị trường lại trở thành thước đo duy nhất khi doanh số bán tranh được dùng để hợp thức hóa chất lượng tác phẩm và chất lượng này sẽ dần dần bị định nghĩa lại theo logic của doanh số. Đây là một sự trượt dài đầy sự nguy hiểm bởi vì nó tạo ra ảo giác rằng nghệ thuật có thể đi tắt, rằng không cần tích lũy học thuật vẫn có thể đạt được vị thế.
Hệ quả lâu dài của cách vận hành này không chỉ là sự nghèo nàn về ngôn ngữ hình ảnh mà còn là sự đứt gãy trong hồ sơ nghệ sĩ. Khi triển lãm không tạo ra được một luận điểm rõ ràng, không để lại dấu vết học thuật đủ mạnh thì nghệ sĩ khó có thể bước ra khỏi không gian mang tính địa phương.
Những triển lãm “thành công” về mặt bán hàng đó không thể chuyển hóa thành uy tín quốc tế bởi vì chúng thiếu nền tảng để được đọc và đặt vào bối cảnh rộng hơn. Nghệ sĩ có thể được nhắc đến bằng giá tranh, bằng số lượng tranh được bán ra nhưng lại không được nhắc đến bằng tư tưởng.
Từ góc nhìn của một giám tuyển đang thực hành theo tiêu chuẩn thực hành giám tuyển quốc tế, theo mình điều cốt lõi của triển lãm cá nhân không nằm ở việc có bao nhiêu tác phẩm rời khỏi không gian trưng bày mà ở việc sau triển lãm đó nghệ sĩ sẽ có thể đứng ở một vị trí khác so với trước đó hay không ? Có một sự dịch chuyển nào trong cách họ nhìn thế giới, trong cách họ sử dụng hình ảnh, trong cách họ đối thoại với chính lịch sử của mình hay không ? Nếu triển lãm không tạo ra được sự dịch chuyển đó thì dù có được gọi là thành công về mặt thương mại, nó vẫn là một thất bại về mặt văn hóa.
Nghệ thuật không phải là thứ cần được chứng minh bằng tốc độ bán nó. Nó cần thời gian để được đọc, được phản biện, được hiểu sai và được hiểu lại. Khi triển lãm cá nhân đánh mất vai trò là không gian của thời gian đó thì nghệ sĩ không chỉ đánh mất chiều sâu thực hành sáng tạo mà còn đánh mất tương lai của chính mình, một tương lai vốn chỉ có thể được xây dựng bằng sự chậm rãi, nghi ngờ và dấn thân chứ không phải bằng sự thuận lợi tức thì của thị trường.