Nhẹ nhàng mà day dứt khôn cùng

(Đọc tập truyện ngắn Hạt u minh của Trần Kiêm Trinh Tiên)

Trần Thùy Mai

Với những ai học Quốc học – Đồng Khánh vào những năm 70, Trần Kiêm Trinh Tiên là cái tên rất quen thuộc. Dù có quen thân hay không, thì hình ảnh Tiên vẫn gây ấn tượng với nhiều người: một thiếu nữ khuê các, dễ thương và nhu mì, một trong vài mỹ nhân của trường Đồng Khánh, cho đến tận bây giờ vẫn còn in bóng sâu đậm trong ký ức ngưỡng vọng của nhiều chàng trai Huế ngày ấy.

Trinh Tiên có duyên với văn chương từ thời còn đi học. Năm 1974, truyện Sao núi của Tiên – được ký tên với bút danh Trần Thị Thái Khương – được chấm giải nhất của báo Điện Tín trong cuộc thi “Viết cho Việt Nam Hoà Hợp”. Và bây giờ, tập truyện ngắn Hạt u minh của Tiên ra đời, gồm những tác phẩm Tiên đã viết trong một thời gian dài, sau khi đã rời Huế và thiên di qua những vùng miền rất xa.

Tập truyện này chỉ gồm tám truyện ngắn, nhưng ôm chứa trong lòng một thế giới rộng dài: những câu chuyện trong đó đã diễn ra trong khoảng thời gian hơn nửa thế kỷ, trong không gian trải rộng qua nhiều châu lục. Đó là những cuộc đời Việt tại Úc, Nhật, Pháp, Mỹ… Những câu chuyện khiến ta xúc động bùi ngùi, vì trong đó có rất nhiều hợp tan, mừng tủi và thương nhớ.

Tiên viết về những phận người, từ phía bên này, từ phía bên kia, da trắng, da vàng hay da nâu. Có nhân vật Timothy, người con trai Mỹ bị điều động đến Việt Nam, yêu một cô gái Huế rồi chết trên đất Huế trong một chiều mồng hai Tết định mệnh (Dáng xưa). Có nhân vật Thiều bỏ phố lên rừng theo kháng chiến, rồi nằm lại mãi mãi nơi một khúc quanh của dòng sông Hương. Chỉ còn lại chút di vật và lời gửi gắm, mãi đến mười mấy năm sau mới tìm ra điểm đến tại một ngôi làng xa xôi nước Pháp (Nguyệt cầm).

Chiều rơi trên trên cây Ginkgo là hai số phận trẻ thơ, một ở Nhật và một ở Việt. Sống trong hai thời đại, hai đất nước khác nhau, nhưng cùng khao khát có mẹ, cùng khao khát được học chữ. Hai câu chuyện ngậm ngùi như hai cơn gió buốt giá, đóng lại với tiếng khóc của “thằng Côi” vào một ngày không còn trẻ: “Tiếng khóc, tiếng nấc khiến ai cũng lặng người, nghe thảm sầu, tức tưởi, như đã cất giấu cả trăm năm trong lòng núi.”

Đoản khúc Melaleuca là chuyện về đôi vợ chồng trí thức Việt ở Sydney và bức tranh melaleuca mang tên “Nocturne”. Melaleuca là một loài cây hoang dại có lớp vỏ lụa đủ sắc màu, được những lưu dân đầu tiên đến Úc vào thế kỷ XVIII dùng làm chất liệu cho một loại tranh nghệ thuật. “…giữa bạt ngàn rừng Melaleuca, theo chân người bản xứ, họ bắt đầu học làm tranh bark cho vơi bớt nỗi nhớ quê xa.” Đôi vợ chồng Việt dồn sức làm tranh vỏ cây trong suốt mười năm, để dành dụm đủ tiền đưa các con từ Việt Nam sang đoàn tụ. Những bức tranh đã bán hết từ lâu, trừ một bức còn giữ mãi, bức tranh “Nocturne”. Trong tranh có hai con chim nhỏ lạc cánh trong sóng gió, là hình ảnh nỗi đau không bao giờ nguôi về hai đứa con đã mất tích giữa biển khơi.

Bản giao hưởng câm là câu chuyện của thầy Sáu, người giúp lễ nhà thờ, mà cuộc đời đã trải qua hai lần dang dở. Lần đầu vì thời cuộc ở Việt Nam, thầy phải gác lại ý nguyện dâng cuộc đời cho Chúa; lần thứ hai khi đến Mỹ lại tan vỡ một gia đình hạnh phúc, bởi những giấc mơ nhỏ hiền hòa không tồn tại nổi trong cuộc sống mới đầy áp lực. Thầy trở lại nhà dòng với trái tim không bao giờ thôi khắc khoải: “Lạy Chúa, con biết sáng mai chim vẫn hót trên cành cao, hoa huệ vẫn nở trắng ngoài đồng, mà sao lòng con đôi khi vẫn chưa tìm thấy được sự bình an?”

Tất cả những phận người ngang trái ấy, vốn dĩ là kết quả của những biến động lịch sử dữ dội, lại được Trinh Tiên kể lại bằng một giọng nhẹ nhàng, rất nhẹ nhàng. Tiên kể, từ tốn, nhỏ nhẹ, khiến ta có cảm giác như đang nghe những giọt nước tí tách nhỏ xuống từ trong lòng đá xanh rêu. Không, thật ra Trinh Tiên không kể chuyện, không đưa người đọc theo một hành trình từ đầu đến cuối của từng tự sự. Câu chuyện thường bắt đầu từ một điểm bất kỳ; người đọc phải theo mạch cảm xúc của Tiên, trăn trở, ngược xuôi, lui tới trong trong dòng thời gian để tìm ra logic của câu chuyện. Hình như những số phận này đã trở thành di chỉ vùi sâu trong lòng đất, chỉ dần dần lộ ra từng phần, từ khi một nhát cuốc tình cờ chạm tới. Cũng như thao tác của nhà khảo cổ, Trinh Tiên phục dựng lại câu chuyện của dĩ vãng một cách tỉ mỉ, chậm rãi, gần như nâng niu từng chút một. Thế rồi, từ trong thế giới tâm cảm ấy, những cơn bão gầm thét nhất đã được gợi lên trên chính cái lặng lẽ buốt lòng của hoài niệm.

Âm hưởng của truyện, cũng vì vậy, tuy nhẹ nhàng mà day dứt khôn cùng. Day dứt, vì cái dữ dội của tình huống thường được nén lại rất sâu, chỉ hé lộ qua một khoảnh khắc cảm xúc nhói buốt nhất. Chuyện người đàn bà Việt bị hải tặc xâm hại trên thuyền vượt biển đã được kể rất nhiều, nhưng câu chuyện của Trinh Tiên gây ấn tượng với đặc tả về cảm giác của nạn nhân khi sóng biển vỗ tràn lên boong tàu, khiến cả cơ thể và linh hồn bị xát muối đến tận cùng buốt rát. (Trong khu vườn chim hót). Day dứt, như hình ảnh cô bé bị bán làm vợ một lão già bảy mươi, mà chỗ làm ta nghẹn lòng nhất không phải là tiếng khóc tấm tức của cô dâu chín tuổi, mà là câu hỏi thơ ngây của cậu bé Samad: “ Mày thích làm cô giáo như cô Asmaan. Bao giờ mày về lại? (Chim vạc con ở Badghis).

Với tập truyện này, Tiên không chủ tâm viết về Huế, nhưng Huế vẫn bàng bạc trên từng câu chữ. Đó là một xứ Huế mà theo Tiên, “nhỏ xíu và luôn cay như một chén rượu”. Đó là Huế vào thập kỷ 70, một Huế nhỏ nhắn ngậm ngùi, diễm lệ trong tàn phai, đài các giữa phong trần. Huế, với những khu vườn có hàng chè tàu xanh lá quanh năm, nơi mà “cây trái nhiều đến nỗi chim se sẻ không bay qua lọt”; nơi có những cô gái hiền lành nhưng nghịch ngợm, thường trốn ra vườn hái khế với gói muối ớt giấu kỹ trong áo, bởi mẹ dặn con gái không được leo cây giữa trưa kẻo ma thu mất bóng. Huế, với hình ảnh những khuê phòng thiếu nữ, có chiếc áo dài lụa Hồng Hoa màu vàng trên móc áo, có đôi giày escarpin màu trắng bên gầm tủ. “Thuở ấy con gái Huế vẫn mặc áo dài lụa giữa mùa đông, khoác thêm áo len bên ngoài với khăn quàng cổ…”. Cùng lúc, đó cũng là Huế phập phồng lo âu trong chiến tranh, với những đêm đại bác vọng về thành phố, lúc mẹ trải chiếu dưới gầm phản gọi đàn con xuống nằm, miệng không ngớt niệm Phật cầu mong phù hộ…

Tuyển tập truyện ngắn Hạt u minh là những câu chuyện của thời chiến và thời hậu chiến, được kể lại sau nửa thế kỷ, với cảm nhận từ trái tim mẫn cảm và nhân hậu của một phụ nữ Việt. Nhiều thập kỷ đã qua, những chia lìa, mất mát đã qua, vết thương đã lành dù di chứng của chấn thương vẫn tiềm tàng đâu đó. Dẫu sao, thời gian đã cho đủ một độ lùi để mỗi người tự giải thoát mình ra khỏi những phẫn nộ, oán hờn; để đến hôm nay có thể nhìn về dĩ vãng với nỗi ngậm ngùi, để xót thương cho từng cá thể đã đến với cuộc đời này, từ những hạt u minh trong ba nghìn thế giới.

Đọc đến dòng cuối cùng của tập truyện, tôi tưởng chừng trước mắt hiện ra gương mặt của Trinh Tiên trên trang viết: một gương mặt thật hiền, với nụ cười dịu dàng và đôi mắt rưng rưng lệ.

San Francisco, 15/12/2024

This entry was posted in Nghiên cứu Phê bình and tagged . Bookmark the permalink.